Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Một số biện pháp hoàn thiện công tác thu ngân sách tại thành phố uông bí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.4 KB, 74 trang )

1

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn của TS. Bùi Thị Minh Tiệp.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hải Phòng, ngày 20 tháng 02 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dương Thùy Ngân


2

2

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc TS. Bùi
Thị Minh Tiệp, người đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn tác giả trong
quá trình thực hiện, hoàn thành luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Phòng Tài chính - Kế hoạch –
UBND thành phố Uông Bí, Quảng Ninh đã tạo mọi điều kiện, động viên, giúp
đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu do khả năng có hạn và kinh nghiệm thực
tiễn còn hạn chế mà vấn đề đặt ra lại khá lớn nên luận văn không tránh khỏi
thiếu sót. Kính mong sự chỉ dẫn và góp ý của các thầy cô giáo, các bạn đồng
nghiệp để công trình nghiên cứu tiếp theo được hoàn thiện hơn.


Hải Phòng, ngày 20 tháng 02 năm 2016
TÁC GIẢ

Dương Thùy Ngân


3

3

MỤC LỤC


4

4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
NSNN
NSTW
NSĐP
KT-XH
XDCB
NS
KTTT
SXKD
QLKT
HĐND
UBND


Giải tích
Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Trung ương
Ngân sách Địa phương
Kinh tế - Xã hội
Xây dựng cơ bản
Ngân sách
Kinh tế thị trường
Sản xuất kinh doanh
Quản lý kinh tế
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân


5

5

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG


6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Song song với tiến trình phát triển KT-XH, NSNN là một trong những
công cụ quan trọng với tính chất là nội lực cho sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước luôn luôn cần có một nguồn lực
tài chính, đảm bảo cho các hoạt động: chi tiêu thường xuyên của bộ máy quản

lý, chi đầu tư XDCB... Để đáp ứng nguồn kinh phí đó, Nhà nước phải tạo ra
các nguồn thu từ các loại thuế, phí, lệ phí và các nguồn thu khác. Tất cả quá
trình thu nộp và sử dụng nguồn kinh phí đó đều phải được phản ánh qua
NSNN.
Những năm qua, cùng với sự phát triển chung của tỉnh Quảng Ninh,
thành phố Uông Bí đã tập trung đẩy mạnh phát triển KT-XH, đầu tư kết cấu
hạ tầng, chỉnh trang nâng cấp đô thị, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội. Thực hiện đúng theo Luật NSNN, cân đối ngân sách Thành phố đang
ngày càng vững chắc, nguồn thu ngân sách ngày càng tăng, không những
đảm bảo được các nhiệm vụ chi thiết yếu của bộ máy quản lý nhà nước, sự
nghiệp kinh tế - văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng mà còn dành phần đáng
kể cho đầu tư phát triển.
Tuy nhiên, với những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, thực trạng
công tác quản lý thu ngân sách của Thành phố hiện nay vẫn còn nhiều khiếm
khuyết: Chưa bao quát được các nguồn thu trên địa bàn, tình trạng thất thu
vẫn còn, nguồn thu còn hạn chế...
Tăng cường quản lý thu ngân sách nhằm động viên đầy đủ và hợp lý
các nguồn thu vào NSNN, tạo nguồn lực tài chính mạnh mẽ, chính là yếu tố
có tính quyết định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH của
Thành phố trong giai đoạn 2016 - 2020 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Thành phố đã đề ra.


7
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên, tác giả quan tâm và muốn đi
sâu nghiên cứu vấn đề này. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Một số biện pháp
hoàn thiện công tác thu ngân sách tại thành phố Uông Bí” làm đối tượng
nghiên cứu với mục đích góp phần hoàn thiện công tác quản lý thu ngân sách
cấp huyện của Thành phố Uông Bí nói riêng và thu NSNN nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu

