Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tổ chức trò chơi học tập trong giờ học tiếng việt cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.6 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
----------------------------

TRẦN THỊ TÂM

TỔ CHỨC TRÒ CHƠI HỌC TẬP
TRONG GIỜ HỌC TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 2

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
----------------------------

TRẦN THỊ TÂM

TỔ CHỨC TRÒ CHƠI HỌC TẬP
TRONG GIỜ HỌC TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 2
Chuyên ngành: Giáo dục học (Bậc Tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ HÒA


HÀ NỘI, 2014


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, phòng Đào tạo Sau đại học,
Thư viện trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho em hoàn thành luận
văn này.
Em xin tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô giáo hướng dẫn - TS. Phạm Thị
Hòa, người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu và các thầy, cô giáo giảng dạy
tại trường Tiểu học Minh Đức, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã nhiệt
tình giúp đỡ em trong quá trình thực nghiệm và thu thập số liệu phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài .
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Người thực hiện

Trần Thị Tâm


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ
giáo viên hướng dẫn là TS. Phạm Thị Hòa. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu nào trước đây. Những số liệu trong các bảng phục vụ
cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các
nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kì sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm trước hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.

Hà Nội, tháng năm 2014
Tác giả luận văn

Trần Thị Tâm


DANH MỤC VIẾT TẮT

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

GVTH

Giáo viên tiểu học

HSTH

Học sinh tiểu học

NXBGD

Nhà xuất bản Giáo dục


SGK

Sách giáo khoa

ĐHSP

Đại học Sư phạm


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng.
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

8

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn

8

1.1. Cơ sở lí luận

8


1.1.1. Giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

8

1.1.2. Lí luận chung về trò chơi học tập

15

1.2. Cơ sở tâm lí học

18

1.3. Cơ sở thực tiễn

19

Tiểu kết chương 1
Chương 2: Tổ chức trò chơi học tập trong giờ học Tiếng Việt

24
26

lớp 2
2.1. Nguyên tắc lựa chọn trò chơi phù hợp với từng phân môn Tiếng Việt

26

2.2. Cách tổ chức, những yêu cầu khi tổ chức trò chơi học tập trong dạy học
môn Tiếng Việt


27

2.3. Hoạt động tổ chức trò chơi trong các phân môn Tiếng Việt lớp 2

30

2.3.1. Hoạt động tổ chức trò chơi trong giờ Tập đọc

30

2.3.2. Hoạt động tổ chức trò chơi trong giờ Kể chuyện

36

2.3.3. Hoạt động tổ chức trò chơi trong giờ Chính tả

39

2.3.4. Hoạt động tổ chức trò chơi trong giờ Luyện từ và câu

45

2.3.5. Hoạt động tổ chức trò chơi trong Tập viết

49

2.3.6. Hoạt động tổ chức trò chơi trong giờ Tập làm văn

51



Tiểu kết chương 2

56

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

57

3.1. Mục đích thực nghiệm

57

3.2. Đối tượng, thời gian, địa bàn thực nghiệm

57

3.3. Nội dung thực nghiệm

57

3.4. Phương pháp thực nghiệm…

57

3.5. Tổ chức thực nghiệm

57


3.6. Thiết kế giáo án thực nghiệm

58

3.7. Kết quả thực nghiệm

72

Tiểu kết chương 3

76

KẾT LUẬN

77

TÀI LIỆU THAM KHẢO

79

PHỤ LỤC

81


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thực tế trên đất nước ta và các nước đang phát triển trên thế giới đã

chứng tỏ: Giáo dục là chìa khóa của sự phát triển, đầu tư cho giáo dục là đầu
tư có lãi. Giáo dục chính là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng an ninh, là bộ phận hữu cơ
quan trọng nhất trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã
hội. Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh (HS) hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,thẩm mĩ
và các kĩ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng nhân cách và trách nhiệm công dân, chuẩn
bị cho HS học tiếp các bậc học trên. Tiểu học là bậc học nền tảng, là cơ sở để
hình thành và phát triển nhân cách HS. Dạy học ở tiểu học có rất nhiều môn
như: môn Toán, môn Tiếng Việt, môn Tự nhiên xã hội, môn Nghệ thuật. Mỗi
môn học đều có đặc trưng riêng của nó, riêng môn Tiếng Việt góp phần đắc
lực thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở tiểu học theo đặc trưng bộ môn của
mình. Ví dụ: qua phân môn Tập viết các em được rèn luyện chữ viết – một
trong những công cụ giao tiếp quan trọng của con người Việt Nam, phân môn
Tập đọc giúp các em rèn luyện kĩ năng nghe, nói; hay phân môn Luyện từ và
câu giúp các em có được kiến thức về cách dùng từ ngữ, câu văn cho đúng,
cho hay... Việc dạy Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học giúp cho HS có
năng lực sử dụng tiếng Việt văn hóa để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Đồng
thời cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về xã hội, tự nhiên và con
người, về văn hóa, văn học của người Việt Nam và nước ngoài.
Xuất phát từ thực tế và từ mục tiêu giáo dục của nước ta là nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn


