Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tác động của xâm ngập mặn đến đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 15 trang )

Đại học Tài Nguyên Và Môi Trường Thành Phố Hồ Chí Minh

Khoa Môi Trường

Môn Học: Biến Đổi Khí Hậu

Đề Tài: Tác động của xâm ngập mặn đến đồng
bằng sông Cửu Long

GVHD:
Thảo

Nguyễn

Trung

Nhóm 9-08QLMT2
+Nguyễn Thanh Phong
+Phạm Minh Triều
+Trần Thị Thanh Yến
+Đỗ Thị Thu Trang

Tháng 11/2016


Mục lục
I-Giới thiệu chung về Xâm ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long..............................3
1.Vị Trí.........................................................................................................................3
2. Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu long...........................................................4
2.1 Định nghĩa..........................................................................................................5
2.2 Ảnh hưởng của xâm ngập mặn..........................................................................5


2.3 Tình hình xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu long.....................................6
II. Tác động của xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu long.........................................7
1.Thực trạng xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu long..........................................7
2.Nguyên nhân xâm ngập mặn...................................................................................10
4.Giải pháp.................................................................................................................13
III. Kết Luận..................................................................................................................15


I-Giới thiệu chung về Xâm ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long
1.Vị Trí

Đồng bằng sông Cửu Long
Việt Nam có bờ biển dài 3.260km, hơn một triệu km2 lãnh hải và trên 3.000 hòn
đảo gần bờ và hai quần đảo xa bờ, nhiều vùng đất thấp ven biển.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long là một vùng cực nam của Việt Nam, còn được
gọi là Vùng đồng bằng Nam Bộ hoặc miền Tây Nam Bộ hoặc theo cách gọi của người
dân Việt Nam ngắn gọn là Miền Tây, có 1 thành phố trực thuộc trung ương là thành
phố Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An (2 tỉnh Long An và Kiến Tường cũ), Tiền Giang
(tỉnh Mỹ Tho cũ), Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang (tỉnh Cần Thơ cũ), Sóc
Trăng, Đồng Tháp (2 tỉnh Sa Đéc và Kiến Phong cũ), An Giang, Kiên Giang (tỉnh
Rạch Giá cũ), Bạc Liêu và Cà Mau.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2011, tổng diện tích các tỉnh,
thành thuộc Đồng bằng sông Cửu Long là 40.548,2 km² và tổng dân số của các tỉnh
trong vùng là 17.330.900 người. Nó chiếm 13% diện tích cả nước nhưng hơn 19% dân
số cả nước, tốc độ tăng trưởng cao hơn cả nước (năm 2015 tăng 7,8% trong khi cả
nước tăng 6,8%). Chỉ riêng cây lúa đã chiếm 47% diện tích và 56% sản lượng lúa cả
nước; xuất khẩu gạo từ toàn vùng chiếm tới 90% sản lượng. Chưa kể thủy sản chiếm


70% diện tích, 40% sản lượng và 60% xuất khẩu của cả nước,... Tuy nhiên, Đồng

bằng sông Cửu Long đứng về phương diện thu nhập vẫn còn nghèo hơn cả nước: thu
nhập bình quân đầu người với mức 40,2 triệu đồng (cả nước là 47,9 triệu
đồng/người/năm)
Nước biển dâng cao sẽ làm thay đổi môi trường sống nhiều loài sinh vật biển,
trước hết là tôm cá tự nhiên. Các mô hình nuôi thủy sản truyền thống có nguy cơ bị
phá sản. Quá trình xâm nhập mặn vào nội đồng sẽ sâu hơn, tập trung tại các tỉnh Cà
Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An và nước ngọt sẽ
khan hiếm nhiều hơn. Bờ biển, bờ sông sẽ bị xâm thực mạnh hơn, sản xuất nông
nghiệp có nguy cơ suy thoái, nhất là cây lúa, hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
khác cũng bị ảnh hưởng lớn. Đời sống của hàng triệu dân sẽ bị xáo trộn.
An Giang là một trong bốn tỉnh (An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ và Cà Mau)
thuộc vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng sông Cửu Long, đang chịu nhiều ảnh
hưởng do biến đổi khí hậu toàn cầu. Đất đai bị bạc màu, đa dạng sinh học bị giảm
mạnh, diện tích đất bị xâm nhập mặn, khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng, nhiệt độ
tăng cao và hạn hán bất thường, lũ lụt không theo quy luật, nhiều dịch bệnh mới hình
thành...đã tác động không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, đe doạ
đến đời sống và hoạt động của người dân trong tỉnh.
Cùng với lượng mưa biến đổi thất thường sẽ là tình trạng nước biển dâng dự báo
sẽ tăng từ 28-33cm vào năm 2050, 42-57cm vào năm 2070 và 65-100cm vào cuối thế
kỉ 21 và có tác động mạnh đến các hoạt động tưới tiêu, chống lũ của các lưu vực sông.

2. Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu long


2.1 Định nghĩa

Xâm nhập mặn là sự tích tụ quá nhiều muối hòa tan trong đất Xâm nhập mặn bên cạnh
sự axit hóa là một trong hai kết quả lâu dài của sự phát triển đất Xâm nhập mặn xảy ra
khi sự bốc hơi trong sáu đến chín tháng trong một năm lớn hơn lượng mưa Thêm vào
sự phát triển tự nhiên của đất, xâm nhập mặn được tăng tốc đáng kể thông qua hành

động của con người như quá trình thủy lợi.
Biến đổi khí hậu đang làm cho các đại dương ấm lên. Từ năm 1961 đến năm 2003
nhiệt độ đại dương toàn cầu tăng bình quân 0,10 oC. Nhiệt độ tăng làm cho tăng dung
tích nước của các đại dương đồng thời làm cho băng tan từ các vùng cực Bắc và Nam
cực, từ các khối băng tiềm tàng trên các núi cao. Hệ quả của các hiện tượng này là quá
trình nước biển dâng sẽ mở rộng vùng xâm nhập mặn, thu hẹp diện tích vùng nước
ngọt

2.2 Ảnh hưởng của xâm ngập mặn


Xâm nhập mặn sâu làm giảm năng suất của sản xuất nông nghiệp, thiếu nguồn nước
ngọt phục vụ nông nghiệp. nuôi trồng thủy sản cũng là một trong những lĩnh vực chịu
tác động mạnh. Số liệu thống kê ban đầu của Tổng cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn) cho thấy, diện tích nuôi thủy sản thiệt hại là 3.771ha, chưa kể
diện tích nuôi cá tra bị thiệt hại. Đặc biệt, Cà Mau có trên 70% diện tích nuôi thuỷ sản
bị thiệt hại (2.700 ha), kế đến là Trà Vinh, Bến Tre có diện tích bị thiệt hại từ 30-70%.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ chịu tác động xấu khi chế độ nước ngập sâu bị
thay đổi do nước biển dâng cao. Quá trình xâm nhập mặn ở mức độ cao có thể hủy
diệt thảm thực vật và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tram. Bên cạnh đó,
nếu nước biển dâng cao, an ninh lương thực quốc gia sẽ bị đe dọa và đời sống nông
dân nghèo trong khu vực sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Theo dự đoán của Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), các tác động trên
sẽ gây thiệt hại khoảng 17 tỉ đồng mỗi năm và khiến khoảng 17 triệu người không có
nhà.

(Hình ảnh nước bị nhiễm mặn và ruộng lúa bị khô hạn do thiếu nước ngọt)

2.3 Tình hình xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu long
Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực chịu ảnh hưởng rất lớn của xâm nhập mặn, đặc

biệt vào mùa khô, khi nước ngọt từ sông Mekong đổ về không đủ để thau chua, rửa
mặn. Về cơ bản hạn hán luôn đi kèm với xâm nhập mặn và tác động trực tiếp đến đời
sống của hàng triệu người dân nơi đây, gây tổn thất mùa màng và thiếu nước.
Theo kịch bản biến đổi khí hậu, mực nước biển tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long
có thể dâng cao thêm 100 cm vào năm 2100. Khi đó 40% diện tích khu vưc này sẽ bị
nước mặn xâm nhập. Quá trình này đang âm thầm diễn ra khiến đồng bằng sông Cửu
Long trở thành một trong những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất.