Việc nghiên cứu công tác quản lý thu, chi NSNN ở nước ta trong những
năm qua có rất nhiều các công trình nghiên cứu các nhà khoa học, các cơ
quan trung ương và địa phương như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Đổi mới cơ chế phân bổ và sử
dụng NSNN cho hoạt động khoa học xã hội” của TS. Phạm Văn Vang, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2013.
- Luận án tiến sĩ “Sử dụng công cụ chính sách tài chính để phát triển
nền kinh tế trong quá trình hội nhập” của tác giả Lê Công Toàn, trường Đại
học Tài chính Kế toán Hà Nội, năm 2003.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện cơ chế phân cấp ngân sách của
các cấp chính quyền địa phương” của tác giả Phạm Đức Hồng, trường Đại
học Tài chính Kế toán Hà Nội, năm 2002.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý ngân sách
Nhà nước” của tác giả Nguyễn Việt Cường, trường Đại học Tài chính Kế toán
Hà Nội, năm 2001.
Ngoài ra còn hàng loạt các sách tham khảo, các bài viết đăng tải trên
các tạp chí chuyên ngành. Đây là các công trình nghiên cứu có giá trị tham
khảo rất tốt về lý luận và thực tiễn.
Ở các công trình khoa học trên, vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý
NSNN đã được nhiều tác giả đề cập, tuy nhiên mỗi đề tài có một cách tiếp cận
và nội dung nghiên cứu khác nhau. Do mục đích và yêu cầu khác nhau mà các
nghiên cứu trên chỉ tập trung phân tích, đánh giá và đưa ra các kiến nghị, đề
xuất cho từng lĩnh vực cụ thể và gần như không thể áp dụng các giải pháp đó


8
cho bất kì địa phương nào.
Điều đó cho thấy việc nghiên cứu đề tài này là vấn đề mới đang đặt ra,
vừa khó khăn, đòi hỏi phải nghiên cứu những điều kiện đặc thù của Thành
phố để hoàn thiện công tác quản lý thu ngân sách có hiệu quả hơn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Vận dụng lý luận về NSNN, quản lý thu NSNN để phân tích, đánh giá
thực trạng công tác quản lý thu NSNN tại thành phố Uông Bí. Từ đó đề xuất
một số quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu NSNN tại thành
phố Uông Bí trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ:
+ Khái quát lại những lý luận cơ bản về NSNN, quản lý thu NSNN.
+ Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý thu NSNN trên địa bàn thành
phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2011 đến nay.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện
công tác thu NSNN tại thành phố Uông Bí trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu công tác quản lý thu ngân sách nhà nước
trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2013 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quản
lý tài chính, ngân sách; Kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa
học có nội dung gần gũi với đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng các phương pháp chung,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp so sánh, khái quát
hóa vấn đề, bảng biểu minh họa.


9
6. Đóng góp về lý luận thực tiễn của luận văn
Luận văn vận dụng lý luận về quản lý ngân sách nhà nước để phân tích,
đánh giá thực trạng công tác quản lý thu ngân sách nhà nước tại thành phố
Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Từ đó đề ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện

quản lý thu NSNN tại thành phố Uông Bí trong thời gian tới.
Với kết quả nghiên cứu đó, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc lãnh đạo, điều hành thu ngân sách nhà nước góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thu ngân sách nhà nước
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý ngân sách nhà nước tại thành
phố Uông Bí giai đoạn từ năm 2013 đến nay.
Chương 3: Một số biện pháp hoàn thiện công tác thu ngân sách tại
thành phố Uông Bí trong giai đoạn tiếp theo.


10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Ngân sách nhà nước
NSNN là một phạm trù kinh tế, lịch sử gắn liền với sự hình thành và
phát triển của Nhà nước và của hàng hóa, tiền tệ. Nhà nước với tư cách là cơ
quan quyền lực thực hiện duy trì và phát triển xã hội thường quy định các
khoản thu mang tính bắt buộc các đối tượng trong xã hội phải đóng góp để
đảm bảo chi tiêu cho bộ máy Nhà nước, quân đội, cảnh sát, giáo dục. Trải qua
nhiều giai đoạn phát triển của các chế độ xã hội, nhiều khái niệm về NSNN đã
được đề cập theo các góc độ khác nhau.
NSNN là một văn kiện lập pháp hay một đạo luật chứa đựng hay có
kèm theo một bảng kê khai các khoản thu chi dự liệu cho một thời gian nào