2

minh; trong những năm gần đây nhà nước ta đã từng đổi mới phương pháp
giáo dục ở các nhà trường phổ thông nói chung và ở nhà trường tiểu học nói

riêng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Hiện nay, nhiều phương pháp
dạy học mới đã và đang được áp dụng vào nhà trường tiểu học. Trong đó có
sự kết hợp hài hóa giữa việc sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống,
và vận dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực. Một trong những
phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học đang được giáo viên (GV) chú trọng
là phương pháp trò chơi học tập. Hoạt động trò chơi học tập góp phần giúp
GV tổ chức dạy học tiếng Việt theo định hướng nói trên. Thông qua hoạt
động thực hành nói chung và các trò chơi nói riêng, hoạt động dạy học sẽ
gây hứng thú học tập cho HS.
Đã có nhiều tác giả đề xuất các trò chơi học tập Tiếng Việt. Tuy nhiên
việc vận dụng sáng tạo các trò chơi đó vào dạy học môn Tiếng Việt còn rất
hạn chế. Vì vậy, ở đề tài này chúng tôi đi sâu vào việc nghiên cứu cách vận
dụng các trò chơi học tập vào dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 bậc
Tiểu học. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Tổ chức trò chơi học tập trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 2”. Với
mong muốn giúp các em học sinh yêu thích và học tập tốt hơn môn Tiếng Việt.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu hoạt động tổ chức trò chơi học tập, trò chơi Tiếng Việt nói
chung và trò chơi trong giờ học Tiếng Việt nói riêng không phải là vấn đề
hoàn toàn mới mẻ. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy các công trình nghiên cứu về
trò chơi học tập tập trung ở một số hướng chính sau:
Hướng thứ nhất: nghiên cứu các trò chơi học tập nói chung
Trò chơi học tập không phải là vấn đề mới. Vào những năm 40 của thế
kỉ XIX , một số nhà khoa học Giáo dục Nga như: P.A.Bexonova, OP.Seina,
E.A.Pokrovxki... đã đánh giá cao vai trò giáo dục, đặc biệt là tính hấp dẫn của


3

trò chơi dân gian Nga đối với trẻ mẫu giáo. E.A.Pokrovxki trong lời đề tựa

cho tuyển tập “Trò chơi của trẻ em Nga” đã chỉ ra nguồn gốc, giá trị đặc biệt
và tính hấp dẫn lạ thường của trò chơi dân gian Nga. Bên cạnh kho tàng trò
chơi học tập, trong dân gian còn có một số hệ thống trò chơi dạy học khác do
các nhà Giáo dục có tên tuổi xây dựng. Đại diện cho khuynh hướng sử dụng
trò chơi dạy học làm phương tiện phát triển toàn diện cho trẻ phải kể đến nhà
Sư phạm nổi tiếng người Tiệp khắc I.A.Komenxki (1592 – 1670). Ông coi trò
chơi là hình thức hoạt động cần thiết, phù hợp với bản chất và khuynh hướng
của trẻ. Trò chơi dạy học là một dạng hoạt động trí tuệ nghiêm túc, là nơi mọi
khả năng của trẻ em được phát triển, mở rộng phong phú hơn vốn hiểu biết.
Với quan điểm trò chơi là niềm vui sướng của tuổi thơ, là phương tiện phát
triển toàn diện cho trẻ I.A.Komenxki đã khuyên người lớn phải chú ý đến trò
chơi dạy học cho trẻ và phải hướng dẫn, chỉ đạo đúng đắn cho trẻ chơi.
Trong nền giáo dục cổ điển, ý tưởng sử dụng trò chơi với mục đích dạy
học được thể hiện đầy đủ trong hệ thống giáo dục của nhà sư phạm người Đức
Ph.Phroebel (1782 – 1852) Ông là người đã khởi xướng và đề xuất ý tưởng
kết hợp dạy học với trò chơi cho trẻ. Quan điểm của ông về trò chơi trẻ nhận
thức được cái khởi đầu do thượng đế sinh ra tồn tại ở khắp mọi nơi, nhận thức
được những quy luật tạo ra thế giới, tạo ra ngay chính bản thân mình. Vì thế
ông phủ nhận tính sáng tạo và tính tích cực của trẻ trong khi chơi.
Ph.Phroebel cho rằng, nhà giáo dục chỉ cần phát triển cái vốn sẵn có của trẻ,
ông đề cao vai trò giáo dục của trò chơi trong quá trình phát triển thể chất,
làm giàu vốn ngôn ngữ cũng như phát triển tư duy, trí tưởng tượng của trẻ.
I.B.Bazedov cho rằng, trò chơi là phương tiện dạy học. Theo ông, nếu
trên tiết học, GV sử dụng các phương pháp, biện pháp chơi hoặc tiến hành tiết
học dưới hình thức chơi thì sẽ đáp ứng được nhu cầu và phù hợp với đặc điểm
của người học và tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn. Ông đã đưa ra hệ