Bên cạnh đó các hình thái cực đoan của thời tiết như nắng nóng kéo dài, lượng mưa ít.
giảm sút các mạch nước ngầm đã làm gia tăng quá trình xâm nhập mặn và thiếu thốn
nước sinh hoạt hay nước cho canh tác nông nghiệp.
Thống kê của nghiệp từ năm 2000-2013 cho thấy tổng diện tích rừng trồng bị thiệt hại
11.758ha. Tình trạng xói lở bờ biển và lan truyền của nước mặn vào sâu trong nội
đồng, lựa chọn cây trồng không phù hợp với lập địa, vốn đầu tư thấp, tình trạng chặt
phá rừng, lấn chiếm rừng để nuôi thủy sản đã tác động xấu đến diện tích rừng ngập
mặn ven biển nơi đây.

II. Tác động của xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu long

1.Thực trạng xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu long
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xâm nhập mặn là do ảnh hưởng của
El-Nino năm 2015, nên mùa mưa đến muộn, nhưng kết thúc sớm, tổng lượng mưa
trên lưu vực thiếu hụt so với trung bình nhiều năm từ 20%-50%..


(Bản đồ phân vùng nhiễm mặn ở đồng bằng sông Cửu Long)
Khu vực sông Vàm Cỏ: Độ mặn lớn nhất đạt 8,1÷20,3 g/l, cao hơn TBNN từ
5,9÷6,2 g/l; phạm vi xâm nhập vào đất liền của độ mặn 4g/l (mức bắt đầu ảnh hưởng
đến cây lúa) lớn nhất 90÷93 km, sâu hơn TBNN 10÷15 km.

- Khu vực các cửa sông thuộc sông Tiền: Độ mặn lớn nhất đạt 14,6÷31,2 g/l, cao
hơn TBNN từ 3,2÷12,4 g/l; phạm vi xâm nhập vào đất liền của độ mặn 4g/l lớn nhất
45÷ 65 km, sâu hơn TBNN 20÷25 km.
- Khu vực các cửa sông thuộc sông Hậu: Độ mặn lớn nhất đạt 16,5÷20,5 g/l, cao
hơn TBNN từ 5,9÷9,3 g/l; phạm vi xâm nhập vào đất liền của độ mặn 4g/l lớn nhất
55÷60 km, sâu hơn TBNN 15÷20 km.
- Khu vực ven biển Tây (trên sông Cái Lớn): Độ mặn lớn nhất đạt 11,0÷ 23,8 g/l,
cao hơn TBNN từ 5,1÷ 8,4 g/l; phạm vi xâm nhập vào đất liền của độ mặn 4g/l lớn
nhất 60÷65 km, sâu hơn TBNN 5÷10 km.
Trong thời gian tới, mặn tiếp tục xâm nhập, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, khả
năng kéo dài đến đầu mùa mưa (khoảng cuối tháng 5/2016). Cụ thể, như sau:


- Các vùng cách biển đến 45 km: Nguồn nước ngọt xuất hiện rất ít và gần như không
có khả năng lấy nước ngọt từ cửa sông, gây ra tình trạng thiếu nước cho sản xuất và
nước sinh hoạt.
- Các vùng cách biển từ 45÷65 km: Có khả năng bị mặn cao (>4g/l) xâm nhập. Nếu
mưa đến chậm, xâm nhập mặn có thể kéo dài đến tháng 6/2016. Trong thời kỳ này,
vào những đợt triều cường mặn sẽ xâm nhập sâu. Tuy nhiên, vào thời kỳ triều kém và
chân triều có khả năng xuất hiện nước ngọt.
- Các vùng cách biển xa hơn 70÷75 km: Tuy ít gặp xâm nhập mặn 4g/l, nhưng cũng
cần lưu ý trong các đợt triều cường, và vẫn là vùng xâm nhập của nước mặn nồng độ
dưới 4g/l, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt.
Mực nước thượng nguồn sông Mekong tiếp tục xuống nhanh và thấp nhất trong vòng
90 năm qua. Mùa khô năm 2015-2016, do thiếu nước ngọt, mặn đã xuất hiện sớm hơn
so với cùng kỳ hằng năm (sớm hơn 02 tháng), khả năng kết thúc muộn hơn (01 tháng),
xâm nhập sâu vào Đồng bằng sông Cửu Long, do đó đã gây thiệt hại nặng nề cho
nhiều địa phương.
Trên thực tế, đã có 104.000 ha bị ảnh hưởng nặng, thiệt hại lớn nhất là các tỉnh Kiên
Giang, Cà Mau, Bạc Liêu. Đối với cây ăn quả, xâm nhập mặn cũng làm ảnh hưởng

