Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.58 KB, 52 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH

3

NGHIỆP NHÀ NƯỚC

5
5
5

1.1. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của doanh nghiệp nhà nước
1.1.2. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt
Nam
1.2. Nội dung và qui trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
1.2.1. Nội dung cơ bản của chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà

7
11

nước
1.2.2. Qui trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc và Thành phố Hồ Chí Minh về

11
13

cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
1.3.1. Kinh nghiệm Trung Quốc


1.3.2. Kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh

14
14
18

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

2.1. Sơ lược quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
2.1.1. Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996)
2.1.2. Giai đoạn mở rộng (5/1996-6/1998)
2.1.3. Giai đoạn chủ động (7/1998-nay)
2.2. Thực trạng cổ phần hoá tại các doanh nghiệp nhà nước ở Hà

21
21
21
23
26

Nội.
2.2.1. Khái quát tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà

28

Nội giai đoạn 1996-2003
2.2.2. Đánh giá thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Hà

28

29

Nội
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN

3.1. Quan điểm, mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của

31
31

Hà Nội đến cuối năm 2005.
3.1.1. Quan điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
3.1.2. Mục tiêu
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh

31
32
34

HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI HÀ NỘI

nghiệp nhà nước ở Hà Nội.
-1-


3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ công nhân viên về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà

34


nước
3.2.3. Lựa chọn doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đồng thời củng

35

cố lại doanh nghiệp trước khi tiến hành cổ phần hoá
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế định giá doanh nghiệp nhà nước
3.2.5. Cần có cơ chế phân bổ và tổ chức bán cổ phiếu hợp lí hơn
3.2.6. Gắn sự phát triển thị trường chứng khoán với cổ phần hoá

42
43
46

doanh nghiệp nhà nước

49
50
51

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

-2-


MỞ ĐẦU
Trong tiến trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường, sự đa dạng các loại hình sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu

và ngày càng phổ biến trong toàn xã hội. Những thành tựu đổi mới đã cho
thấy rõ rằng: bên cạnh hình thức sở hữu Nhà nước, các hình thức sở hữu khác
( Tư nhân hay hỗn hợp) nếu được tạo điều kiện thuận lợi cũng phát huy vai
trò tích cực trong đời sống kinh tế. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu còn
cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh tế, nâng cao quyền tự chủ
tài chính và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách
nhiệm cũng như đầu óc sáng tạo của người lao động và các nhà quản lý doanh
nghiệp.
Việc nhận thức vấn đề đó đã tạo nền tảng cho việc thực hiện tốt hơn
tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong những năm tiếp theo.
Trước thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước đã thể hiện
tính kém hiệu quả, do tình trạng “cha chung không ai khóc”. Yêu cầu đặt ra là
phải chuyển đổi sở hữu, trong đó cổ phần hoá là cách làm hữu hiệu nhất. Chủ
trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện qua hơn chục
năm. Tiến trình đó đã được nhân rộng, đặc biệt trong mấy năm gần đây.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá đã kinh doanh có hiệu quả.
Tuy nhiên tiến trình này diễn ra còn chậm. Có nhiều nguyên nhân về
tình trạng này, cả nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Để đạt mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước đề
ra từ nay cho đến năm 2005 là sẽ chuyển đổi sắp xếp 45% số doanh nghiệp
hiện nay của Hà Nội, do đó đòi hỏi các cấp, các ngành, các nhà nghiên cứu
cần phải tìm được những giải pháp thích hợp hơn.
Để góp phần nhỏ bé sức lực của mình trong việc giải quyết vấn đề thực
tiễn đặt ra đó chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp cử nhân
của mình là: “Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội”.
-3-


Nội dung khoá luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà

nước.
Chương 2: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên
địa bàn Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước.

-4-


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của doanh nghiệp nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Theo luật doanh nghiệp nhà nước do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 20/04/1995 thì doanh nghiệp nhà nước
được định nghĩa như sau: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước
giao.
Như vậy doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nước
thành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao. Và vì doanh nghiệp
nhà nước do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong doanh nghiệp là thuộc sở
hữu nhà nước, còn doanh nghiệp chỉ quản lý, sử dụng tài sản theo quy định
của chủ sở hữu là nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ
dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số
vốn do doanh nghiệp quản lý. Nghĩa là doanh nghiệp nhà nước chịu trách

nhiệm hữu hạn về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do
doanh nghiệp quản lý.
Tất cả các doanh nghiệp nhà nước đều là tổ chức kinh tế do nhà nước
thành lập. Tài sản trong doanh nghiệp là một bộ phận của tài sản nhà nước do
nhà nước đầu tư vốn và nhà nước sở hữu về vốn. Doanh nghiệp nhà nước là
một chủ thể kinh doanh nhưng chỉ có quyền quản lý kinh doanh trên cơ sở sở
hữu của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là đối tượng quản lý trực tiếp của
nhà nước, chịu trách nhiệm trước nhà nước về việc bảo toàn và phát triển số
-5-


vốn của nhà nước giao cho, đồng thời thực hiện các mục tiêu mà nhà nước
giao.
1.1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay Việt Nam đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, các
doanh nghiệp đều bình đẳng trong kinh doanh và trước pháp luật. Nhưng
không có nghĩa là chúng có vị trí như nhau trong nền kinh tế. Phạm vi hoạt
động của thành phần này càng ngày càng giảm nhưng vẫn giữ vai trò chủ
đạo. Nó tồn tại trong những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế để nhà
nước có đủ sức thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, khắc phục những khiếm
khuyết của thị trường. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để nhà
nước can thiệp vào kinh tế thị trường điều tiết thị trường theo mục tiêu của
nhà nước đã đặt ra và theo đúng định hướng chính trị của nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành, lĩnh vực kinh
doanh mang lại ít lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận (mà các thành phần kinh
tế khác không đầu tư), do đó nó phục vụ nhu cầu chung của nền kinh tế, đảm
bảo lợi ích công cộng.
Hơn nữa, doanh nghiệp Nhà nước còn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh
đòi hỏi vốn lớn mà các thành phần kinh tế khác không đủ sức đầu tư, do đó