đó, là một khuôn mẫu mà các cơ quan lập pháp, hành pháp cùng các cơ quan
hành chính phụ thuộc phải tuân theo.
NSNN là kế hoạch thu chi tài chính hàng năm của Nhà nước được xét
duyệt theo trình tự pháp định.
NSNN là bản dự toán (bản ghi) cân đối hàng năm về thu, chi cho các
cơ quan chính quyền Nhà nước.
Về hình thức, các khái niệm này có sự khác nhau nhất định, tuy nhiên,
chúng đều phản ánh về các kế hoạch, dự toán thu, chi của Nhà nước trong một
thời gian nhất định với hình thái biểu hiện là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước và Nhà nước sử dụng quỹ tiền tệ tập trung đó để trang trải cho các chi
tiêu gồm: chi cho hoạt động của bộ máy Nhà nước, chi cho an ninh quốc phòng,
chi cho an sinh xã hội...
Trong thực tiễn hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo thu) và chi tiêu
(sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa


11
một bên là Nhà nước với một bên là các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình
phân phối tổng sản phẩm quốc dân dưới hình thức giá trị. Đằng sau các hoạt
động thu chi đó chứa đựng các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các
chủ thể khác. Nói cách khác, NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước với các chủ thể kinh tế trong nền KT-XH và trong phân phối tổng sản
phẩm xã hội. Thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của các chủ thể thành thu
nhập của Nhà nước và Nhà nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể
được thụ hưởng nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Ở Việt Nam, NSNN được quy định trong Luật Ngân sách Nhà nước
như sau: "NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm
bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước".

* Hệ thống NSNN:
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau,
có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ thu chi của từng cấp ngân sách. Cơ cấu NSNN được mô tả theo sơ đồ sau:
Ngân sách nhà nước
Ngân sách cấp Tỉnh

Ngân sách Trung ương

Ngân sách cấp Quận,
huyện, thị xã (Gọi chung
là Ngân sách cấp Huyện)

Ngân sách cấp xã,
phường, thị trấn (Gọi
chung là Ngân sách
cấp Xã)


12
Sơ đồ 1. . Cơ cấu hệ thống Ngân sách Nhà Nước.
Tổ chức hệ thống NSNN luôn gắn liền với việc tổ chức bộ máy Nhà
nước và vai trò, vị trí bộ máy đó trong quá trình phát triển KT-XH của đất
nước, trên cơ sở hiến pháp, mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng,
cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Việc hình thành hệ thống chính quyền
Nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng của đất nước. Sự ra đời của hệ thống
chính quyền Nhà nước là tiền đề để tổ chức hệ thống NSNN nhiều cấp.
NSNN bao gồm NSTW và NSĐP. NSĐP bao gồm ngân sách của đơn vị

hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. NSĐP là thực
hiện cân đối các khoản thu và các khoản chi của Nhà nước tại địa phương,
cùng NSTW thực hiện vai trò của NSNN, điều tiết vĩ mô nền kinh tế và đảm
bảo an sinh xã hội. Thông qua việc huy động các khoản thuế theo pháp luật và
sử dụng các nguồn quỹ ngân sách, thực hiện phân bổ chi tiêu, NSĐP góp phần
điều chỉnh cơ cấu kinh tế của địa phương, định hướng đầu tư, sản xuất kinh
doanh trên địa bàn, vùng lãnh thổ.
Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND hiện hành NSĐP bao
gồm: Ngân sách tỉnh, ngân sách huyện và ngân sách xã.
Trong đó, ngân sách huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung
là ngân sách huyện) là một bộ phận của NSĐP; dự toán thu, chi ngân sách
huyện được lập theo phân cấp của cơ quan có thẩm quyền đảm bảo điều kiện
vật chất cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy Nhà nước ở cấp
huyện bao gồm nhiệm vụ của cấp huyện và nhiệm vụ điều hành kinh tế xã hội
của địa phương do huyện quản lý. Theo đó, chính quyền cấp huyện phải chấp
hành các quy định của hiến pháp, pháp luật và sáng tạo trong việc khai thác
các thế mạnh trên địa bàn huyện để tăng nguồn thu, bảo đảm chi và thực hiện
cân đối ngân sách của cấp huyện.
1.1.2. Thu ngân sách nhà nước và quản lý thu ngân sách nhà nước

