Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đảng cộng sản việt nam với việc đổi mới tư duy đối ngoại trong công cuộc đổi mới (1986 1996),

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.98 KB, 19 trang )

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối ngoại là một lĩnh vực quan trọng đặc biệt đối với mọi quốc gia trên thế
giới. Nó góp phần cùng đường lối đối nội quyết định đến sự tồn tại, phát triển
của đất nước, của dân tộc. Vì vậy, đường lối, chủ trương, chính sách và hoạt
động đối ngoại của mỗi quốc gia dân tộc, mỗi chế độ chính trị, bao giờ cũng giữ
vị trí quan trọng hàng đầu.
Ngày nay, cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện, mặt trận đối ngoại tiếp tục
thu được nhiều thành tựu to lớn. Đối ngoại đã và đang trở thành chiếc cầu nối
liền Việt Nam với thế giới, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển mọi mặt về
kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội.
Có được thành tựu to lớn trên lĩnh vực đối ngoại trong thời kỳ đổi mới là kết
quả tổng hợp của nhiều yếu tố mang lại, là sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng,
toàn dân, của các ngành, các cấp, các địa phương và cả hệ thống chính trị. Tuy
nhiên, yếu tố quan trọng hàng đầu và quyết định nhất phải bắt nguồn từ sự lãnh
đạo đúng đắn sáng tạo của Đảng trên mặt trận đối ngoại. Đảng đã đổi mới tư
duy đối ngoại phù hợp với xu thế tất yếu của đất nước và tình hình quốc tế. Đó
thực chất là một quá trình chuyển hoá đường lối, từ đối đầu chuyển sang đối
thoại, hoà bình; từ quan hệ với một số nước xã hội chủ nghĩa là chủ yếu chuyển
thành "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại". Điều đó đánh dấu một
quá trình đổi mới tư duy sáng tạo trong suốt 10 năm đổi mới (1986 - 1996). Có
được đường lối đúng đắn ấy, bởi nó bắt nguồn từ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; truyền thống văn hoá Việt Nam và từ những kinh nghiệm quý
báu của nền ngoại giao cách mạng; góp phần xứng đáng vào những thắng lợi to
lớn, quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình
lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Đảng vẫn có một số mặt yếu kém, bất cập
như: chưa dự đoán hết tình hình, đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết
(12/1991). Hiệu quả hội nhập và hợp tác quốc tế chưa cao, còn lúng túng nên
ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội. Thủ tục hành chính còn phiền hà,
môi trường đầu tư chưa thông thoáng nên đầu tư nước ngoài vào còn chậm và
hiệu quả không cao. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ, năng
1




lực của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại chưa tương xứng... Bên cạnh đó
sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên mặt trận đối ngoại ngày
càng tinh vi, phức tạp, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục đổi mới tư
duy đối ngoại theo hướng mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập
và hợp tác quốc tế, xứng đáng với tầm vóc và vị thế ngày càng cao của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Việc luận giải, làm sáng tỏ cơ sở khoa học và tính đúng đắn sáng tạo quá trình
đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng và hoạt động chỉ đạo thực hiện đường lối đối
ngoại theo tư duy mới trong những năm 1986-1996, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và quá trình
hội nhập quốc tế. Mặt khác, để góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân, nâng cao ý thức trách nhiệm và hiệu quả trong từng mặt
hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa cho
sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời
góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài "Đảng Cộng sản Việt Nam với việc đổi mới
tư duy đối ngoại trong công cuộc đổi mới (1986 - 1996)", nhằm làm sáng tỏ
quá trình đổi mới tư duy đối ngoại, quá trình chỉ đạo thực hiện đổi mới tư duy
đối ngoại của Đảng trong 10 năm (1986-1996), từ đó rút ra một số kinh nghiệm
góp phần hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Đảng Cộng Sản Việt Nam đổi mới tư duy đối ngoại thời kỳ 1986 - 1996 là
một chủ đề rộng lớn được giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Trong
đó, tiêu biểu là các công trình khoa học của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà
nước: nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996;

nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh", Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, Số 4, Tháng 8 năm 2000; nguyên phó Thủ
2