mà doanh nghiệp nhà nước lại càng có vai trò quan trọng. Việc đánh giá vai
trò quan trọng của kinh tế nhà nước không chỉ dựa vào sự lời lỗ trước mắt mà
phải tính đến hiệu quả kinh tế lâu dài. Sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước
là một tất yếu khách quan. Để doanh nghiệp nhà nước phát huy vai trò chủ
đạo của mình, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách quản lý thích hợp đối với
doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cũng phải tôn trọng quy luật kinh tế khách
quan, để các doanh nghiệp nhà nước không là gánh nặng cho nhà nước về
kinh tế mà kinh tế nhà nước phải được sắp xếp lại cho hợp lý nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

-6-


1.1.2. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt
Nam.
1.1.2.1. Quan niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và những ưu
việt của công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng nhau
góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp
và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn
của mình góp vào công ty. (Theo luật công ty ngày 21 - 12 – 1990)
Công ty cổ phần mang lại hiệu quả kinh doanh cao góp phần hoàn thiện
cơ chế thị trường, do quan hệ đa sở hữu trong công ty cổ phần nên quy mô có
khả năng mở rộng, huy động vốn dễ, thu hút được nhiều nhà đầu tư và tiết
kiệm của dân cư, nên có thể mở rộng quy mô nhanh. Công ty cổ phần có thời
gian tồn tại lâu dài vì vốn góp có sự độc lập nhất định với các cổ đông. Trong
công ty cổ phần, quyền sử dụng vốn tách rời quyền sở hữu nên hiệu quả sử
dụng vốn cao hơn. Đó là vì vốn trao vào trong tay các nhà kinh doanh giỏi,
biết cách để làm cho đồng vốn sinh lời. Mặt khác, do cơ chế phân bổ rủi ro
đặc thù, chế độ trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ trong mức vốn của

công ty nên các nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ phần, tạo cơ hội để huy
động vốn. Đặc biệt, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng là cách để
người lao động tham gia vào công ty chứ không phải là làm thuê nên tăng
trách nhiệm của họ đối với công việc.
Các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành cổ phần hoá thì vốn chủ sở
hữu doanh nghiệp nhà nước được bán cho nhiều đối tượng khác nhau như các
tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp đã tạo cơ chế
nhiều người cùng lo. Nhà nước có thể giữ lại một tỷ lệ cổ phần hoặc không.
Như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu nhà nước
duy nhất sang sở hữu hỗn hợp. Từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về
hình thức tổ chức quản lý cũng như phương hướng hoạt động cuả công ty.

-7-


Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá sẽ tổ chức hoạt động theo luật doanh
nghiệp.
Có thể khái quát về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một biện
pháp chuyển đổi hình thức sở hữu trong doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước
sang sở hữu của các cổ đông (trong đó nhà nước có thể tham gia với tư cách
cổ đông hoặc không tham gia). Đi đôi với việc chuyển đổi sở hữu là việc
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo hình thức công ty cổ
phần, được điều chỉnh theo các quy định trong Luật doanh nghiệp. Về hình
thức, đó là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần (vốn của
mình trong doanh nghiệp cho các cá nhân tổ chức trong và ngoài doanh
nghiệp, hoặc trực tiếp tự doanh nghiệp theo cách bán giá thông thường hay
bằng phương thức đấu giá hoặc qua thị trường chứng khoán.
Về bản chất, đó là phương thức thực hiện xã hội hoá đồng vốn thuộc
sở hữu nhà nước, chuyển từ doanh nghiệp 1 chủ sở hữu sang đa sở hữu, tạo
nên mô hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp kinh tế thị trường.

Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hóa
sản xuất dẫn đến sự tập trung lớn về vốn xã hội là điều mà một cá nhân không
thể đáp ứng được.
Từ những lý do nêu trên, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam hiện nay vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là điều kiện quan trọng để thúc
đẩy phát triển kinh tế đất nước.
1.1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được thành lập ngay sau khi
miền Bắc được giải phóng. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước đã góp
phần tích cực vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ( ví
dụ như: cung cấp các sản phẩm chủ yếu về tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu
dùng cho xã hội...). Nhưng do cơ chế bao cấp, nền kinh tế tự cung tự cấp kéo
dài cả khi đất nước đã hoà bình thống nhất, dẫn đến triệt tiêu động lực sản