đến diện tích bưởi da xanh, sầu riêng, xoài, cam, nhãn của các tỉnh Vĩnh Long, Hậu
Giang và Sóc Trăng (Hồng Hiếu, 2016).
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận định, đợt xâm nhập mặn lần này ở
Đồng bằng sông Cửu Long là đặc biệt nghiêm trọng trong vòng khoảng 100 năm qua,
với ba đặc điểm “sớm, xâm nhập sâu vào đất liền và kéo dài ngày”; có những nơi chưa
từng bị xâm nhập mặn như Vĩnh Long thì nay đã bị mặn tấn công. Hiện tại, các tỉnh bị
nhiễm mặn nặng nhất là Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang, Bến Tre, Cà Mau, Bạc
Liêu, Kiên Giang… Các tỉnh Hậu Giang, An Giang, Long An bị nhiễm mặn khoảng
50%.
Điển hình, tại tỉnh Kiên Giang, xâm nhập mặn xuất hiện trong mùa khô 2015-2016 đã
gây thiệt hại cho hơn 34.000 ha lúa của tỉnh và diện tích lúa bị thiệt hại sẽ còn tăng
thêm nếu tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục kéo dài. Có thời điểm, TP. Rạch
Giá không đủ nước sinh hoạt cung cấp cho người dân.
Cũng theo thống kê của tỉnh Cà Mau, toàn Tỉnh có 18.000 ha lúa trên đất nuôi tôm bị
ảnh hưởng, hơn 10.400 ha lúa vụ đông xuân bị thiệt hại. Vườn Quốc gia U Minh Hạ
đang đứng trước nguy cơ cháy rất cao và sẽ rất nguy hiểm nếu bị xâm nhập mặn vì nơi
đây thuộc hệ sinh thái nước ngọt.


Tại tỉnh Hậu Giang, xâm nhập mặn cũng đã gây thiệt hại cho 400 ha lúa. Nguy hiểm
hơn là ở những nơi vốn trước đây là vùng ngọt, nếu bị xâm nhập mặn kéo dài thì đến
mười năm sau cũng không phát triển canh tác được vì nước mặn đã ngấm sâu vào đất.
Ước tính sơ bộ thì đến thời điểm này hạn, mặn đã làm thiệt hại của nông dân Đồng
bằng sông Cửu Long hơn 1.000 tỷ đồng và khoảng hơn 200.000 tấn lúa

2.Nguyên nhân xâm ngập mặn

(Bản đồ lưu vực sông Mê Kong)

3 nguyên nhân cơ bản như sau:



 Thứ nhất, Nguyên nhân là do lượng mưa trên toàn bộ lưu vực suy giảm
khoảng 50% so với các năm. Dòng chảy từ thượng nguồn sông Mêkong
xuống ĐBSCL suy giảm nghiêm trọng. Theo kết quả quan trắc thì lượng
nước từ thượng nguồn sông Mêkông về suy giảm 30% so với trung bình
nhiều năm. Nguyên nhân là do ở thượng nguồn Trung Quốc đã quy hoạch
20 đập thủy điện, và hiện tại 5 trong số đó đã hoàn thành. Bên dưới hạ
lưu, 11 con đập khác cũng đã được quy hoạch, trong đó 7 đập nằm trọn
trong lãnh thổ Lào, 2 đập thuộc cả Lào và Thái Lan và 2 đập còn lại nằm
trên đất của Camphuchia.
 Thứ hai, sự điều tiết tự nhiên từ biển hồ Capuchia gần như không có.
 Thứ ba, nhu cầu sử dụng nước tại ĐBSCL trong mùa khô cao do nhu cầu
tưới tiêu, sinh hoạt tăng lên làm cho lượng nước suy giảm nghiêm trọng
dẫn đến khô hạn và xâm mặn.
3.Tác động của xâm ngập mặn