tướng Nguyễn Mạnh Cầm, "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại mới", Tạp chí
Cộng sản, Số 17, Tháng 9 năm 2000. Các nhà ngoại giao: Lưu Văn Lợi, "50 năm
ngoại giao Việt Nam"; Vũ Khoan, "Một số vấn đề quốc tế của Đại hội VII"; Trần
Quang Cơ, "Cục diện thế giới, vận nước". Một số công trình khoa học: "Chính
sách đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới (1986 - 1996)", Luận án thạc sĩ khoa
học của Bùi Trung Thành; "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới đất nước" của Nguyễn Trọng Phúc; "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về một số vấn đề quốc tế", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
Giáo sư Phan Ngọc Liên chủ biên.
Thông qua các bài viết của mình, các tác giả trên đã đề cập đến nhiều vấn
đề về quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ mới;
sự tác động của tình hình thế giới, tình hình trong nước đến hoạt động đối
ngoại của Đảng ta; luận giải những thuận lợi, những khó khăn trên con đường
hội nhập, đồng thời đưa ra một số kinh nghiệm và giải pháp phục vụ hoạt động
đối ngoại của Đảng ta ở từng giai đoạn lịch sử nhất định... Tuy nhiên, đi sâu
làm rõ tính tất yếu của việc đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng trong những
năm 1986 – 1996, quá trình đổi mới tư duy và sự chỉ đạo của Đảng thực hiện
đường lối đối ngoại theo tư duy mới thì chưa có công trình nào đề cập đến.
Đây là vấn đề mà đề tài tập trung nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích: Làm sáng tỏ quá trình đổi mới tư duy đối ngoại trong 10 năm
đầu thực hiện đường lối đổi mới, trên cơ sở đó chứng minh tính đúng đắn, sáng
tạo của đường lối đối ngoại do Đảng ta đề xướng, lãnh đạo. Đồng thời khẳng
định thành tựu và kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đối
ngoại của Đảng trên con đường đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế

(1986-1996).
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ tính tất yếu của quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng thời
kỳ 1986 – 1996.

3


- Trình bày quá trình đổi mới tư duy đối ngoại và quá trình chỉ đạo thực hiện
đổi mới tư duy đối ngoại từ 1986 đến 1996 của Đảng.
- Làm rõ những thành tựu, những hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm trong
quá trình lãnh đạo đổi mới tư duy đối ngoại thời kỳ 1986 - 1996.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Tư duy mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về đối ngoại từ năm
1986 đến năm 1996 và quá trình chỉ đạo thực hiện đường đối ngoại theo tư duy
mới.
- Phạm vi nghiên cứu: Quá trình đổi mới tư duy và sự chỉ đạo thực hiện
đường lối đối ngoại theo tư duy mới của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 –
1996.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận : Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
là cơ sở lý luận và phương pháp luận để giải quyết đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác
Lênin, để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương
pháp chủ yếu như: phương pháp lịch sử, phương pháp lô gíc và các phương pháp
khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần tổng kết quá trình lãnh đạo và chỉ
đạo hoạt động đối ngoại của Đảng trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới.
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy môn

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhà trường và nghiên
cứu về các vấn đề liên quan.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài kết
cấu thành 2 chương, 4 tiết.

4


Chương 1
TÍNH TẤT YẾU VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
TƯ DUY ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ 1986 ĐẾN 1996
1.1. Tính tất yếu đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng
1.1.1. Tình hình thế giới có nhiều biến động to lớn, phức tạp đòi hỏi Đảng ta
phải đổi mới tư duy đối ngoại
Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và quá
trình điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản, cùng với sự khủng hoảng dẫn
tới sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô là những
nhân tố chủ yếu tác động vào quá trình đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có
quá trình đổi mới tư duy và đổi mới hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta. Bên cạnh đó, loài người đang đứng trước những vấn đề toàn cầu như môi
trường sinh thái ô nhiễm, sự gia tăng dân số nhanh, bệnh tật hiểm nghèo, tội
phạm quốc tế, nguy cơ chiến tranh... là những vấn đề đòi hỏi cộng đồng quốc tế,
có chung tiếng nói và sự phối hợp hiệu quả giữa các quốc gia để cùng giải quyết.
Trong bối cảnh đó, đòi hỏi nước ta phải hoà nhập cùng cộng đồng quốc tế, vì
một thế giới hoà bình, ổn định và phát triển.
1.1.2. Tình hình trong nước có những thuận lợi cơ bản, song cũng đứng trước
nhiều thử thách nghiêm trọng, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy đối
ngoại
Trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, thế giới có nhiều biến