-8-


xuất kinh doanh. Sản xuất không theo nhu cầu mà theo chỉ tiêu pháp lệnh của
nhà nước, sản xuất đình trệ không có hiệu quả. Nhất là vào những năm 1960
tình hình trở nên xấu hơn khi các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế.
Mục đích của việc thành lập doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo tích luỹ
cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho người lao động nhưng trong thực tế
các doanh nghiệp nhà nước không đáp ứng được những mục tiêu này. Do
doanh nghiệp nhà nước thường có xu hướng tập trung vào những ngành cần
vốn lớn sử dụng ít lao động, cộng thêm với trình độ của đội ngũ quản lý
doanh nghiệp có nhiều yếu kém, nên doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém
hiệu quả không đảm bảo được các mục tiêu nhà nước đặt ra đối với doanh
nghiệp nhà nước khi thành lập.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng kém hiệu quả của doanh

nghiệp nhà nước là:
- Do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung trong điều kiện chiến
tranh kéo dài. Trong cơ chế đó coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân, xem nhẹ quy luật kinh tế khách quan của thị trường nên hạch toán
doanh nghiệp mang tính hình thức, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quan liêu, nóng
vội chủ quan duy ý chí. Ngay cả trong thời kỳ đổi mới thì thành phần kinh tế
này vẫn hoạt động chưa hiệu quả, do chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường và thực tế, thái độ lao động của doanh nghiệp nhà nước còn mang tính
ỷ lại, nên năng xuất lao động không cao.
- Do sự yếu kém của đội ngũ công nhân, của cán bộ quản lý và trình độ
công nghệ. Sự yếu kém của lực lượng sản xuất còn thể hiện ở kết cấu hạ tầng
thấp kém của toàn bộ nền kinh tế cũng như của mỗi doanh nghiệp. Công nghệ
lạc hậu dẫn tới hậu quả tất yếu là sản phẩm chất lượng kém, giá thành sản
phẩm cao không thể cạnh tranh trên thị trường, vì thế doanh nghiệp chưa có
tích luỹ nội bộ.

-9-


- Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế và doanh nghiệp còn nhiều
yếu kém. Hệ thống chính sách pháp luật quản lý chưa hoàn chỉnh đồng bộ khi
còn chồng chéo mâu thuẫn, hiệu lực thực hiện thấp gây khó khăn cho doanh
nghiệp . Pháp luật còn nhiều kẽ hở chồng chéo không ổn định sự kém linh
hoạt của bộ phận quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra. Nên nhà
nước không nắm được thực trạng tài chính hiệu quả của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp nhà nước chưa xác định rõ quyền lợi trách nhiệm của người lao
động, cho nên người lao động không có trách nhiệm, không quan tâm đến
quản lý sử dụng tài sản doanh nghiệp, tình trạng tham nhũng tiêu cực trong
doanh nghiệp trở nên phổ biến. Cụ thể:
+ Công nợ của các doanh nghiệp nhà nước lớn, nợ phải thu chiếm

65% , nợ phải trả chiếm 125 % vốn nhà nước trong doanh nghiệp. Trong đó
nợ phải trả cho ngân hàng chiếm 25%.
+ Quy mô của doanh nghiệp nhà nước phần lớn nhỏ bé, số lượng nhiều.
Năm 1996 có 33% doanh nghiệp nhà nước có vốn nhỏ hơn 1 tỷ đồng trong đó
50% có số vốn nhỏ hơn 500 triệu đồng; số doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỷ
đồng chiếm tỷ lệ 30 %. Còn số doanh nghiệp có số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng
chỉ chiếm 23 % trong số các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động. Nhiều
doanh nghiệp cùng loại hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp
quản lý trên cùng 1 địa bàn tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh, nảy sinh
nhiều tiêu cực.
+ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước rất yếu vì chưa
chứng tỏ khả năng cạnh tranh trên thị trường vì mang tâm lý trông chờ ỷ lại
không tự xây dựng kế hoạch kinh doanh cho doanh nghiệp. Trên thực tế đã
chứng minh khả năng cạnh tranh và khả năng thành công của doanh nghiệp
phụ thuộc nhiều vào kế hoạch kinh doanh và kế hoạch cạnh tranh của doanh
nghiệp. Việc lựa chọn sản phẩm cho doanh nghiệp là yếu tố quan trọng hàng

- 10 -


đầu. Vì doanh thu mà sản phẩm mang lại phải bảo đảm bù đủ chi phí ngoài ra
còn phải có lợi nhuận.
+ Tình trạng thiếu vốn là phổ biến: trung bình mỗi doanh nghiệp có
11,6 tỷ đồng vốn do nhà nước cấp nhưng vốn hoạt động thực tế chỉ bằng 80%
vốn ghi trên sổ sách. Vốn lưu động chỉ còn 50 % huy động vào sản xuất kinh
doanh. Còn lại là công nợ khó đòi tài sản mất mát, kém phẩm chất, trang thiết
bị lạc hậu.
Vì thế việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả
gây lãng phí nguồn lực quốc gia, sang hình thức công ty cổ phần hay tư nhân
hoá doanh nghiệp nhà nước là cần thiết để nâng cao hiệu quả cạnh tranh của

doanh nghiệp và nền kinh tế.
1.2. NỘI DUNG VÀ QUI TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1.2.1. Nội dung cơ bản của chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước
Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được đề ra từ lâu
nhưng đến nay mới được quan tâm hợp lý, nhà nước đã đề ra nhiều giải pháp
để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá như nghị định
44/1998/NĐ-CP, nghị định 64/2002/NĐ-CP, bao gồm một số nội dung cơ bản
về cổ phần hoá như sau:
Về mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: La nhằm góp phần
quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại
hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động;
tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử
dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và của doanh nghiệp. Huy động
vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội
trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng

- 11 -


cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; đảm bảo hài hoà lợi
ích của nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
Về đối tượng doanh nghiệp cổ phần hoá: có đủ điều kiện hạch toán độc
lập, không gây khó khăn hay ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và các bộ phận còn lại.
Hình thức cổ phần hoá: Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh
nghiệp, phát hành cổ phần thu hút thêm vốn đầu tư. Bán một phần vốn nhà
nước hiện có tại doanh nghiệp. Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh

nghiệp. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phần thu
hút thêm vốn.
Phương thức bán cổ phần: Cổ phần được bán công khai tại doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hoá, hoặc tại các tổ chức tài chính trung gian theo
cơ cấu cổ phần lần đầu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong
phương án cổ phần hoá và sẽ được thực hiện theo phương thức bán đấu giá.
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có tình hình tài chính phù hợp với điều
kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán, thì phương án bán cổ phần ra bên
ngoài phải đảm bảo các điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng
khoán, sau khi chuyển thành công ty cổ phần. Tiền thu từ bán cổ phần thuộc
vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty nhà nước
(không phân biệt tổng công ty 90 hay tổng công ty 91) sẽ được chuyển về quỹ
hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá tổng công ty nhà nước. Tiền thu từ bán phần
vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được sử dụng để hỗ trợ
doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc mất việc tại thời
điểm cổ phần hoá hoặc sau khi người lao động chuyển sang làm việc tại công
ty cổ phần trong 5 năm đầu, kể từ khi công ty cổ phần được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hoá được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp có khó

- 12 -


khăn về khả năng thanh toán, để xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ bảo hiểm xã
hội.
Về xác định giá trị doanh nghiệp: Cho phép áp dụng nhiều phương
pháp xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá, đồng thời quy định tổ
chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá như cơ quan có thẩm quyền
quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ chỉ định người đại diện làm chủ tịch
hội đồng, cơ quan tài chính (cung cấp) cử người đại diện làm chủ tịch hội

đồng; hoặc lựa chọn công ty kiểm toán và tổ chức kinh tế có chức năng định
giá. Giá trị quyền sử đụng đất được tính vào giá trị doanh nghiệp đối với diện
tích đất nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng; doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hoá được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy
định của luật đất đai. Xác định lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
cổ phần hoá được so với lãi suất của trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở
thời điểm gần nhất. Cho phép tính giá trị thương hiệu vào giá trị doanh
nghiệp, nếu rõ ràng thì được thị trường chấp nhận. Kết quả xác định giá trị
doanh nghiệp là cơ sở xác định mức giá sàn để tổ chức bán cổ phần cho các
đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Toàn bộ giá trị doanh nghiệp nhà nước để
cổ phần hoá do bộ trưởng các bộ, chủ tịch UBND tỉnh thành phố quyết định,
trừ trường hợp giá trị doanh nghiệp thực tế nhỏ hơn so với trên sổ sách kế
toán của doanh nghiệp từ 500 triệu đồng trở lên, thì cần phải thoả thuận bằng
văn bản của bộ tài chính.
1.2.2. Qui trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Về quy trình cổ phần hoá thì nhà nước đã có hướng dẫn cụ thể trong
nghị định 64/2002/NĐ-CP đồng thời phải tuân thủ theo quy định của pháp
luật hiện hành của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc cho phép thành lập công ty cổ phần phải do cơ quan có thẩm
quyền thành lập doanh nghiệp nhà nước đó đồng ý và được sự đồng ý của cơ
quan chủ quản và ban chỉ đạo cổ phần hoá cho phép tiến hành cổ phần hoá.

- 13 -


Sau khi hoàn thành các thủ tục trên thì doanh nghiệp có quyết định cổ phần
hoá sẽ phải tiến hành định giá doanh nghiệp, tiến hành kiểm toán để xác định
tình hình tài chính của doanh nghiệp rồi mới làm đơn xin phép thành lập công
ty cổ phần.
Thứ nhất các sáng lập viên phải gửi đơn xin phép thành lập đến uỷ ban

nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương
đương nơi dự định đặt trụ sở chính. Trong đơn thành lập công ty phải kèm
theo phương án kinh doanh ban đầu và dự thảo điều lệ công ty. Sau khi được
chấp nhận thì công ty phải đăng ký kinh doanh bao gồm giấy phép thành lập,
điều lệ công ty và giấy tờ chứng thực trụ sở giao dịch của công ty. Việc tiến
hành đăng ký kinh doanh phải được tiến hành trong một năm.
Ngoài ra còn phải đảm bảo một số quy định sau: các sáng lập viên phải
cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% số cổ phiếu dự tính phát hành của công
ty. Trong trường hợp các sáng lập viên không đăng ký mua tất cả cổ phiếu
của công ty thì họ phải công khai kêu gọi vốn từ những người khác.
Các sáng lập viên phải gửi tất cả số tiền đã góp của người đăng ký mua
cổ phiếu vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng trong nước kèm theo
danh sách những người đăng ký mua số cổ phiếu và số tiền mỗi người đã góp.
Số tiền gửi chỉ được lấy ra khi công ty đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh hoặc sau một năm kể từ ngày cấp giấy phép thành lập công ty
không thành lập được
Các sáng lập viên triệu tập đại hội đồng thành lập để thông qua điều lệ
công ty và các thủ tục cần thiết khác.
Công ty cổ phần có thể được uỷ ban nhân dân thành phố trực thuộc
trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương nơi công ty cổ phần đặt trụ
sở chính cho phép phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Nếu có đủ tiêu chuẩn
và điều kiện phát hành cổ phiếu.

- 14 -


1.3. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ
CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1.3.1. Kinh nghiệm Trung Quốc.