g
â
n
s
á
c
h
đ
ịa
p

h
ư
ơ

N


13
1.1.2.1. Thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà
nước dùng quyền lực chính trị để thực hiện phân phối các nguồn tài chính dưới
hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ của Nhà nước.Như vậy,thu NSNN
bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay nhà nước để hình thành
quỹ NSNN đáp ứng cho các yêu cầu chi tiêu xác định của nhà nước.
Nét nổi bật của việc thu NSNN là: trong bất cứ xã hội nào, cơ cấu các
khoản thu NSNN đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị
của Nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước là điều kiện xuất
hiện các khoản thu NSNN. Ngược lại, các khoản thu NSNN là tiền đề vật chất
không thể thiếu để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Một đặc trưng khác của thu NSNN là luôn luôn gắn chặt với các quá
trình kinh tế và các phạm trù gía trị. Kết quả của quá trình hoạt động kinh tế
và hình thức, phạm vi, mức độ vận động của các phạm trù giá trị là tiền đề
quan trọng xuất hiện hệ thống thu NSNN. Nhưng chính hệ thống thu NSNN
lại là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng to lớn đến kết quả của quá trình kinh
tế cũng như sự vận động của các phạm trù giá trị.
Thu ngân sách nhà nước trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt
động kinh tế trong xã hội. Mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP
hàng năm là tiền đề đồng thời là yếu tố khách quan hình thành các khoản thu
NSNN và quyết định mức độ động viên các khoản thu của NSNN.
Thu ngân sách nhà nước ảnh hưởng lớn đến tốc độ, chất lượng và tính

bền vững trong phát triển của một quốc gia. Trong cơ cấu thu, nguồn thu nội
địa phải luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Không thể nói đến sự phát triển bền
vững nếu thu từ ngoài nước (vay nợ, nhận viện trợ từ nước ngoài) và các
khoản thu có liên quan đến yếu tố bên ngoài (thuế nhập khẩu, tiền bán tài
nguyên thiên nhiên ra bên ngoài …) chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu.
Trong cơ cấu thu ngân sách của hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế
luôn là nguồn thu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất bởi nó được trích xuất chủ


14
yếu từ những giá trị do nền kinh tế tạo ra và thể hiện rõ nét quyền lực nhà
nước. Nền kinh tế quốc dân càng phát triển với tốc độ cao thì nguồn thu của
nhà nước từ thuế chiếm tỷ trọng càng lớn trong tổng thu NSNN.Thu NSNN
bao gồm thuế, các khoản phí,lệ phí, thu từ các hoạt động kinh tế của nhà
nước, thu đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ và các
khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
* Nguồn thu của ngân sách cấp huyện theo quy định của Luật Ngân sách:
Nguồn thu của Ngân sách cấp huyện gồm:
- Các khoản thu Ngân sách huyện hưởng 100%
+ Thuế nhà đất;
+ Thuế tài nguyên, không kể tài nguyên thu từ dầu, khí;
+ Thuế môn bài;
+ Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
+ Tiền sử dụng đất;
+ Tiền cho thuê đất;
+ Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước;
+ Lệ phí trước bạ;
+ Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
+ Thu hồi vốn Ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu
từ quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương;

+ Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức
khác, các cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương;
+ Các khoản phí, lệ phí thu từ các hoạt động sự nghiệp và các
khoản thu khác nộp vào NSĐP theo quy định của pháp luật;
+ Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác;
+ Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật;
+ Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước;
+ Thu kết dư NS cấp huyện theo quy định tại điều 63 của Luật NSNN;
+ Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật;


15
- Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa NSTW và
NSĐP theo quy định tại Khoản 2 Điều 30 của Luật NSNN: Thuế giá trị gia
tăng (không kể thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu); thuế thu nhập doanh
nghiệp (không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán
ngành); thuế thu nhập cá nhân; thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (không
kể thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ lĩnh vực dầu khí); thuế tiêu thụ đặc
biệt từ hàng hóa, dịch vụ trong nước, phí xăng, dầu.
- Thu bổ sung từ Ngân sách tỉnh.
- Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo
quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách.
1.1.2.2. Quản lý thu ngân sách nhà nước
Quản lý thu NSNN là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công
cụ chính sách,pháp luật để tiến hành quản lý thu thuế và các khoản thu ngoài
thuế vào NSNN nhằm đảm bảo tính công bằng khuyến khích SXKD phát
triển. Đây là khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng
buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp ngân sách. Phần
lớn các khoản thu NSNN đều mang tính chất cưỡng bức, bắt buộc mọi người
dân, mọi thành phần kinh tế phải tuân thủ thực hiện.