động phức tạp trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và quan
hệ quốc tế. Nó có tác động ảnh hưởng rất to lớn tới tình hình mọi mặt của mọi
quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, cách mạng Việt Nam đã giành
được nhiều thành tựu quan trọng, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức. Nhận thức đúng đắn thực trạng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xướng
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới tư duy đối ngoại mà
thực chất là từng bước đổi mới đường lối, đổi mới chính sách và các chủ trương,
biện pháp trong công tác đối ngoại cho phù hợp với tình hình trong nước và
quốc tế. Cho phép khai thác hiệu quả nguồn lực bên trong với nguồn lực bên
5


ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước.
1.2. Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng từ 1986 đến 1996
1.2.1. Chủ trương thêm bạn bớt thù, chọn khâu đột phá, từng bước chuyển
hướng chiến lược đối ngoại giai đoạn 1986 - 1991
Thứ nhất, với chủ trương "thêm bạn bớt thù" và chủ trương "đa dạng hoá
quan hệ đối ngoại" nhằm tập trung sức giữ vững hoà bình, phát triển kinh tế.
Việt Nam đã chuyển đổi lập trường từ đối đầu sang đối thoại, mở ra một thời kỳ
mới trong quan hệ quốc tế.
Thứ hai, giải quyết vấn đề Campuchia và tiến tới bình thường hoá Việt Nam
- Trung Quốc, từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ, các nước Đông Nam Á và
các nước phương Tây.
Với việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đối ngoại kịp thời. Công tác đối
ngoại thời kỳ 1986 - 1991 đã gặt hái được những thành công quan trọng bước
đầu, tạo ra những tiền đề quan trọng, cần thiết cho việc mở ra một thời kỳ mới:
phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ đối ngoại.
1.2.2. Chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, từng bước

phá thế bao vây cô lập của các thế lực thù địch giai đoạn 1991 - 1996
Một là, các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự học tự cường, đấu
tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, đặc biệt là của chủ nghĩa
đế quốc để giữ vững hoà bình, bảo vệ độc lập và phát triển. Xu hướng này nổi
lên ngày càng rõ nét.
Hai là, các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực
lượng cách mạng khác trên thế giới kiên trì đi theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, phấn đấu
vì một xã hội mới tốt đẹp: độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Ba là, các nước đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại,
vừa cải thiện quan hệ đối ngoại vừa hợp tác liên kết các nước trong khu vực.

6


Bốn là, các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu
tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
Đây là những căn cứ quan trọng để hoạch định đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng ta. Nghị quyết chỉ rõ tư tưởng và phương châm chỉ đạo của
Đảng trong công tác đối ngoại thời gian tới là: giữ vững nguyên tắc độc lập,
thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời phải rất năng động sáng tạo, linh hoạt,
phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến
của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có
quan hệ.
Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại được hình thành với quá trình đổi mới
"toàn diện, đồng bộ" đất nước. Các nghị quyết của Đảng trong các năm 1986 1988 trên lĩnh vực đối ngoại đánh dấu một bước phát triển hết sức quan trọng
trong đổi mới tư duy nhận thức về các vấn đề quốc tế và đối ngoại của Đảng ta.
Trong đó Nghị quyết 13 Bộ Chính trị (20/5/1988) được đánh dấu như một bước
chuyển có ý nghĩa chiến lược tạo ra sự đột phá trong quá trình đổi mới tư duy
đối ngoại.

Đổi mới tư duy đối ngoại là một bộ phận quan trọng của đường lối đổi mới, là
một lĩnh vực nhay cảm và phức tạp. Nhưng với bản lĩnh vững vàng, với tầm nhìn
xa, trông rộng, lại được vũ trang bằng thế giới quan khoa học Mác - Lênin, thấm
nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh "dĩ bất biến, ứng vạn biến", Đảng ta đã từng bước
đổi mới tư duy, phát triển đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng một cách
đúng đắn, sáng tạo, đưa cách mạng vượt qua khó khăn thử thách. Đối ngoại đã
cùng các lĩnh vực khác góp phần to lớn tao ra thế và lực mới cho cách mạng
Việt Nam vững bước tiến vào thế kỷ XXI.