Trung Quốc là một nước sớm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong những thập niên trước đây, do áp dụng một cách giáo điều mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp của các nước Liên Xô và
Đông Âu, cùng với tư tưởng đồng nhất chế độ công hữu với kinh tế, nên quy
mô doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc luôn chiếm tới 90% tổng tài sản
quốc gia.
Để thực hiện một trong những nhiệm vụ cơ bản là cải cách khu vực
doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc đã sớm đề ra nhiều chính sách cải cách:
như mở rộng nhường quyền và nhường lợi ích xí nghiệp, thực hiện khoán lợi
nhuận... tuy nhiên các chính sách này vẫn nằm trong khuôn khổ duy trì, giữ
nguyên hiện trạng mà chưa thay đổi căn bản chủ sở hữu, do đó chưa tạo ra
chuyển biến tích cực trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Từ những năm 1980, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách cơ chế
quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước (thông qua hình thức hợp đồng và cho
thuê) Trung Quốc bắt đầu vào chương trình cải cách sở hữu theo 3 hướng :
- Thành lập công ty cổ phần, cổ đông bao gồm nhà nước, tập thể, cá
nhân; đối với doanh nghiệp lớn và vừa nhà nước nắm cổ phần khống chế.
- Phát triển ở mức độ nhỏ loại hình doanh nghiệp tư nhân.
- Phát triển các mô hình doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chương trình thí điểm cổ phần hoá được đề ra trong "Quy định về đi
sâu cải cách, tăng cường sức sống doanh nghiệp của Trung ương" tháng
12/1986. Tuy nhiên, chương trình này chỉ thực sự phát triển mở rộng từ sau
năm 1992 khi Quốc vụ viện và Nhà nước Trung Quốc phê chuẩn văn kiện
"Các biện pháp thí điểm cổ phần xí nghiệp" và "Ý kiến quy phạm công ty hữu
hạn cổ phần".
Các biện pháp cổ phần hoá được quy định bao gồm :
- 15 -


- Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức ngoài

doanh nghiệp thông qua bán cổ phiếu và cải biến doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần khống chế. Đây là loại
doanh nghiệp nhà nước cổ phần.
- Bán phần lớn giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước thông qua bán
cổ phiếu cho mọi đối tượng, trong đó Nhà nước là một cổ đông song không
nắm cổ phần khống chế. Đây là loại Công ty cổ phần thuần tuý.
- Bán toàn bộ doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân để hình thành các
công ty tư nhân hoặc các công ty cổ phần. Đây có thể coi là biện pháp tư nhân
hoá hoàn toàn.
- Giữ nguyên vốn Nhà nước và gọi thêm vốn của các cổ đông khác để
chuyển thành công ty cổ phần.
- Nhà nước góp vốn với tư nhân để hình thành công ty cổ phần mới.
Theo con số thống kê cuối năm 1992, Trung Quốc có khoảng 3.700 xí
nghiệp cổ phần hoá trong đó 750 xí nghiệp nguyên là quốc doanh được
chuyển đổi. Đến cuối năm 1993 số xí nghiệp cổ phần hoá trong cả nước trong
năm lên tới 2.540 xí nghiệp, trong đó có 218 doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán.
Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế giảm từ 80,7% (năm
1978) xuống còn 57% (năm 1994). Tuy nhiên con số doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ vẫn lớn chiếm tới 49,5% (kim ngạch thua lỗ 34,4 tỷ NDT). Một thực
trạng đối với xí nghiệp cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần khống chế vẫn
không thay đổi được cơ chế quản lý (ban lãnh đạo cũ), hoạt động kinh doanh
theo lối cũ làm cho xí nghiệp chưa thể vận hành theo nguyên tắc thị trường).
Trong bản báo cáo về "Vấn đề bảo đảm quyền lợi và lợi ích của cổ
phần nhà nước trong xí nghiệp cổ phần" tháng 6/1994 của ông Phạm Nhạc Phó cục trưởng Cục quản lý cổ phần nhà nước còn nêu ra 3 tồn tại khác gồm:
"Một là, đại diện quyền sở hữu nhà nước trong công ty cổ phần không rõ

- 16 -



ràng, không hoàn toàn đại diện cho nhà nước. Hai là, tỷ trọng cổ phần nhà
nước có xu thế suy giảm rõ rệt, các công ty cổ phần ban đầu mới thành lập, cổ
phần nhà nước đều chiếm trên 50%, nhưng sau đó cổ phần nhà nước cứ giảm
dần, có công ty hàng năm giảm 10%. Ba là, cổ phần nhà nước không thể vận
hành (mua bán) nên về cơ bản trong tình trạng ngưng trệ, vốn nhà nước rất
khó bảo tồn và tăng giá trị".
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc sau giai
đoạn này đã được đẩy lên một bước mới.
Văn kiện đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 14 coi việc xây
dựng chế độ doanh nghiệp hiện là nhiệm vụ trung tâm trong kế hoạch 5 năm
lần thứ 9 (1993-1997).
Theo đó các xí nghiệp mới mang bốn đặc trưng :
- Quyền sở hữu tài sản rõ ràng.
- Quyền lợi và trách nhiệm của mọi chủ thể rõ ràng
- Chính quyền và xí nghiệp tách rời nhau
- Quản lý khoa học.
Trên cơ sở này, doanh nghiệp nhà nước được chuyển thành 5 loại:
- DN nhà nước : gồm các doanh nghiệp lớn có vị trí then chốt, do Nhà
nước quản lý và sở hữu.
- Công ty chung vốn đầu tư nhà nước : Gồm các doanh nghiệp công
cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà nước sở hữu trên 51%.
- Công ty cỡ lớn và vừa, không quan trọng lắm về chiến lược, nhà nước
sở hữu dưới 50%.
- Các tập đoàn do nhà nước sở hữu : Đó là những doanh nghiệp có
mạng lưới rộng khắp cả nước, tổ chức dưới mô hình tập đoàn.
- Các doanh nghiệp nhỏ được sắp xếp, hợp nhất tạo thành các công ty
mới liên doanh với tư nhân, nước ngoài, hoặc giải thể phá sản.