Trong việc quản lý các nguồn thu ngân sách, thuế là nguồn thu quan
trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN
hàng năm mà còn là công cụ của nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế
quốc dân. Để phát huy tốt tác dụng điều tiết vĩ mô của các chính sách thuế, ở
nước ta cũng như các nước khác trên thế giới, nội dung của chính sách thuế
thường xuyên thay đổi cho phù hợp với diễn biến thực tế của đời sống KT-XH
và phù hợp với yêu cầu của QLKT, tài chính. Các sắc thuế chủ yếu hiện đang
được áp dụng ở nước ta hiện nay gồm có: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp,thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà,đất...


16
1.2. Vai trò của quản lý thu ngân sách nhà nước đối với phát triển
kinh tế - xã hội
1.2.1. Vai trò của ngân sách nhà nước
NSNN là khâu tài chính tập trung quan trọng nhất, là kế hoạch tài
chính cơ bản, tổng hợp của Nhà nước. Nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống
tài chính và có vai trò quyết định sự phát triển của nền KT-XH. Vai trò của
NSNN được xác lập trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong
từng giai đoạn cụ thể. Phát huy vai trò của NSNN như thế nào là thước đo
đánh giá hiệu quả điều hành, lãnh đạo của Nhà nước.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, NSNN có
các vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, với chức năng phân phối, ngân sách có vai trò huy động
nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và thực hiện sự
cân đối thu chi tài chính của Nhà nước. Đó là vai trò truyền thống của NSNN
trong mọi mô hình kinh tế. Nó gắn chặt với các chi phí của Nhà nước trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.

Thứ hai, NSNN là công cụ tài chính của Nhà nước góp phần thúc đẩy
sự tăng trưởng của nền kinh tế, điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Nhà nước sử dụng
NSNN như là công cụ tài chính để kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường, giá
cả cũng như giải quyết các nguy cơ tiềm ẩn về bất ổn định KT-XH. Muốn
thực hiện tốt vai trò này NSNN phải có quy mô đủ lớn để Nhà nước thực hiện
các chính sách tài khóa phù hợp (nới lỏng hay thắt chặt) kích thích sản xuất,
kích cầu để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội.
Thứ ba, NSNN là công cụ tài chính góp phần bù đắp những khiếm
khuyết của KTTT, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thúc đẩy
phát triển bền vững. KTTT phân phối nguồn lực theo phương thức riêng của
nó, vận hành theo những quy luật riêng của nó. Mặt trái của nó là phân hóa
giàu nghèo ngày càng tăng trong xã hội, tạo ra sự bất bình đằng trong phân
phối thu nhập, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định xã hội. Bên cạnh đó do mục tiêu


17
tối đa hóa lợi nhuận nên các chủ sở hữu nguồn lực thường khai thác tối đa
mọi nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái bị hủy hoại, nhiều loại hàng hóa
và dịch vụ mà xã hội cần nhưng khu vực tư nhân không cung cấp như hàng
hóa công cộng. Do đó nếu để KTTT tự điều chỉnh mà không có vai trò của
Nhà nước thì sẽ phát triển thiếu bền vững. Vì vậy Nhà nước sử dụng NSNN
thông qua công cụ là chính sách thuế khóa và chi tiêu công để phân phối lại
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, cung cấp hàng hóa dịch vụ
công cho xã hội, chú ý phát triển cân đối giữa các vùng, miền đảm bảo công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
1.2.2. Vai trò của quản lý thu ngân sách nhà nước
Quản lý thu NSNN đóng vai trò rất quan trọng, thể hiện:
Thứ nhất, quản lý thu NSNN là công cụ quản lý của Nhà nước để
kiểm soát,điều tiết các hoạt động SXKD của mọi thành phần kinh tế, kiểm
soát thu nhập của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm động viên sự đóng