4


thống trò chơi học tập dùng lời như: trò chơi gọi tên, trò chơi phát triển kĩ
năng khái quát tên gọi của cá thể, trò chơi đoán từ trái nghĩa, điền những từ
còn thiếu,... Theo ông, những trò chơi này mang lại cho người học niềm vui
và phát triển năng lực trí tuệ của chúng.
Vào những năm 30 – 40 – 60 của thế kỉ XX, vấn đề sử dụng trò chơi
học tập trên “tiết học” được phản ánh trong công trình của R.I.Giucovxkaia ,
VR.Bexpalona, E.I.Udalsova... .R.I.Giucovxkaia đã nâng cao vị thế của dạy
học bằng trò chơi. Bà chỉ ra những tiềm năng và lợi thế của những “tiết học”
dưới hình thức trò chơi học tập, coi trò chơi học tập như là hình thức dạy học,
giúp người học lĩnh hội tri thức mới từ những ý tưởng đó, Bà đã soạn thảo ra
một số “tiết học – trò chơi” và đưa ra một số yêu cầu khi xây dựng chúng.
Trong quá trình đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học có rất
nhiều nhà giáo dục trong nước nghiên cứu, tìm tòi, thiết kế nên các trò chơi
nhằm giáo dục toàn diện hứng thú học tập cho các em như cuốn: “Tổ chức
hoạt động vui chơi ở Tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ, thể lực cho
học sinh” của Hà Nhật Thăng (chủ biên), hay cuốn: “150 trò chơi thiếu nhi”
của Bùi Sĩ Tụng và Trần Quang Đức (đồng chủ biên).
Ở các tài liệu này, các tác giả đã đề cập rất rõ vai trò cũng như tác dụng
của trò chơi và đưa ra những hoạt động vui chơi chung chung nhưng chưa đi
sâu vào ứng dụng và tổ chức trò chơi trong môn học cụ thể.
Hướng thứ hai: Nghiên cứu các trò chơi Tiếng Việt
Nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã có những công trình nghiên cứu
và nhiều ý kiến xung quanh vấn đề trò chơi học tập và sử dụng trò chơi học
tập trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
- Theo tác giả Nguyễn Trí: Dạy học ở bậc Tiểu học, nhất là các lớp
1,2,3 nếu biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các trò chơi học tập thì sẽ có tác


5


dụng rất tích cực, kích thích hứng thú học tập và tạo chất lượng cho bài học
Tiếng Việt.
- Công trình nghiên cứu của tác giả Vũ Khắc Tuân (tham gia cuộc
thi “Viết sách bài tập và sách tham khảo” của NXB GD) nêu lên những vấn
đề cơ bản:
+ Đưa trò chơi vào các lớp học nhằm mục đích gì?
+ Trò chơi nào có thể đưa vào lớp học?
+ Trò chơi được sử dụng vào lúc nào?
+ Tổ chức chơi trong giờ học như thế nào?
Các tác giả Trần Mạnh Hưởng (chủ biên), Nguyễn Thị Hạnh, Lê
Phương Nga thông qua cuốn Trò chơi học tập Tiếng Việt 2,3 NXB Giáo dục,
2003, 2004 đã bàn về việc sử dụng trò chơi học tập: Những trò chơi đưa vào
sách thường dựa vào nội dung cụ thể của từng phân môn. Tuy nhiên, tác giả
không đi sâu vào từng địa bàn, từng đối tượng HS để có gợi ý sử dụng trò
chơi hợp lí.
Tóm lại, khi xây dựng trò chơi sử dụng trong quá trình dạy học môn
Tiếng Việt nói chung và trong chương trình Tiếng Việt lớp 2 nói riêng , mục
tiêu vui mà học được các nhà nghiên cứu cho là yếu tố quyết định. Mặt khác
thông qua trò chơi học tập, HS được phát triển một cách toàn diện cả về thể
lực, trí tuệ lẫn nhân cách. Đưa trò chơi vào lớp học làm cho việc học Tiếng
Việt nhẹ nhàng và hiệu quả.
Điểm qua các công trình nghiên cứu về trò chơi học tập và trò chơi
trong dạy Tiếng Việt, chúng tôi thấy các công trình nghiên cứu chủ yếu đi vào
diện rộng, quan tâm giới thiệu các trò chơi và một số ví dụ về cách tổ chức.
Việc xem xét các biện pháp cụ thể để tổ chức các trò chơi trong giờ học Tiếng
Việt cho một đối tượng HS xác định vẫn chưa có công trình nào đi sâu xem
xét. Đây chính là khoảng trống dành cho đề tài chúng tôi đi tiếp.