- 17 -



Nhiều biện pháp mới liên quan đến cổ phần hoá được áp dụng như
thành lập Công ty quản lý doanh nghiệp trung ương và biến các công ty cổ
phần hoá thành công ty con của Công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng ra
khỏi doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần;
đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài vào các xí nghiệp cổ phần hoá...
Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc đã cổ phần hoá và thành lập mới
được khoảng 9.200 Công ty cổ phần với tổng vốn đăng ký khoảng 600 tỷ
NDT, trong đó cổ phần nhà nước chiếm 43%.
Như vậy sau gần 20 năm thực hiện cải cách mở cửa và cải cách thể chế
kinh tế (trong đó có cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là hướng đi chính
của cải cách chế độ sở hữu), Trung Quốc đã thu được nhiều thắng lợi, tuy
cũng có những vấp váp, thất bại, nhưng nhìn chung con đường cải cách của
Trung Quốc là đúng đắn và được sự ủng hộ của nhân dân.
Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc:
- Xây dựng và quán triệt một quan niệm, một mục tiêu đúng đắn về cổ
phần hoá, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội : Chuyển doanh nghiệp nhà
nước thành công ty cổ phần là để thu hút vốn từ bên ngoài vào, chứ không
bán toàn bộ tài sản Nhà nước.
- Hình thức cổ phần hoá áp dụng chủ yếu đối với các doanh nghiệp vừa
và lớn, có khả năng phát triển.
- Áp dụng tỷ lệ bán cổ phần đa dạng. Chẳng hạn như ở Thẩm Quyến,
cổ đông tư nhân chiếm tới 12%, ở Thượng Hải chỉ có 8,5% trong đó tư nhân ở
nước ngoài chiếm tới 41%.
- Cổ phần hoá muốn phát triển và mở rộng phải có sự gắn kết với thị
trường chứng khoán. Đặc biệt, Trung Quốc đã xoá bỏ sự phân biệt giữ cổ
phiếu Nhà nước (cổ phiếu A) và cổ phiếu của các cá nhân, pháp nhân (cổ
phiếu B) gọi chung là cổ phiếu đầu tư, tạo một sân chơi bình đẳng cho các
nhà đầu tư.


- 18 -


- Chính phủ Trung Quốc chú trọng đến giải pháp kích cầu và tạo cơ sở
ban đầu cho việc hình thành thị trường vốn trong nước. Bên cạnh việc mở
rộng đối tượng bán để các công dân có thể tham gia chương trình cổ phần
hoá, chính phủ còn có biện pháp hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong
doanh nghiệp, có các chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng
thị trường mua, kể cả việc bán cho người nước ngoài và chuyển nợ thành vốn
đầu tư.
- Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài.
1.3.2. Kinh nghiệm thành phố Hồ Chí Minh
- Năm 1999: Có 42 doanh nghiệp đã được thông qua ban đổi mới
doanh nghiệp thành phố trong số này đã có 35 doanh nghiệp có quyết định
chuyển thể từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần; 5 doanh nghiệp
gửi đề án trình TW (doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng) và 2 doanh nghiệp
đang hoàn tất hồ sơ trình chuyển thể.
- Năm 2000: Có 23 doanh nghiệp đã được thông qua ban đổi mới quản
lý doanh nghiệp thành phố, trong số này có 18 doanh nghiệp đã có quyết định
chuyển thể từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần và 5 doanh nghiệp
đang hoàn tất hồ sơ trình chuyển thể.
- Năm 2001: Có 32 doanh nghiệp được thông qua đề án cổ phần hoá
trong đó 28 doanh nghiệp đã có quyết định chuyển thể và 4 doanh nghiệp
đang trình hồ sơ, chờ quyết định chuyển thể.
Sau cổ phần hoá số lượng lao động tăng 10% với thu nhập tăng 20 %.
Điều này khuyến khích người lao động yên tâm làm việc, cống hiến hết khả
năng của mình vào công việc.
Sau khi cổ phần hoá bình quân giá trị vốn nhà nước chỉ chiếm 25%
trong cơ cấu vốn điều lệ, còn lại là vốn của các cổ đông là cán bộ công nhân
viên chức và cổ đông ngoài doanh nghiệp chiếm 75 %. Như vậy cổ phần hoá

đã thực hiện được mục tiêu thu hút rộng rãi các các nguồn vốn của người lao

- 19 -


động trong cả doanh nghiệp và ngoài xã hội để phát triển doanh nghiệp. Tuy
nguồn vốn của nhà nước chỉ chiếm 25% tổng số vốn của công ty cổ phần, vốn
của các đối tượng khác chiếm 75%, nhưng lại là nguồn vốn phân tán, do dó
phần sở hữu của nhà nước trong các công ty vẫn giữ vai trò trọng yếu, chi
phối hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở thành phố Hồ Chí
Minh:
Từ thực tế cổ phần hoá của cả nước mà điển hình là thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức
công ty cổ phần chẳng những giúp nhà nước bảo tồn nguồn vốn của mình mà
còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn trước đây, nhà nước cũng
thu hồi vồn để đầu tư cho các doanh nghiệp khác. Vai trò của người lao động
trong doanh nghiệp cổ phần hoá cũng có sự đổi khác họ vừa làm việc cho
công ty cổ phần vừa là chủ sở hữu công ty trên cơ sở đồng vốn của mình. Vì
thế ý thức và tinh thần trách nhiệm được nâng cao hơn trước. Hoạt động của
các doanh nghiệp sau cổ phần hoá nhạy bén năng động tự chủ hơn trước. Nhờ
đó mà chất lượng hiệu quả công việc cũng cao hơn trước, các khoản đóng góp
vào ngân sách nhà nước cũng tăng lên.
Cổ phần hoá đã đem lại lợi ích cho cả nhà nước, người lao động và cổ
đông của doanh nghiệp. Từ thực tế đó đã chứng minh rằng chủ trương của
Đảng và nhà nước ta về cổ phần hoá là hoàn toàn đúng đắn.