 Ngành nuôi trồng thủy sản
Đồng bằng Sông Cửu Long, là vùng trọng điểm sản xuất thủy sản của cả
nước, diện tích thả nuôi khoảng 855.000ha/năm. Tổng sản lượng nuôi
toàn vùng đạt 2,4 triệu tấn chiếm 52% so với cả nước. Trong đó: Tôm
nước lợ đạt khoảng 485.000 tấn (chiếm 80,9% cả nước); Cá Tra đạt
khoảng 1.150.000 tấn; Các đối tượng khác khoảng 765.000 tấn (chiếm
47,0% cả nước). Năm 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt xấp
xỉ 4 tỷ USD chiếm tỷ lệ 47,0 % so với cả nước, trong đó kim ngạch xuất
khẩu tôm đóng góp 60% kim ngạch xuất khẩu tôm của cả nước. NTTS
vùng ĐBSCL đang chiếm một vị trí hết sức quan trọng đối với kinh tế
của vùng và cả nước, tạo công ăn việc làm, thu nhập và phát triển kinh tế
xã hội.Nhưng tình hình xâm nhập mặn ảnh hưởng lớn đến ngành nuôi
trồng thủy sản

Số liệu thống kê ban đầu của Tổng cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn) cho thấy, diện tích nuôi thủy sản thiệt hại là 3.771ha,
chưa kể diện tích nuôi cá tra bị thiệt hại. Đặc biệt, Cà Mau có trên 70%
diện tích nuôi thuỷ sản bị thiệt hại (2.700 ha), kế đến là Trà Vinh, Bến
Tre có diện tích bị thiệt hại từ 30-70%.
Nhiều tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long công bố tình trạng thiên
tai do ảnh hưởng hạn hán và nhập nhập mặn,


Do tác động của xâm nhập mặn khiến diện tích vùng nuôi thủy sản bị thu
hẹp đáng kể. Hầu như toàn bộ vùng quy hoạch nuôi tôm nước lợ đều bị
tác động bởi xâm nhập mặn, riêng những vùng nuôi thủy sản ở hạ lưu
sông Hậu thuộc tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh và Kiên Giang chịu
ảnh hưởng nhiều nhất, nguy cơ phá vỡ các quy hoạch phát triển nuôi
trồng thủy sản là điều khó có thể tránh khỏi.
Dự báo diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại sẽ còn tiếp tục tăng trong
thời gian tới do tình hình xâm nhập mặn đang diễn biến phức tạp. Có
những vùng nước ngọt bị xâm mặn lên đến 5-8 phần nghìn. Hiện một số
tỉnh như Trà Vinh, Kiên Giang, Bến Tre, Cà Mau, Bạc Liêu do nắng
nóng, mực nước đầm nuôi thấp, môi trường không ổn định, kết hợp với
độ mặn tăng cao làm cho tôm bị sốc và chết.

 Ngành nông nghiệp
Hạn mặn không chỉ gây thiệt hại đối với cây lúa, nước sinh hoạt mà còn
ảnh hưởng nghiêm trọng đến cây ăn trái, cây công nghiệp, thủy sản và là
nguy cơ dẫn đến cháy rừng.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(NN&PTNT), trong vụ Đông Xuân 2015-2016, 8 tỉnh ven biển ĐBSCL là
Long An, Tiền Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Kiên Giang, Bến Tre, Bạc Liêu
và Hậu Giang đã xuống giống hơn 971.200 ha (chiếm 62,2% diện tích lúa