7


Chương 2
ĐẢNG CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
THEO TƯ DUY MỚI - THÀNH TỰU VÀ KINH NGHIỆM
2.1. Quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại theo tư duy
mới từ 1986 đến 1996
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, các hoạt động ngoại giao của Đảng và
Nhà nước ta trong giai đoạn từ 1986 đến 1996, cũng được triển khai một cách
tích cực chủ động, chuyển mạnh từ đối đầu sang đối thoại, từng bước phá thế
bao vây cô lập của các thế lực thù địch, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối
ngoại, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực. Quá trình đó vừa bám sát đường
lối, quan điểm và chính sách đối ngoại của Đảng, đồng thời vừa thể hiện tính
năng động, sáng tạo trong từng mối quan hệ, trong từng đối tượng và từng thời
điểm lịch sử cụ thể, với sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa hoạt động ngoại giao
của Nhà nước với hoạt động đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân. Quá
trình đó thể hiện ở những nội dung sau:
2.1.1. Chỉ đạo đổi mới quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong
khu vực
- Chỉ đạo giải quyết vấn đề Campuchia

Việt Nam tích cực ủng hộ nhân dân Campuchia xây dựng lại đất nước, đồng
thời ủng hộ mạnh mẽ Campuchia gia nhập ASEAN. Việt Nam đã làm hết sức
mình để Campuchia trở thành thành viên chính thức ASEAN vào tháng 4 năm
1999. Việc Campuchia trở thành thành viên ASEAN góp phần thúc đẩy xu thế
hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển ở Đông Nam châu Á.
- Chỉ đạo phát triển quan hệ "đặc biệt" Việt Nam - Lào
Hợp tác toàn diện Việt - Lào không ngừng được củng cố và phát triển cả về
bề rộng, lẫn chiều sâu, các hiệp dịnh song phương đã được ký kết, tạo khung
pháp lý để tăng cường hợp tác thương mại, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật,
giáo dục đào tạo, bảo hộ dầu tư, nông nghiệp nông thôn, du lịch, tư pháp, kiểm
soát ma tuý giữa hai nước. Hàng chục doanh nghiệp Việt Nam thực hiện dự án
giao thông, cầu đường, nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, liên doanh đầu tư, buôn bán
8


tại Lào đang làm ăn có hiệu quả. Hai bên đang tích cực hợp tác, khai thác các
lĩnh vực có nhiều triển vọng như sản xuất vật liệu xây dựng, hoá chất, thuốc
chữa bệnh, trồng trọt, du lịch...
Hai nước tích cực tham khảo ý kiến của nhau trên diễn đàn quốc tế, trong
phạm vi hợp tác ba nước Đông Dương, cũng như trong khuôn khổ của khối
ASEAN. Việc Việt Nam - Lào và Campuchia đều là thành viên của ASEAN
củng cố và mở rộng khuôn khổ hợp tác song phương và giữa ba nước trên bán
đảo Đông Dương góp phần thiết thực vào việc tăng cường đoàn kết hợp tác, phát
huy tiềm lực của ASEAN, củng cố hoà bình, ổn định ở Đông Dương và Đông
Nam Á.
- Chỉ đạo bình thường hoá và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với
Trung Quốc
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới nói chung, đường lối chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta nói riêng. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương
đàm phán với Trung Quốc nhằm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, từng

bước thúc đẩy hợp tác, hữu nghị, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước
trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau.
Để tạo không khí thuận lợi thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt
- Trung, năm 1988, Quốc hội Việt Nam đã sửa lời nói đầu trong Hiến pháp, đề
nghị hai bên chấm dứt hoạt động vũ trang tại biên giới đất liền và hải đảo, không
bên nào đóng quân trên các điểm cao dọc biên giới hai nước, giảm quân cách xa
biên giới để tránh xung đột và tạo điều kiện cho nhân dân hai bên biên giới qua
lại thăm hỏi bà con, họ hàng thân thích. Việt Nam mở cửa khẩu cho nhân dân
hai bên qua lại, không tuyên truyền có hại cho bình thường hoá quan hệ hai
nước.
Việc ký Hiệp ước biên giới trên đất liền và Hiệp định phân định vịnh Bắc
Bộ là mốc quan trọng trong quan hệ hai nước, giải quyết một vấn đề tồn tại lâu
năm, là cơ sở pháp lý quan trọng để hai nước tăng cường và đẩy mạnh giao lưu
buôn bán cũng như thúc đẩy các mối quan hệ về chính trị, văn hoá, an ninh,
9