- 20 -



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
2.1. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM.

2.1.1. Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996)
Giai đoạn này cả nước mới chỉ có 5 doanh nghiệp được cổ phần hoá.
Trong đó Hà Nội không có doanh nghiệp nào được cổ phần hoá. Các công ty
được cổ phần hoá đó là công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc Việt
Phương, cổ phần hoá vào ngày 1/7/1995 với tổng vốn là 7.912 triệu đồng, nhà
nước nắm giữ 30% số cổ phần tại doanh nghiệp. Công ty cổ phần đại lý liên
hiệp vận chuyển cổ phần hoá ngày 1/7/1993 với số vốn là 6.200 triệu đồng.
Công ty cổ phần cơ điện lạnh ngày 1/10/1993 với số vốn ban đầu là 16.000
triệu đồng.
Còn các công ty khác được cổ phần hoá lại ở các địa phương khác, mà
nhà nước chủ yếu chỉ nắm giữ 30% cổ phần tại công ty. Riêng tại Công ty cổ
phần đại lý liên hiệp vận chuyển nhà nước chỉ nắm giữ 18% tổng số cổ phần.
Các nghị quyết hội nghị Trung ương 2 khóa VII, Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị, Thông báo số 63 TB/TW của Bộ chính trị, Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết kỳ họp thứ 10 quốc hội khóa VII
ngày 26/12/1991, Nghị quyết kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa IX tháng 12/1993
đều chủ trương:
- Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận doanh
nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn nhằm ngăn chặn tiêu cực, thúc
đẩy doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả.
- Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi
mở rộng phạm vi thích hợp.

- 21 -



- Cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ thích hợp với tính
chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ
cổ phần chi phối.
- Tùy tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ
phần cho công nhân, viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực bên
trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân
ngoài doanh nghiệp để thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh.
Cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng và của quốc hội, chính phủ (lúc đó
là HĐBT) đã có quyết định 202/HĐBT ngày 8/6/1992 về việc : "tiếp tục thí
điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần", và chỉ
thị 84/TTg ngày 4/3/1993 của thủ tướng về việc "xúc tiến thực hiện thí điểm
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hóa sở hữu
doanh nghiệp Nhà nước", đây là những cơ sở pháp lý đầu tiên của chính phủ
hướng dẫn và thúc đẩy việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước. Về phía ngành tài chính cũng đã ban hành thông tư số 36/TC/CN ngày
7/5/1993 hướng dẫn những vấn đề về tài chính trong việc thực hiện thí điểm
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Có thế nói chương trình cổ phần hóa
doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam thực sự bắt đầu từ năm 1992.
Nhìn chung, do hoạt động cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước mới
chính thức được thực hiện ở Việt Nam, do đó hệ thống cơ chế chính sách về
cổ phần hóa cũng chưa lường hết được những khía cạnh phát sinh trong tiến
trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước như:
- Còn quá nhiều chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt
là các chính sách tài chính, tín dụng nên dẫn tới các doanh nghiệp cảm thấy bị
thiệt thòi, khó khăn khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần.
- Việc xử lý các tồn tại về tài sản trong doanh nghiệp chưa có hướng dẫn
cụ thể, rõ ràng, còn mang tính chất khoán trắng cho doanh nghiệp (doanh


- 22 -


nghiệp phải xử lý trước khi tiến hành cổ phần hóa), làm cho các doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn hết sức lúng túng khi xử lý các vấn đề tồn tại. Thậm chí
một số doanh nghiệp đã xin thôi không làm thí điểm vì trong một thời gian
dài vẫn chưa xác lập được quyền sở hữu đối với một số tài sản được tiếp quản
trong quá trình cải tạo công thương, hoặc không tự xử lý nổi các tồn tại về
mặt tài chính khác như: các khoản lỗ, công nợ khó đòi hoặc hàng hóa ứ đọng
kém, mất phẩm chất...
- Chưa có các chính sách ưu đãi thỏa đáng cho doanh nghiệp và người
lao động ở các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, dẫn tới người lao động ở
các doanh nghiệp này cảm thấy quyền lợi mình không được đảm bảo, quá bị
thiệt thòi khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần.
2.1.2. Giai đoạn mở rộng (5/1996-6/1998):
Trong giai đoạn này đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước được cổ phần
hoá hơn trong giai đoạn trước nhờ chính phủ đã quan tâm hơn đến công tác cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Và việc một số doanh nghiệp đã cổ phần
hoá thành công đã và đang thu được nhiều kết quả khả quan cải thiện đáng kể
năng lực cạnh tranh của công ty và hiệu quả sản xuất kinh doanh so với trước
khi cổ phần hoá, đã thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Việt Nam nhưng tốc độ
vẫn chậm chạp chưa đảm bảo thực hiện được kế hoạch của nhà nước giao. Cụ
thể đã có 111 doanh nghiệp đã được tiến hành cổ phần hoá chiếm 2% so với
tổng số doanh nghiệp nhà nước.
Trong đó Hà Nội chiếm khoảng 3,6% tổng số doanh nghiệp cổ phần
hoá trên cả nước. Đặc biệt là năm 1998 trên địa bàn Hà Nội đã cổ phần hoá
được 30 công ty với tổng số vốn đầu tư đạt 119.341 triệu đồng trong đó vốn
nhà nước là 28.744 triệu đồng chiếm 24% tổng vốn đầu tư, vốn do cổ đông
trong doanh nghiệp nắm giữ là 61.655 triệu đồng chiếm 51,6% số cổ phần của
doanh nghiệp còn lại là số vốn do cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ, chỉ