góp đảm bảo công bằng, hợp lý. Các nhà nước trong lịch sử đều sử dụng công
cụ thuế để ổn định và phát triển nền kinh tế,chống lại các hành vi kinh doanh
phạm pháp.
Thứ hai, quản lý thu NSNN là công cụ động viên, huy động các nguồn
lực tài chính cần thiết nhằm tạo lập quỹ tiền tệ tập trung của NSNN. Huy
động các nguồn tài chính cần thiết vào nhà nước là nhiệm vụ chủ yếu của hệ
thống thu dưới bất kỳ chế độ nào, đó là đòi hỏi tất yếu của mọi nhà nước. Nhà
nước muốn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ lịch sử của mình tất yếu phải
có nguồn tài chính. Nguồn tài chính mà Nhà nước có được đại bộ phận do
quản lý tốt nguồn thu ngân sách mang lại.
Thứ ba,quản lý thu NSNN là nhằm khai thác, phát hiện, tính toán
chính xác các nguồn tài chính của đất nước để có thể động viên được và cũng
đồng thời không ngừng hoàn thiện các chính sách, các chế độ thu để có cơ
chế tổ chức quản lý hợp lý.Đây là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước


18
trong quá trình tổ chức QLKT.
Thứ tư, quản lý thu ngân sách góp phần tạo môi trường bình đẳng,
công bằng giữa các thành phần kinh tế,giữa các doanh nghiệp trong và ngoài
nước trong quá trình SXKD. Với hình thức thu và mức thu thích hợp kèm với
các chế độ miễn giảm công bằng, thu NSNN có tác động trực tiếp đến quá
trình SXKD của cơ sở. Với sự tác động quản lý thu ngân sách sẽ góp phần tạo
nên môi trường kinh tế thuận lợi đối với quá trình SXKD. Đồng thời nó là
công cụ quan trọng góp phần thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của Nhà
nước đối với toàn bộ hoạt động SXKD của xã hội.
Thứ năm, quản lý thu ngân sách có vai trò tác động đến sản lượng và
sản lượng tiềm năng, cân bằng của nền kinh tế. Việc tăng mức thuế quá mức
thường dẫn tới giảm sản lượng trong nền kinh tế, tức là thu hẹp quy mô của
nền kinh tế. Ngược lại, giảm mức thuế chung có xu thế làm tăng sản lượng

cân bằng. Trong nền KTTT, người ta sử dụng tính chất này để điều chỉnh quy
mô sản lượng của nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp và hộ kinh doanh.
1.3. Nội dung của công tác quản lý thu ngân sách nhà nước
Việc nghiên cứu toàn diện việc quản lý thu NSNN bao gồm rất nhiều
vấn đề và rất rộng, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ tập trung trình
bày một số vấn đề về quản lý thu thuế và các khoản phí, lệ phí. Đây là các
khoản thu chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thu NSNN nhất là NSNN của cấp
thành phố thuộc Tỉnh.
1.3.1. Quản lý thu thuế
Như chúng ta đã biết,thuế là nguồn thu chính chiếm tỷ trọng lớn và có
xu hướng ngày càng tăng trong tổng thu NSNN.Đồng thời thuế cũng là công
cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều chỉnh kinh tế vĩ mô, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Do vậy quản lý thu
thuế

nói chung và quản lý thu thuế ở địa phương có ý nghĩa đặt biệt quan

trọng trong quản lý NSNN. Quản lý thu thuế là hệ thống các biện pháp
nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu ngân sách thực hiện.


19
Quản lý thu thuế phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tuân thủ pháp luật. Quy trình xây dựng các biện
pháp quản lý thuế phải xuất phát từ các luật thuế, nằm trong khuôn khổ luật
quy định.Nguyên tắc này cũng đòi hỏi các biện pháp quản lý thuế của Nhà
nước cũng phải phù hợp với quy định chung về thuế của các tổ chức kinh tế
quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là sau khi chúng ta gia nhập WTO.
Thứ hai, nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ.Quy trình tổ chức và
quản lý thuế được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước cho các cơ quan