quốc phòng. Thực hiện mục tiêu xây dựng biên giới Việt - Trung thành biên giới
hoà bình - hữu nghị và ổn định lâu dài.
- Chỉ đạo cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á và gia nhập ASEAN
Xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, các nước khu
vực Đông Nam Á, tạo môi trường hoà bình, ổn định luôn là ưu tiên hàng đầu
trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác với các nước Đông Nam Á, bày tỏ mong muốn sẵn sàng cùng
các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á,
thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, ổn định và hợp tác. Nghị quyết 13 Bộ
Chính trị khoá VI (5/1988), xác định không đối lập hai nhóm nước, cần xây
dựng chính sách toàn diện với Đông Nam á, mở rộng hợp tác với các nước trong

khu vực.
Với tổ chức ASEAN, việc Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ là một
mốc lịch sử trong quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á, đã tăng cường vai trò
củaASEAN với tư cách là một tổ chức khu vực quan trọng, góp phần thúc đẩy
xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác, phát triển và thịnh vượng chung ở Đông
Nam Á.
2.1.2. Đổi mới quan hệ với các nước lớn, các nước công nghiệp phát triển, các
nước bạn bè truyền thống và phát triển quan hệ với nhiều nước ở các châu
lục
- Chỉ đạo đấu tranh chống bao vây, cấm vận và thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ
Quan hệ kinh tế và thương mại giữa hai nước đã có những bước phát triển
đầu tiên đáng khích lệ, một số hàng hoá từ Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ như:
gạo, dầu thô, khoáng sản, thực phẩm, nông sản nhiệt đới, nước giải khát, hải sản,
dày dép. Một số hàng hoá của Mỹ như bông, thực phẩm, thiết bị kỹ thuật đã có
mặt trên thị trường Việt Nam.
- Chỉ đạo cải thiện và tăng cường quan hệ với các nước tư bản, các nước
công nghiệp phát triển

10


Đối với Nhật Bản, là một trong ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới, lại
gần gũi Việt Nam về địa lý, văn hoá và lịch sử, do đó việc phát triển quan hệ
với cường quốc kinh tế thế giới này có tầm quan trọng hàng đầu đối với Việt
Nam. Đồng thời, sự hợp tác toàn diện giữa hai nước góp phần vào việc giữ gìn
và phát triển môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác ở châu Á Thái
Bình Dương.
Cùng với việc giải quyết vấn đề Campuchia, quan hệ Việt - Nhật cũng được
bình thường hoá và từ năm 1992 quan hệ hai nước đã phát triển tích cực, sau khi
bình thường hoá quan hệ hai nước tiến triển nhanh chóng nhiều mặt về chất

lượng, quy mô và tốc độ cao. Việc trao đổi các đoàn cao cấp diễn ra thường
xuyên và mang lại hiệu quả thiết thực.
Đối với Ôxtrâylia và Niu Dilân, quan hệ giữa Việt Nam với Ôxtrâylia và
Niu Dilân được thúc đẩy mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới. Biểu hiện sinh động là
những cuộc đi thăm và làm việc của các nhà lãnh đạo cao cấp: Thủ tướng Việt
Nam Võ Văn Kiệt tháng 5 năm 1993, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ
Mười, tháng 7 năm 1995 sang thăm hai nước và Thủ tướng Ôxtrâylia Paul Kitting
tháng 4 năm 1994, Thủ tướng Niu Dilân James Rolgers, tháng 11 năm 1995
thăm Việt Nam. Sự hợp tác giữa Việt Nam và Ôxtrâylia, Niu Dilân dần dần được
mở rộng trên nhiều lĩnh vực.
Đối với Liên minh châu Âu (EU), là một trong ba trung tâm kinh tế chính trị,
văn hoá lớn hàng đầu thế giới, có vai trò và tiếng nói ngày càng quan trọng trong
đời sống chính trị, kinh tế thế giới. Nhân dân và chính phủ các nước Liên minh
châu Âu đã và đang dành cho nhân dân Việt Nam những tình cảm hữu nghị và
sự hợp tác hiệu quả.
- Chỉ đạo đổi mới quan hệ với Nga, các nước Đông Âu và các nước bạn bè
truyền thống
Nghị quyết 13 Bộ Chính trị (tháng 5 năm 1988) đã đề ra chủ trương: "Phải
nhanh chóng đổi mới mối quan hệ hợp tác với Liên Xô và các nước anh em,
nâng cao hiệu quả của sự hợp tác trên cơ sở cùng có lợi, cùng có trách nhiệm vì
hoà bình và cách mạng thế giới".
11


Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII khẳng định: "Trước
sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên Xô, đổi mới phương thức
và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt - Xô nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi nước..."
[4, tr.89].
Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, quan hệ
giữa Việt Nam và các nước này tạm thời gián đoạn. Tuy nhiên, sau một thời

gian không lâu, Việt Nam đã chủ động phục hồi và thúc đẩy quan hệ hữu nghị
và hợp tác nhiều mặt với các nước đó trên những nguyên tắc mới.
Với Cuba, tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác truyền thống tiếp tục được hai
nước vun đắp.
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy và phát triển quan hệ với các nước Mông Cổ, ấn
Độ, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Hai bên tiếp tục dành cho nhau sự
ủng hộ quan trọng trên mọi lĩnh vực, đồng thời đổi mới quan hệ kinh tế thương
mại theo hướng thiết thực, hiệu quả và đôi bên cùng có lợi.
- Phát triển quan hệ với nhiều nước ở các châu lục
Trong giai đoạn 1986 đến 1996, Việt Nam thiết lập và mở rộng quan hệ với
Hàn Quốc (1992), Cộng hoà Macsan (1992), Cộng hoà Phigơ (1993), Xamoa
(1994), Liên Bang Micrônêxia (1995) và Xôlômôn (1996).
2.1.3. Chỉ đạo đẩy mạnh ngoại giao đa phương, mở rộng và nâng cao hiệu
quả của hoạt động ngoại giao với kinh tế đối ngoại
- Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao đa phương
Giai đoạn trước 1986, Việt Nam cũng đã gia nhập nhiều tổ chức trong và
ngoài hệ thống Liên hợp quốc, tham gia nhiều công ước, nhiều điều ước và
nhiều diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng chính sách bao vây, cấm vận
của các thế lực thù địch áp đặt, cũng như ảnh hưởng của vấn đề Cămpuchia và
một số vấn đề nhạy cảm khác. Cho nên, hiệu quả hoạt động của ngoại giao đa
phương vẫn còn nhiều hạn chế.
Ngoại giao đa phương có vai trò ngày càng to lớn và quan trọng trong đời
sống quốc tế hiện đại. Nó trở thành một hình thức phổ biến, làm thay đổi chất

12


lượng hoạt động ngoại giao, góp phần xứng đáng vào những thành tựu to lớn
của hoạt động đối ngoại trong sự nghiệp đổi mới.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại giao với kinh tế đối

Chính trị đối ngoại ngày càng gắn bó và kết hợp chặt chẽ với kinh tế đối
ngoại. Chính trị đối ngoại có tác dụng mở đường và tạo ra môi trường thuận lợi
cho phát triển kinh tế đối ngoại. Cùng với việc xúc tiến thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước, Việt Nam chủ động đẩy mạnh quan hệ hợp tác quan hệ kinh
tế, thương mại với nhiều nước, nhiều khu vực, nhiều đối tượng và trung tâm
kinh tế thế giới.
Những nguồn lực bên ngoài mà Việt Nam tranh thủ được đã đáp ứng đáng
kể các nhu cầu nhập khẩu vật tư và đổi mới công nghệ, nhất là trong lĩnh vực
sản xuất và chế biến nông - lâm - thuỷ sản, trong lĩnh vực sản xuất các mặt hàng
xuất khẩu, nâng dần khả năng lắp ráp, chế tạo các sản phẩm cơ khí, điện tử có
sức cạnh tranh; mở rộng thăm dò khai thác dầu khí và một số loại khoáng sản
khác, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trước hết là điện, giao
thông, thuỷ lợi, thông tin liên lạc và các cơ sở y tế, giáo dục.
2.2. Thành tựu và những kinh nghiệm trong quá trình đổi mới tư duy
đối ngoại của Đảng từ 1986 đến 1996
2.2.1. Thành tựu và những hạn chế yếu kém của hoạt động đối ngoại giai
đoạn 1986 - 1996
- Về những thành tựu
Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo môi trường
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, thực hiện có hiệu quả phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ đối ngoại", đồng thời tranh thủ được mọi nguồn lực từ bên ngoài để
xây dựng và phát triển đất nước.
Ba là, nâng cao uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
- Về những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những thành tựu to lớn, hoạt động đối ngoại giai đoạn này vẫn còn
bộc lộ một số điểm hạn chế, yếu kém.
13