6


3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua các trò chơi giúp HS tự mình chiếm lĩnh các tri thức và kĩ
năng Tiếng Việt một cách tự nhiên, thoải mái nhất nhằm góp phần nâng cao
năng lực giao tiếp cho các em.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài phải thực hiện được những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Tổng hợp các vấn đề lí thuyết và thực tiễn có liên quan đến đề tài
- Hệ thống và chọn các trò chơi thích hợp với việc tổ chức rèn kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết cho HS lớp hai.
- Tổ chức dạy thực nghiệm các trò chơi trong giờ dạy Tiếng Việt.
5. Đối tượng nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động dạy học tổ chức trò chơi trong giờ học Tiếng Việt cho HS
lớp hai.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tổ chức các trò chơi học tập Tiếng Việt theo chuẩn kiến thức kĩ năng
cần đạt đối với môn Tiếng Việt lớp 2.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu: trên đối tượng HS lớp 2A và lớp 2B
trường Tiểu học Minh Đức, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu
liên quan đến đề tài.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra khảo sát: phương pháp này được dùng để khảo
sát hoạt động sử dụng trò chơi trong quá trình dạy học Tiếng Việt của GV và
HS trong nhà trường tiểu học.



7

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp thống kê toán học để chứng minh độ tin cậy của kết
quả nghiên cứu
7. Giả thuyết khoa học
Nếu đề tài nghiên cứu thành công nghĩa là hệ thống được các trò chơi
phù hợp với nội dung, yêu cầu của từng môn, từng bài học Tiếng Việt, đồng
thời đưa ra các chỉ dẫn để giáo viên lựa chọn, sắp xếp và sử dụng trò chơi
học tập một cách hợp lí, linh hoạt, sáng tạo thì sẽ kích thích tính tích cực
nhận thức, kích thích nhu cầu giao tiếp khi chơi các trò chơi để từ đó rèn
luyện kĩ năng giao tiếp cho HS và góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy học
Tiếng Việt .
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận , luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Tổ chức một số trò chơi học tập trong giờ học Tiếng Việt
lớp hai
Chương 3: Thực nghiệm


8

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận
Trò chơi là hoạt động học tập có sự hợp tác, giao lưu, phối hợp cùng

nhau. Hoạt động giao tiếp có vai trò vô cùng quan trọng trong vui chơi tương
tác, cộng tác. Nó đặc biệt quan trọng khi được định hướng trong các trò chơi
học tập nói chung và trong môn Tiếng Việt nói riêng.
1.1.1 Giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
* Giao tiếp và hoạt động giao tiếp trong đời sống xã hội
+ Giao tiếp – nhu cầu thiết yếu của con người
Giao tiếp là một nhu cầu thiết yếu của con người và là phương thức tồn
tại và phát triển của xã hội. Giao tiếp trái lại để giữ vững các mối quan hệ
đó.Trong hoạt động giao tiếp của con người vừa có thể tiếp nhận thông tin từ
người khác đồng thời có thể phản hồi những ý kiến của bản thân. Chính sự
phản hồi này là điều kiện để người giao tiếp điều chỉnh nội dung giao tiếp cho
phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Phạm vi giao tiếp của con người rất rộng. Giao tiếp với tự nhiên và giao
tiếp trong xã hội. Giao tiếp với các hiện tượng tự nhiên con người nhận ra quy
luật của nó giúp con người có ứng xử phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc sống của mình. Giao tiếp trong xã hội mang tính chất đa dạng, phong
phú, con người có thể giao tiếp trong mọi hoàn cảnh. Con người có khả năng
giao tiếp với người xưa. Con người giao tiếp ở mọi nơi, học tập được nhiều
điều nhưng quan trọng nhất là giao tiếp trong trường học – ở đó con người
được mở rộng những hiểu biết mang tính lí luận, khoa học.


9

Ngôn ngữ là tài sản chung của mọi người, con người có quyền tự do
lựa chọn vốn ngữ riêng cho bản thân mình. Cho nên khi nói người ta phải biết
lựa chọn những lời nói nào cho phù hợp nhất để không để không những
truyền đạt được thông tin mà còn có tác dụng thuyết phục ở người tiếp nhận
thông tin.
+ Hai phương tiện giao tiếp cơ bản của con người

Phạm vi giao tiếp của con người rất rộng, phương tiện giao tiếp cũng
hết sức đa dạng. Theo các nhà kí hiệu học ngôn ngữ thì phương tiện giao tiếp
chia thành hai nhóm đó là ngôn ngữ và các yếu tố không bằng ngôn ngữ gọi là
các yếu tố phi ngôn ngữ.
Nếu yếu tố phi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong
giao tiếp thì ngôn ngữ lại là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con
người. Chỉ có giao tiếp bằng ngôn ngữ mới giúp ta hiểu được nội dung một
cách chính xác và đầy đủ nhất. Vì vậy có thể nói ngôn ngữ là phương tiện
giao tiếp quan trọng nhất của con người.
+ Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
- Khái niệm về hoạt động giao tiếp – giao tiếp là hoạt động trao đổi
thông tin, bộc lộ tư tưởng, tình cảm giữa người và người. Quá trình giao tiếp
lại được tiếp tục bằng việc lĩnh hội các yếu tố ngôn ngữ do người nói phát ra,
để hiểu được nội dung mà người nói truyền đạt thì người nghe phải lí giải các
yếu tố ngôn ngữ này. Kết thúc quá trình này cũng là kết thúc quá trình giao
tiếp.Văn bản trong hoạt động giao tiếp được tồn tại ở hai dạng nói và viết.
- Giao tiếp, một hiện tượng xã hội
Giao tiếp là hoạt động có tính vĩnh viễn vì ở thời đại nào con người
cũng cần phải có giao tiếp. Giao tiếp là phương thức giúp con người tồn tại và
phát triển. Trong tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội thì con người cần
phải giao tiếp với nhau. Xã hội càng phát triển thì phương tiện giao tiếp của