của toàn vùng), trong đó khoảng 339.234 ha có nguy cơ bị hạn hán, xâm
nhập mặn (chiếm 35,51% diện tích xuống giống của vùng ven biển). Điển
hình, tại tỉnh Kiên Giang, đã có hơn 34.000 ha lúa của tỉnh bị thiệt hại và
con số đó sẽ còn tăng thêm nếu tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục
kéo dài. Ước tính sơ bộ cho thấy, chỉ đến giữa tháng 2.2016, nông dân
ĐBSCL đã bị thiệt hại hơn 1.000 tỷ đồng. Sản lượng lúa ĐBSCL ước
giảm khoảng 700.000 tấn so với cùng kỳ. Nếu mặn xâm nhập kéo dài đến
tháng 6.2016, sẽ có 500.000ha lúa vụ hè thu bị ảnh hưởng lớn, tương
đương 1 triệu hộ với khoảng 5 triệu người gặp khó khăn, trong đó có
150.000 hộ thiếu nước sinh hoạt.
 Nước sinh hoạt
Viện Khoa học thủy lợi miền Nam cho biết hạn và xâm nhập mặn ở Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có thể kéo dài cho đến tháng sáu năm
nay. Tình hình này dự báo sẽ không tác động nặng nề thêm đối với sản
xuất lúa, nhưng nước ngọt phục vụ sinh hoạt và tưới tiêu cho cây ăn trái
sẽ thiếu hụt nghiêm trọng.
Tình trạng thiếu nước ngọt sinh hoạt nơi đây chẳng những chưa có
chuyển biến tích cực, mà còn diễn ra nghiêm trọng hơn.
Dù hiện tại chưa có con số thống kê mới nhất về số lượng hộ gia đình
trong vùng ĐBSCL đang thiếu ngọt sinh hoạt, nhưng với hạn và xâm
nhập mặn ngày càng gia tăng như hiện nay, thì chắc chắn con số sẽ lớn
hơn 155.000 hộ đã được Bộ NN-PTNT công bố hồi đầu tháng 3-2016; và
dự kiến số hộ thiếu nước sinh hoạt sẽ tiếp tục tăng, nếu hạn và xâm nhập
mặn kéo dài cho đến tháng 6-2016.

4.Giải pháp
Giải pháp trước tiên là tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, lũ lụt, hạn hán,
xâm nhập mặn cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long; đẩy mạnh điều tra, khảo sát,

đánh giá tiềm năng nước mặt, nước ngầm và khả năng sụt lún, xói lở, sạt lở trong bối
cảnh biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế-xã hội; rà soát, đánh giá, bổ sung các quy
hoạch phát triển, đặc biệt là quy hoạch đê sông, đê biển, hồ chứa cho vùng; xây dựng
mạng lưới giám sát biến đổi khí hậu và nước biển dâng; xác định các kịch bản phát
triển riêng cho toàn vùng trên cơ sở cập nhật chi tiết các kịch bản biến đổi khí hậu và
nước biển dâng, các tác động do phát triển thủy điện trên dòng chính sông Mekong.
Đi cùng với trồng, phục hồi và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển nhằm từng bước tạo
đai rừng chắn sóng, chống sạt lở bờ biển, tăng cường khả năng hấp thụ khí CO2, bảo
vệ và phục hồi hệ sinh thái ven biển, tạo sinh kế bền vững cho người dân bản địa.
Phải nâng cấp, gia cố, xây mới các hồ nước ngọt, phục vụ sinh hoạt và sản xuất của
người dân trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng, nhất là nâng cấp, gia cố,


xây mới các đoạn đê sông, đê biển xung yếu ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tài
sản của người dân trong vùng.
Đề cập về biện pháp hạn chế ngộ độc mặn cho cây trồng giải pháp cần triển khai ngay
hiện nay là nhanh chóng cơ cấu lại lịch thời vụ; cơ cấu lại giống, ưu tiên giống lúa
ngắn ngày, chịu mặn dưới 3 phần nghìn; khuyến cáo người dân không gieo cấy vụ
Xuân Hè, nhất là các tỉnh ven biển; các địa phương khẩn trương đầu tư, xây dựng
khép kín thệ thống đê bao, cống đập ngăn mặn.
Về giải pháp lâu dài cần bố trí lại cơ cấu cây trồng phù hợp; đa dạng hóa và phát triển
các cây trồng có khả năng thích ứng với tình hình hạn hán và xâm nhập mặn; nghiên
cứu chọn tạo các giống cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lương thực có khả năng chịu
hạn, mặn tốt. Cải tạo hạ tầng kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tập quán sản xuất và
sinh hoạt của cư dân ven biển để thích nghi với mực nước biển dâng...