Một là, chưa làm tốt công tác dự báo tình hình, để chủ động đối phó với
những tình huống phức tạp, nhạy cảm.
Hai là, chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi bước vào hội nhập kinh tế quốc
tế.
Ba là, trình độ đội ngũ cán bộ đối ngoại chưa tương xứng, công tác tổ chức
chỉ đạo thiếu đồng bộ.
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo, quy hoạch đội
ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, do vậy trong những năm qua đội ngũ này cơ
bản đã hoàn thành được nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Tuy nhiên,
trong đội ngũ những người làm công tác đối ngoại vẫn còn một phận còn yếu về
năng lực chuyên môn, về trình độ ngoại ngữ và những kinh nghiệm cần thiết
trong hoạt động đối ngoại. Đây là những nguyên nhân sâu xa làm ảnh hưởng đến
tiến trình hội nhập, đến chất lượng, hiệu quả của quá trình hợp tác quốc tế.
2.2.2. Một số kinh nghiệm trong quá trình đổi mới tư duy và đổi mới hoạt
động đối ngoại của Đảng giai đoạn 1986 - 1996
Trải qua 10năm đổi mới, Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành được
nhiều thành tựu to lớn và rất quan trọng. Hoạt động đối ngoại đã có những đóng
góp to lớn vào thành công đó và đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu.
Một là, tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực
đối ngoại; coi trọng việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ,
nhân viên làm công tác ngoại giao.
Hai là, luôn luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường; đồng
thời tăng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại.
Ba là, xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác lâu dài với các nước
láng giềng; xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn.
Kinh nghiệm mười năm đổi mới cho thấy, trước hết ta phải giữ vững độc
lập tự chủ, tự lực tự cường, chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế, phát triển thực
lực đất nước, đồng thời phải có chính sách đúng đắn với từng nước lớn, phù hợp
với những điều kiện lịch sử cụ thể.

14


Phải luôn đặt chính sách của Việt Nam với các nước lớn trong tổng thể mối
quan hệ khu vực và toàn cầu, đồng thời cần có phương sách để tham gia hiệu
quả vào các cuộc chơi quốc tế. Phải xử lý tốt quan hệ với các nước lớn sao cho
có thể tranh thủ số đông; đấu tranh phải có chính nghĩa và phải dựa vào pháp lý.
Quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng và các nước lớn trong hai
phạm trù khác nhau nhưng liên quan mật thiết với nhau. Sự dính líu, can thiệp
hoặc sự có mặt của các nước lớn tại các nước láng giềng của Việt Nam không ít
trường hợp liên quan trực tiếp đến Việt Nam và tác động đến quan hệ Việt Nam
với các nước láng giềng. Lịch sử quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng
giềng và các nước lớn trong chiến tranh cũng như trong hoà bình đã chứng minh
về mối liên hệ có tính quy luật ấy.
Ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn mới cần tiếp tục tìm hiểu thấu đáo mọi
khía cạnh liên quan đến quan hệ láng giềng và các nước lớn, quy luật vận động
của chúng, để dự báo và xử lý khôn khéo các vấn đề mới nảy sinh, tạo sự ổn
định trong tổng thể quan hệ quốc tế của đất nước.