10

con người càng hiện đại. Giao tiếp được coi là một phương tiện xã hội, giao
tiếp là cách thức, hoạt động để tiếp nhận các thông tin của đời sống, để trao
đổi mọi tư tưởng, tình cảm giữa người và người trong mọi mặt của đời sống.
+ Các nhân tố cơ bản của hoạt động giao tiếp
 Nhân vật giao tiếp

Là những người tham gia trực tiếp vào quá trình giao tiếp. Quá trình
giao tiếp có thể thực hiện bởi hai người hoặc nhiều người. Nhân vật giao tiếp
đóng vai trò quan trọng, đó là nhân tố để lại dấu ấn đậm nét nhất trong việc
lựa chọn nội dung và cách thức trình bày một văn bản. Là một người GV phải
nắm rõ đặc điểm sinh lí lớp mình để tổ chức ngôn ngữ giảng dạy theo quan
điểm giao tiếp cho phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời phải tạo được vị
thế cho bản thân để tăng sức thuyết phục cho lời nói khi truyền đạt đến HS.
 Nội dung giao tiếp
Nội dung giao tiếp ở đây là hiện thực được nói đến trong cuộc giao
tiếp. Để có thể thực hiện hoạt động giao tiếp thì những người tham gia giao
tiếp phải nắm rõ về nội dung giao tiếp, cùng hướng về một nội dung giao tiếp
nhất định.
 Mục đích giao tiếp
Mục đích cơ bản của cuộc giao tiếp là nhằm truyền đạt thông tin, bộc lộ
tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của mình. Qua đó còn phải tác động đến người
tiếp nhận một tình cảm nào đó. Mục đích giao tiếp là kết quả cuối cùng mà
cuộc giao tiếp mong muốn đạt được.
 Phương tiện giao tiếp
Phương tiện giao tiếp ở đây là ngôn ngữ. Đối với người Việt trong
những hoạt động giao tiếp thông thường thì ngôn ngữ được sử dụng là tiếng
Việt. Khi giao tiếp bằng ngôn ngữ thì trình độ ngôn ngữ cũng như vốn hiểu
biết về tiếng Việt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giao tiếp. Khi sử dụng tiếng


11

Việt chúng ta còn cần phải chú ý đến các phong cách sử dụng vì mỗi phong cách
sẽ quyết định việc lựa chọn những phương tiện giao tiếp cho phù hợp.
 Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là không gian, thời gian và những đặc điểm của

nơi diễn ra cuộc giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp có thể chia ra làm hai loại:
hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao tiếp hẹp.
+ Hoàn cảnh giao tiếp rộng là hoàn cảnh xã hội, lịch sử, là hoàn cảnh
văn hóa mà các nhân vật giao tiếp tồn tại và thực hiện hoạt động giao tiếp.
+ Hoàn cảnh giao tiếp hẹp là không gian, thời gian cụ thể… diễn ra
cuộc giao tiếp.
 Phân loại giao tiếp
Con người có rất nhiều cơ hội giao tiếp với những người khác. Giao
tiếp có thể phân biệt thành nhiều loại khác nhau.
+ Giao tiếp nội tâm
Khi con người trò chuyện với chính bản thân họ, quá trình giao tiếp này
diễn ra trong bộ não. Nó bao gồm những suy nghĩ, kí ức và nhận thức trong
suốt quá trình giao tiếp. Hầu hết hành vi phản ứng đối với các cấp độ giao tiếp
chủ yếu đều bắt nguồn từ giao tiếp nội tâm. Ở cấp độ này, chủ thể đặt ra
những quy tắc cho bản thân các kiểu mẫu giao tiếp.
Giao tiếp nội tâm bao gồm:
 Giác quan – Ví dụ: các mô hình diễn giải, văn bản, ký hiệu, biểu tượng.
 Giao tiếp không bằng lời nói – Ví dụ: các động tác, giao tiếp bằng
mắt
 Giao tiếp giữa các bộ phận trên cơ thể
+ Giao tiếp ứng xử
Giao tiếp ứng xử được hiểu là việc giao tiếp giữa hai cá nhân riêng biệt.
Hình thức giao tiếp này diễn ra khi hai con người giao tiếp với nhau hoặc giao