thu và cho các đối tượng nộp thuế là các pháp nhân hay thể nhân. Không cho
phép cơ quan thu được đặt ra bất cứ biệt lệ nào và cũng như có sự phân biệt
đối xử giữa những người nộp thuế trong quá trình hành thu thuế.
Thứ ba, nguyên tắc công bằng trong quản lý thuế. Đây là nguyên tắc cơ
bản của thuế, nghĩa là mọi công dân phải có nghĩa vụ vật chất với Nhà nước
phù hợp với khả năng tài chính của mình. Khi xây dựng biện pháp quản lý
thuế phải quán triệt nguyên tắc này nhằm động viên sức lực của toàn xã hội
cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; qua đó gắn kết nghĩa
vụ,quyền lợi của các tổ chức và công dân với nghĩa vụ và quyền lợi của quốc
gia.Chỉ có như thế sự phát triển mới mang tính chất cộng đồng và bền vững.
Thứ tư, nguyên tắc minh bạch. Các khâu trong quy trình quản lý thuế
đối với các đối tượng nộp thuế phải được công khai hóa.Công tác tuyên
truyền, tư vấn,giải thích quy trình quản lý thuế đến việc tổ chức thực hiện
từng khâu trong quy trình này đều phải rõ ràng, dễ hiểu, công khai. Hạn chế
trường hợp đối tượng nộp thuế thiếu thông tin về các quy định về thuế.
Thứ năm, nguyên tắc thuận tiện,tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý
thuế. Quản lý thuế là những biện pháp mang tính nghiệp vụ và hành chính
pháp định. Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan hành thu phải xây dựng quy trình
quản lý thuế theo luật định một cách hợp lý, phù hợp với tình hình, đặc điểm,
điều kiện SXKD, thu nhập phát sinh của người nộp thuế.Việc thực hiện
nguyên tắc này phải tạo ra những thuận lợi và tiết kiệm tối đa chi phí về thời


20
gian, vật chất và tiền cho cơ quan thu và cho người nộp thuế.Có như vậy mới
phát huy được hiệu quả và hiệu lực của cơ chế hành thu thuế.
Trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc nêu trên, nội dung công tác
quản lý thu thuế bao gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất,xây dựng dự toán thu về thuế. Đây là khâu cơ sở của quá trình
quản lý thu thuế, việc xây dựng dự toán thu này phải dựa trên các căn cứ sau:

- Các văn bản pháp luật về thuế hiện hành. Đây là cơ sở pháp lý của dự
toán thu về thuế.
- Kế hoạch phát triển KT-XH của cả nước hay từng địa phương,đơn vị.
- Thực trạng tài chính quốc gia, tình hình thực hiện dự toán thu ngân
sách năm báo cáo và yêu cầu động viên vào ngân sách năm kế hoạch.
- Chủ trương,chính sách QLKT của nhà nước đã và sẽ ban hành.
Thứ hai, tổ chức các biện pháp hành thu. Nội dung này bao gồm:
- Quản lý đối tượng nộp thuế thông qua việc đăng ký thuế và cấp mã số
thuế.Các tổ chức và cá nhân kinh doanh phải liên hệ với cơ quan thuế địa
phương để đăng lý thuế. Các bộ phận của cơ quan thuế sau khi tiếp nhận,
kiểm tra sẽ phát giấy chứng nhận đăng ký thuế cùng với mã số thuế cho
doanh nghiệp.
- Xây dựng và lựa chọn quy trình quản lý thu thuế. Hiện nay đang có
hai loại quy trình đó là:
+ Quy trình kê khai,nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Theo
quy trình này thì các đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế và nộp tờ khai thuế
cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế sẽ tiến hành kiểm tra, tính thuế và ra thông
báo số thuế phải nộp gởi cho đối tượng nộp thuế. Phương thức này có nhiều
hạn chế, gây nhiều khó khăn cho người nộp và cơ quan thuế.
+ Quy trình tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp thuế. Theo phương thức này
các đối tượng nộp thuế phải tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp vào KBNN và
phải chịu trách nhiệm pháp lý về tính chính xác, trung thực của việc tự khai tự
nộp của mình. Cơ quan thuế sẽ chủ yếu tập trung vào công tác kiểm tra, thanh