Có hai phương pháp để xử lý nước bị nhiễm mặn:
Thứ nhất, sau khi nước biển hòa với nước sông thành nước lợ thì lọc nước lợ để thành
nước sông dùng cho sản xuất và đời sống.
Thứ hai, tách biệt nước sông và nước biển không cho hòa vào nhau, dùng nước sông

đã tách cho sản xuất, đời sống.
Qua bài viết, tôi này xin trình bày cách làm theo phương pháp thứ hai: Cho nước sông
đi vào một ống nhựa mềm đặt ở dưới dáy, chạy suốt theo chiều dài của sông.
Đầu vào của ống sẽ lấy nước sông ở đầu nguồn, nơi mà nước biển chưa hòa với nước
sông. Nước sông đi vào ống sẽ được lấy ra tại các trạm bơm để phục vụ cho đời sống.
Khi không có nhu cầu lấy nước, thì nước sông vẫn theo dòng chảy bình thường trong
ống và đi ra biển. Như vậy biện pháp này sẽ không gây hậu quả như đóng cống ngập
mặn.
Biện pháp này cũng khác với việc xây dựng ống dẫn để lấy nước ở chỗ nó không trực
tiếp lấy nước lên khỏi sông, nước vẫn ở trong sông, nhưng lại không hòa với nước
biển. Do đó, hệ thống ống dẫn không cần thiết phải dùng vật liệu cứng, chịu lực nén
tốt như trong sản xuất nước sinh hoạt.


III. Kết Luận
Biến đổi khí hậu là mối đe dọa thực sự đối với sự phát triển kinh tế, xã hội đang
tiếp tục diễn ra. Lượng mưa ngày càng thất thường và luôn biến đổi, nhiệt độ cao hơn,
tình hình thời tiết ngày càng khốc liệt, như bão, hạn hán, xâm nhập mặn đều có những
tác động đáng kể đến vùng mũi Cà Mau.
Mối đe dọa về biến đổi khí hậu bắt đầu được ghi nhận, nhưng thông tin và nhận
thức vẫn còn ở mức thấp. Mặc dù Việt Nam có nhiều chính sách và chiến lược phát
triển liên quan, nhưng Việt Nam chưa có các chiến lược toàn diện thích ứng với biến
đổi khí hậu quốc gia và địa phương. Xây dựng năng lực quốc gia và địa phương là rất
cấp thiết để đảm bảo các biện pháp đối phó về chính sách là thích đáng và hữu hiệu.
Trong điều kiện kinh phí còn nhiều khó khăn như tỉnh Cà Mau đã và đang đề ra
nhiều giải pháp thiết thực để chủ động ứng phó với hạn hán kéo dài và xâm nhập mặn
như hiện nay. Tuy nhiên, ngân sách địa phương gặp rất nhiều khó khăn, nhiều nhiệm
vụ chi trong cân đối ngân sách năm 2016 chưa bố trí được nguồn. Do đó, UBND tỉnh
Cà Mau trình Bộ Tài chính xem xét hỗ trợ ngân sách tỉnh 100 tỷ đồng từ nguồn dự
phòng ngân sách Trung ương năm 2016 để tỉnh Cà Mau triển khai thực hiện đầu tư

các công trình khắc phục, ứng phó, chống xâm nhập mặn và biến đổi khí hậu trên địa
bàn tỉnh Cà Mau, đặc biệt là hạ tầng Khu du lịch Mũi Cà Mau.
Chúng ta có thể giảm bớt các tác động của biến đổi khí hậu bằng các cách như tiết
kiệm năng lượng, không phá rừng, sử dụng năng lượng sạch, giảm bớt phát thải khí
Cacbonnic (CO2). Cần phải nhanh chóng có những hoạt động thích ứng với biến đổi
khí hậu như chuyển đổi cơ cấu sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Cần
phải lồng ghép thích ứng biến đổi khí hậu vào mọi hoạt động phát triển kinh tế xã hội.
Hay nói khác đi, khi xây dựng quy hoạch, kế hoạch cho bất kỳ một hoạt động phát
triển kinh tế xã hội nào đều phải xét đến các yếu tố tác động của biến đổi khí hậu. Cần
phải xây dựng một cộng đồng thích ứng, đủ khả năng chống chịu những tác động của
biến đổi khí hậu. Những kinh nghiệm địa phương cần được trao đổi, chia sẻ và nhân
rộng.



×