12

tiếp theo nhóm. Điều này cũng có nghĩa là con người có thể nắm bắt được
việc giao tiếp với những con người khác nhau trong những hoàn cảnh khác
nhau và làm cho người đó cảm thấy hài lòng. Những động tác như giao tiếp

bằng mắt, vận động cơ thể, và các động tác tay cũng là một phần của giao tiếp
ứng xử. Các chức năng phổ biến nhất của việc giao tiếp ứng xử là nghe, nói
và giải quyết mâu thuẫn. Phân loại giao tiếp ứng xử đi từ giao tiếp ngôn ngữ
đến phi ngôn ngữ và từ tình huống này đến tình huống khác. Giao tiếp ứng xử
bao gồm việc giao tiếp trực diện có mục đích và thích hợp.
+ Giao tiếp theo nhóm nhỏ
Giao tiếp theo nhóm nhỏ là một quá trình tác động lại diễn ra theo
nhóm ba người hoặc nhiều hơn để đưa ra được những mục tiêu chung bao
gồm giao tiếp qua trung gian. Loại giao tiếp này thỉnh thoảng cũng bao gồm
giao tiếp ứng xử chỉ có một điểm khác biệt chủ yếu là số lượng người tham
gia vào quá trình này. Giao tiếp theo nhóm nhỏ có thể là một buổi nói chuyện
giữa các thành viên trong gia đình trong bữa ăn tối, hoặc một buổi họp diễn ra
bởi một vài thành viên trong tổ chức…
+ Giao tiếp cộng đồng
Khi một người gửi thông điệp cho một bộ phận khán giả, không phân
biệt những cá nhân khác nhau. Không giống với các cấp độ giao tiếp kể trên,
người phát ngôn đóng vai trò chủ yếu trong quá trình giao tiếp này.
+ Giao tiếp tập trung
Quá trình giao tiếp tập trung diễn ra khi một nhóm người nhỏ gửi thông
điệp cho một bộ phận tiếp nhận lớn thông qua một phương tiện truyền thông
cụ thể. Quá trình này biểu hiện sự hình thành và truyền bá một thông điệp đến
một bộ phận tiếp nhận lớn thông qua phương tiện truyền thông.
+ Giao tiếp phi ngôn ngữ


13

Trong giao tiếp phi ngôn ngữ, con người truyền những thông điệp cho
nhau không sử dụng ngôn ngữ. Họ giao tiếp thông qua những biểu hiện trên
gương mặt, vị trí đầu, tay và cử động tay, cử động của cơ thể, vị trí của chân

và bàn chân. Con người cũng có thể dùng “khoảng cách” để diễn đạt một
thông điệp. Bằng cách để ý đến giao tiếp phi ngôn ngữ, một người có thể hiểu
được những thông điệp từ người khác, và chuyển thông điệp đến người khác.
Sự chú ý đến việc giao tiếp phi ngôn ngữ giúp con người:
 Diễn đạt sự tự tin và hiểu biết.
 Chứng minh được sức mạnh và tầm ảnh hưởng.
 Diễn tả lòng chân thành, sự hứng thú và tinh thần hợp tác.
 Tạo dựng lòng tin.
 Nhận ra tâm trạng của bản thân và của những người khác.
 Khám phá sự khác biệt giữa những gì người khác đang nói và những
điều người đó đang nghĩ.
- Thay đổi hành vi và không gian giao tiếp để tạo nên những cuộc thảo
luận có hiệu quả hơn.
 Vai trò của giao tiếp
Để tồn tại và phát triển mỗi người không thể sống một mình, tách khỏi
gia đình, người thân, bạn bè, cộng đồng người mà phải gia nhập vào các mối
quan hệ giao tiếp giữa con người với con người. Thông qua đó con người trao
đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, tri giác lẫn nhau và ảnh hưởng tác động
qua lại với nhau.
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: tình trạng cô đơn, cô lập, đói
giao tiếp không đầy đủ về số lượng, nghèo nàn về nội dung đều dẫn đến
những hậu quả nặng nề, đều bị trì trệ rõ rệt trong sự phát triển tâm lý. Sự tổn
thương về tâm lý đôi khi còn làm cho con người đau khổ hơn, gây cho xã hội
nhiều tác hại hơn, nguy hiểm hơn là sự tổn thương về thể xác.


14

Sự giao tiếp giữa con người với con người có vai trò vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển nhân cách cũng như trong cuộc sống.