chiếm 24,3%. Như vậy cổ đông trong doanh nghiệp là người nắm giữ tỷ lệ áp

- 23 -


đảo số cổ phần trong các doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung quy mô vốn của
các doanh nghiệp còn nhỏ do chưa có tích luỹ nội bộ, mỗi doanh nghiệp trung
bình chỉ có gần 4 tỷ đồng vốn.
Văn bản ban hành trong giai đoạn này là: Nghị định 28/CP ngày
7/5/1996 về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ
phần. Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997 sửa đổi một số điều NĐ28/CP và chỉ
thị 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng chính phủ về thúc đẩy triển khai
vững chắc công tác cổ phần hóa. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế đối với chính
sách này, nên tốc độ cổ phần hoá đã chững lại trên cả nước (bao hàm cả yếu
tố kinh tế quốc tế).
- Mục tiêu huy động vốn chưa được khai thác tốt. NĐ28/CP chưa quy
định việc bán cổ phần cho người nước ngoài và giới hạn đầu tư vốn của các
nhà đầu tư trong nước từ 5-10% giá trị doanh nghiệp dẫn đến chủ yếu là cổ
phần hóa nội bộ, rất ít doanh nghiệp cổ phần hóa rộng rãi ra công chúng.
-Việc hướng dẫn, giải thích các tiêu thức để lựa chọn doanh nghiệp Nhà
nước làm cổ phần hóa trong NĐ28 còn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng (thế nào là
quy mô vừa và nhỏ, thế nào là không thuộc diện Nhà nước cần thiết giữ 100%
vốn đầu tư, tiêu chí gì để xác định? ai xác định? xí nghiệp tự xác định hay
Nhà nước xác định..)
- NĐ 28 đưa ra 3 hình thức cổ phần hóa, tuy nhiên chưa có tiêu thức rõ
ràng: thế nào là đủ điều kiện để cổ phần hóa một bộ phận, cách thức tách và
tổ chức cổ phần hóa theo hình thức này? việc giải quyết các chế độ ưu đãi cho
người lao động ở trong cùng doanh nghiệp nhưng không làm việc ở bộ phận
này như thế nào? sẽ giải quyết ra sao đối với phần còn lại, đặc biệt khi phần
còn lại hoạt động kinh doanh không có hiệu quả?...

- Về định giá: thiếu một hệ thống văn bản pháp quy quy định và hướng
dẫn việc định giá doanh nghiệp và thiếu đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình
độ để làm công tác định giá

- 24 -


Chưa chú ý đúng mức quyền lợi của người mua: chưa tuân theo quy luật
thị trường (ở đây người bán là Nhà nước định trước, người mua định sau); giá
trị doanh nghiệp cổ phần hóa vẫn còn chứa đựng những yếu tố rủi ro cao,
hoặc người mua không có nhu cầu (như tài sản không cần dùng, chờ thanh lý,
các khoản công nợ dây dưa chưa được xử lý...)
- Những phương pháp xác định giá trị lợi thế (quy định tại NĐ 28 và
thông tư 50 TC/TCDN) còn nhiều hạn chế:
+ Khi xác định tỷ suất lợi nhuận của 3 năm liền kề với thời điểm cổ
phần hoá là dựa trên vốn Nhà nước cấp hiện hành. Nhưng khi xác định lợi thế
lại dựa trên số vốn Nhà nước đã đánh giá lại. Sự không đồng nhất này đã làm
thiệt hại cho người mua nếu phần vốn Nhà nước đánh giá tăng lên và thiệt hại
cho Nhà nước nếu phần vốn Nhà nước đánh giá lại giảm đi.
+ Lợi thế mới chỉ dựa vào kết quả kinh doanh thực tế trong quá khứ,
nhưng tương lai của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhiều biến động
khác, đặc biệt là cạnh tranh cao thì giá trị siêu ngạch do lợi thế mang lại sẽ
giảm đi. Vì vậy có tính cả 100% giá trị lợi thế vào giá trị doanh nghiệp để bán
thì người mua cổ phần sẽ bị thiệt thòi.
- Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp quá phiền hà, phải qua tới 3
giai đoạn: hội đồng thẩm định giá của doanh nghiệp, kiểm toán, hội đồng
thẩm định của Nhà nước và sau đó cơ quan có thẩm quyền mới công bố giá.
- Giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá là giá trị thực tế mà người mua,
người bán đều chấp nhận được, nhưng khi xác định giá trị doanh nghiệp tổ
chức kiểm toán chủ yếu dựa trên sổ sách kế toán. Do đó, kết quả kiểm toán

không sử dụng được vào việc công bố giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá,
làm chậm tiến trình cổ phần hoá và làm tăng chi phí của doanh nghiệp.
Chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp và cho người lao động khi tiến
hành cổ phần hoá chưa hấp dẫn: theo NĐ28 có 6 ưu đãi cho doanh nghiệp
chuyển đổi, song không quy định rõ các giải pháp để thực hiện các ưu đãi đó

- 25 -


×