15


KẾT LUẬN
Đổi mới tư duy đối ngoại giai đoạn 1986 - 1996 là một bộ phận của công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo, là quá trình nhận thức và chuyển hoá đường lối tư duy đối ngoại điều,
từ đối đầu chuyển sang đối thoại, từ quan hệ chủ yếu với các nước xã hội chủ
nghĩa, chuyển thành "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại". Điều đó
đánh dấu một quá trình đổi mới tư duy sáng tạo trong 10 năm qua.
Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại được mở đầu từ Nghị quyết Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt từ sau Hội nghị Bộ
Chính trị (5/1988), đã đánh dấu một bước phát triển hết sức quan trọng trong đổi
mới tư duy nhận thức về các vấn đề quốc tế và đối ngoại của Đảng ta. Đó là một
bước chuyển có ý nghĩa chiến lược tạo ra sự đột phá trong quá trình đổi mới tư
duy đối ngoaị.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) của Đảng Cộng sản Việt
Nam với chủ trương "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại" và nêu
cao khẩu hiệu: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển", đã phát triển tư duy đối ngoại
của Đảng lên một tầm cao mới, đưa hoạt động đối ngoại của Đảng vào một thời
kỳ mới, thời kỳ mở rộng và phát triển các quan hệ quốc tế. Tiếp đến là các Hội
nghị Trung ương lần thứ ba, khoá VII (6/1992) nhấn mạnh yêu cầu đa đạng hóa,
đa phương hóa quan hệ quốc tế; Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa
VII ( tháng 1/ 1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối . Đại
hội lần thứ VIII của Đảng ( 6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế,
hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc
tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Trên cơ sở của quá trình đổi mới tư duy đối ngoại, quá trình chỉ đạo hoạt động
đối ngoại giai đoạn này cũng được Đảng và Nhà nước triển khai một cách tích cực,
chủ động. Từ việc tập trung chỉ đạo đổi mới quan hệ với các nước láng giềng và các
16


nước trong khu vực, rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia và tìm ra một
giải pháp chính trị, giải quyết vấn đề Campuchia một cách hoà bình làm khâu đột
phá trong giải quyết các vấn đề quốc tế; chỉ đạo từng bước bình thường hoá với
Trung Quốc, tăng cường quan hệ đặc biệt Việt - Lào, từng bước gia nhập ASEAN;
đổi mới quan hệ với các nước lớn, các nước công nghiệp phát triển, các nước bạn

bè truyền thống và phát triển quan hệ với nhiều nước ở các châu lục. Trong đó
hướng tập trung quan trọng nhất là chỉ đạo đấu tranh dỡ bỏ cấm vận và bình thường
hoá quan hệ với Hoa Kỳ; chỉ đạo đẩy mạnh ngoại giao đa phương, mở rộng và
nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại... Quá trình đó vừa bám sát
đường lối, quan điểm và chính sách đối ngoại của Đảng, vừa thể hiện tính năng
động, sáng tạo trong từng mối quan hệ, trong từng đối tượng và từng thời điểm lịch
sử cụ thể. Với sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng với hoạt động ngoại giao của Nhà nước và hoạt động ngoại giao nhân dân,
giữa các ngành, các cấp; giữa Trung ương và địa phương và cả hệ thống chính trị...
nhờ đó mà ngoại giao trong thời kỳ đổi mới đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn,
quan trọng góp phần phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, tạo được
môi trường hoà bình, ổn định; tranh thủ được những điều kiện quốc tế thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện có hiệu quả phương châm "đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại" và tranh thủ được mọi nguồn lực từ
bên ngoài để xây dựng và phát triển đất nước; góp phần to lớn nâng cao uy tín và vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời, qua đó Đảng ta rút ra được nhiều
kinh nghiệm quý nhằm tiếp tục chỉ đạo mọi hoạt động đối ngoại trong giai đoạn
mới, góp phần đưa cách mạng nước ta vững bước tiến lên.
Bước sang thế kỷ XXI, với những thời cơ và thách thức mới, thành
quả đạt được trong 10 năm đầu thực hiện đường lối đổi mới cơ sở quý báu để
Đảng ta tiếp tục trên con đường đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, với đường lối đối ngoại: "...độc lập, tự chủ, rộng mở, chính sách đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển" sẽ đưa Việt Nam đến hội nhập thành công, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Ngoại giao (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, Tập III, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hà Nội.
6. V. I. Lênin (1920), "Bệnh ấu trĩ "tả khuynh" trong phong trào cộng
sản", V. I. Lênin toàn tập, Tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1978.
7. V. I. Lênin (1921), "Để kỷ niệm lần thứ 4 cuộc Cách mạng Tháng
Mười", V. I. Lênin toàn tập, Tập 44, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1978.
8. Hồ Chí Minh (1945), "Trả lời phỏng vấn của phóng viên các báo về vấn
đề đoàn kết ", Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995.
9.

Hồ

Chí

Minh

(1947),

"Trả

lời


phỏng

vấn

nhà

báo

Mỹ

Elymaysơ (9/1947)", Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
10. Nghị quyết 13 về đối ngoại (1988), Bộ Chính trị, Tư liệu lưu trữ, Ban
Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam .

18


19



×