Giao tiếp là một nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất trong đời
sống của mỗi người. Ở mỗi lứa tuổi khác nhau, nhu cầu giao tiếp, đối tượng
giao tiếp, phương thức thỏa mãn nhu cầu giao tiếp cũng khác nhau. Nhờ giao
tiếp, mỗi người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, tổng hòa các quan hệ xã
hội tạo thành bản chất con người, lĩnh hội nền văn hóa xã hội tạo thành tâm lí,
ý thức, nhân cách. C.Mác đã khẳng định bản chất con người không phải là cái
gì trừu tượng, tồn tại riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Sự đa dạng phong phú của các mối
quan hệ xã hội sẽ làm phong phú đời sống tâm lí của con người. Dân gian có
câu: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Càng tích cực tham gia vào các
mối quan hệ xã hội, quan hệ giao tiếp phong phú bao nhiêu thì con người
càng tiếp thu được những giá trị vật chất, tinh thần to lớn bấy nhiêu.
Thông qua giao tiếp, mỗi người không chỉ nhìn nhận, đánh giá được
người khác mà còn tự đối chiếu, so sánh mình với người khác, với chuẩn mực
xã hội, từ đó đánh giá chung về bản thân mình. Sự tự đánh giá bản thân mình
bao giờ cũng khó khăn hơn sự đánh giá người khác. Nếu không giao tiếp với
người khác thì việc đánh giá bản thân mình có thể mắc sai lầm: Đánh giá quá
cao hoặc quá thấp về bản thân mình. Khi chủ thể đánh giá quá cao về bản thân
mình sẽ hình thành tâm lí tự cao, tự đại, tự mãn, dễ dẫn đến cường điệu hóa
bản thân và coi thường người khác. Ngược lại, khi chủ thể đánh giá quá thấp
về bản thân mình sẽ hình thành tâm lí tự ti, mặc cảm, không thấy hết khả năng
của mình, có biểu hiện chán nản thiếu tích cực, kém nhiệt huyết trong hoạt
động. Vì vậy, muốn đánh giá đúng ưu điểm,khuyết điểm của bản thân mình
thì mỗi người cần phải giao tiếp với người khác.


15

Mặt khác, giao tiếp còn tham gia vào mọi hoạt động của con người:
hoạt động học tập lao động, vui chơi và hoạt động xã hội… Giao tiếp định

hướng cho các hoạt động, giúp các hoạt động tiến hành đạt hiệu quả. Tổ chức
các trò chơi học tập cho HS thực chất là tổ chức cho HS biết cách giao tiếp trong
các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể với các mục đích giao tiếp xác định.
1.1.2. Lí luận chung về trò chơi học tập
1.1.2.1 Khái niệm về chơi, trò chơi và trò chơi học tập
a) Khái niệm chơi
Chơi là một hoạt động vô tư, trong khi chơi các mối quan hệ của con
người với tự nhiên – xã hội được mô phỏng lại, nó mang đến cho con người
một trạng thái tinh thần vui vẻ, thoải mái, dễ chịu.
b) Khái niệm trò chơi
Là một kiểu loại phổ biến của chơi: Chơi có luật – tức là chơi mà có
luật thì gọi là trò chơi.
Trò chơi có những đặc trưng nhất định.
c) Trò chơi học tập
* Khái niệm
Là một loại trò chơi có luật. Thông qua trò chơi, nhiệm vụ giáo dục
được trẻ giải quyết
Trò chơi học tập là một loại trò chơi đặc biệt mà các nhà sư phạm sử
dụng trong dạy học nhằm đạt những kết quả cao nhất trong việc nhận thức của
học sinh, củng cố kĩ năng, củng cố tri thức.
* Luật chơi của trò chơi học tập
Trò chơi học tập có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện,
không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện.
Ý thức được tác dụng to lớn của trò chơi học tập đối với việc giáo dục
trẻ em. Các nhà giáo dục học, các nhà tâm lý học đã có những công trình


16

nghiên cứu bổ ích về lĩnh vực này: A.X,Makarenko – Nhà giáo dục vĩ đại,

L.X. Xlavina, K.D.Usinxki, N.X.Lukin, N.X.Crupxcala…
Trên tinh thần đó “học mà chơi, chơi mà học” là một quan điểm đúng
đắn trong quá trình hướng dẫn và tổ chức chơi cho các em. Trò chơi học tập
vừa chú trọng mục đích giải trí nhưng quan trọng hơn là phát triển tư duy cho
HS.
1.1.2.2 Trò chơi học tập Tiếng Việt
Trò chơi thì ai cũng thích, bất kể người già hay trẻ nhỏ, ở địa vị xã hội
nào. Trò chơi mang lại cho con người những phút thư giãn sau những vất vả,
bộn bề của cuộc sống, đó là phương tiện giải trí có hiệu quả. Đối với trẻ em
hoạt động chơi có vai trò hết sức quan trọng, vừa là phương tiện giải trí, vừa
là phương tiện để phát triển tư duy, thể lực.
Trò chơi học tập Tiếng Việt là trò chơi có nội dung liên quan tới tiếng
Việt, nhằm củng cố kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho việc học Tiếng
Việt. Sử dụng trò chơi học tập trong dạy học Tiếng Việt.
 Sử dụng trò chơi học tập trong dạy học Tiếng Việt
Theo tác giả Lê Phương Nga: kết hợp sử dụng các hình thức trò chơi
về Tiếng Việt làm phương tiện hỗ trợ cho việc phát triển Tiếng Việt cho HS.
Thông qua các hoạt động trò chơi học sinh được củng cố về môn Tiếng Việt
(Ngữ âm, chữ viết, chính tả, từ ngữ, ngữ pháp và văn bản).
 Loại hình trò chơi học tập Tiếng Việt
Tùy đặc trưng từng phân môn Tiếng Việt mà có các loại hình trò chơi
thích hợp. Có thể kể tới một số loại hình trò chơi tiêu biểu như sau: từ ngữ,
ngữ pháp và văn bản.
1) Trò chơi tô chữ trên tranh
2) Trò chơi đi tìm lời thơ
3) Trò chơi đọc thơ truyền diện


17


4) Trò chơi đi tìm từ hoặc tiếng theo yêu cầu chính tả.
- Các hình thức tổ chức trò chơi học tập Tiếng Việt
Đưa trò chơi vào lớp học chủ yếu muốn nói tới việc tổ chức vui chơi
ngay trên lớp học hằng ngày. Nghĩa là chơi trong không gian chật hẹp (lớp
học), thời gian ngắn (3 đến 5 phút), số người tham gia đông (khoảng 30
người). Vì thế mà người GV phải tìm ra cách tổ chức hợp lí.
“ Trò chơi tiếp sức”
“ Trò chơi tăng tốc”
“ Trò chơi đồng đội”…
Chọn hình thức chơi như thế nào là lệ thuộc vào nội dung trò chơi
nhưng phần quan trọng hơn là lệ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng tiết, từng
đối tượng.
1.1.2.3 Vai trò của trò chơi học tập và trò chơi học tập Tiếng Việt
* Vai trò của trò chơi học tập
Vui chơi chiếm vị trí đang kể trong đời sống của các em, đặc biệt giai
đoạn đầu bậc Tiểu học. Thông qua trò chơi trẻ dần hoàn thiện các thuộc tính
tâm lí, nhân cách, trí tuệ và cả thể lực cũng được nâng lên. Có nghĩa là trẻ em
“lớn” lên trong vui chơi.
Khi chơi trẻ được hoạt động, được nhận thức hiện thực khách quan một
cách cụ thể và để trả lời kích thích biến đổi thực tiễn.
Trong lúc chơi: Hình thành cho trẻ các khả năng quan sát, óc phán
đoán, suy luận; phối hợp tập thể; hoàn thiện khả năng ngôn ngữ.
Mỗi trò chơi có một tác dụng khác nhau, song trò chơi nhìn chung là
giúp các em rèn luyện những đức tính quý báu. Đồng thời trò chơi còn giúp
các em hoàn thiện các kĩ năng ứng dụng học vấn vào cuộc sống hằng ngày.
* Vai trò của trò chơi học tập Tiếng Việt


18


Ở lứa tuổi bậc Tiểu học, hoạt động chơi không còn giữ vai trò chủ đạo
nhưng vui chơi vẫn còn chiếm vị trì đáng kể trong đời sống của các em, đặc
biệt ở giai đoạn đầu bậc tiểu học. Trong dạy học nói chung và trong dạy học
Tiếng Việt nói riêng thì trò chơi học tập có vai trò vô cùng quan trọng, vì:
Thứ nhất: Việc sử dụng trò chơi học tập vào dạy học tiếng Việt làm
thay đổi hình thức học tập, tạo bầu không khí trong lớp học trở nên sôi nổi,
thoải mái hơn. HS tiếp thu kiến thức tự giác hơn, tích cực hơn. HS thấy vui
hơn, dễ chịu và khỏe mạnh hơn.
Thứ hai: Trò chơi học tập được sử dụng nhằm vận dụng, củng cố các
nội dung kiến thức vừa được hình thành, hình thành kĩ năng cho HS, đồng
thời phát triển vốn kinh nghiệm mà các em tích lũy được thông qua hoạt động
chơi.
Thứ ba: Rèn luyện kĩ năng kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ. Tạo khả
năng phát triển trí tưởng tượng, khả năng linh hoạt, độc lập , sáng tạo cho HS.
Nhờ sử dụng trò chơi học tập mà quá trình học tập của HS trở thành hoạt
động vui và hấp dẫn hơn.
Thứ tư: Đối với HS Tiểu học, không có phương tiện nào giúp các em
phát triển một cách tự nhiên, có hiệu quả, rèn luyện tính tự chủ cao bằng trò
chơi học tập vì qua đó các em biết tự kiềm chế, tích cực trong từng hoạt động.
Tóm lại: Trò chơi học tập Tiếng Việt giúp HS phát triển toàn diện cả về
thể chất lẫn tinh thần. Loại trò chơi này làm cho HS được phát triển năng lực
một cách tự nhiên, giúp các em trao đổi kinh nghiệm, tương tác lẫn nhau từ đó
các em tiếp thu kiến thức được dễ dàng
1.2. Cơ sở tâm lí học
Ở lứa tuổi tiểu học, cơ thể trẻ đang trong thời kì phát triển hay nói cụ
thể là các hệ cơ quan chưa hoàn thiện, vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp
nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt, nhất là khi hoạt động



×