21
tra và đôn đốc cũng như tư vấn cho đối tượng nộp thuế. Đây là phương thức
tiên tiến được nhiều nước có nền KTTT trên thế giới áp dụng, tạo nhiều thuận
lợi cho người nộp thuế cũng như cơ quan thuế,tiết kiệm được chi phí.
- Tổ chức thu nộp tiền thuế. Hình thức chủ yếu hiện nay là nộp trực

tiếp vào KBNN. Theo đó đối tượng nộp thuế sẽ nộp trực tiếp vào KBNN dưới
dạng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Để làm tốt công tác này cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa cơ quan thuế và KBNN để nắm bắt kịp thời tình tình hình nộp
thuế từ đó có biện pháp đôn đốc thu nộp kịp thời.
- Tổ chức thanh tra, kiểm tra về thuế. Đây là khâu tất yếu của quy trình
quản lý thuế. Mục tiêu chính của công tác này là đảm bảo thi hành pháp luật
thuế nghiêm minh từ cả phía đối tượng nộp thuế lẫn cơ quan thuế, giúp loại
trừ mọi biểu hiện gian lận thuế,trốn thuế và cả những nhũng nhiễu, tiêu cực
của cán bộ thuế. Ngoài ra khi đẩy mạnh việc thực hiện chế độ tự khai tự tính
thuế, tự nộp càng phải củng cố và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
1.3.2. Quản lý thu phí, lệ phí
Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN,tuy nhiên
nếu chỉ thu thuế thì chính phủ không đủ nguồn tài trợ cho nhiều hoạt động
vốn rất đa dạng của mình và cũng không thể buộc người dân sử dụng hàng
hóa và dịch vụ công theo cách thức có hiệu quả.Do đó phí,lệ phí đặt ra đối với
những tổ chức và cá nhân sử dụng hàng hóa hay dịch vụ công.
Phí thuộc NSNN là khoản tiền mà các tổ chức và cá nhân phải trả cho
một cơ quan nhà nước khi nhận được dịch vụ do cơ quan này cung cấp. Trong
hoạt động xã hội, nhiều tổ chức thuộc bộ máy công quyền cung cấp ra bên
ngoài nhiều dịch vụ. Chúng cần thiết phải thu tiền của đối tượng thụ hưởng để
bù đắp chi phí hoạt động. Phí chính là số tiền đó.
Lệ phí là khoản tiền mà các tổ chức và cá nhân phải nộp cho cơ quan
nhà nước khi thụ hưởng dịch vụ liên quan đến quản lý hành chính do cơ quan
này cung cấp.
Phí, lệ phí không phải là giá cả của dịch vụ công mà chỉ là động viên


22
một phần thu nhập của người thụ hưởng nhằm thực hiện công bằng trong tiêu
thụ dịch vụ công.

Mọi khoản phí, lệ phí đều phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định. Theo quy định hiện hành tại Pháp lệnh phí, lệ phí và Nghị định
57/2002/NĐ-CP của Chính phủ thì chính phủ quy định chi tiết danh mục phí,
lệ phí đồng thời với việc quy định nguyên tắc xác định mức thu phí và lệ phí.
Đối với một số khoản thu phí, lệ phí quan trọng, chính phủ trực tiếp quy định
mức thu, chế độ thu,nộp và chế độ quản lý. Đối với những khoản còn lại,
chính phủ giao hoặc phân quyền quy định mức thu, chế độ thu,nộp và chế độ
quản lý cho cấp Bộ và tương đương. Căn cứ vào quy định chi tiết của Chính
phủ, Bộ Tài chính quy định mức thu cụ thể đối với từng loại phí, lệ phí,
hướng dẫn mức thu cho các cơ quan được phân cấp quy định mức thu. HĐND
Tỉnh quyết định thu phí, lệ phí được phân cấp. Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá
nhân tự đặt ra các loại phí, sửa đổi mức thu phí đã được cơ quan có thẩm
quyền quy định, thu phí trái với quy định của pháp luật.
Đơn vị thu phí,lệ phí là cơ quan thuế và các cơ quan được pháp luật
quy định. Các cơ quan này phải niêm yết công khai tại địa điểm thu về tên
gọi, mức thu, phương thức thu và cơ quan quy định thu. Khi thu phải cấp
chứng từ thu theo quy định của Bộ Tài chính.
1.4. Những tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động quản lý thu ngân
sách nhà nước
Hiệu quả hoạt động quản lý thu ngân sách nhà nước thể hiện ở việc
khai thác hợp lý các nguồn lực tài chính tiềm năng và sẵn có trong nền kinh tế
quốc dân, đi đôi với bồi dưỡng và tăng cường các nguồn thu nhằm tiếp ứng
yêu cầu ngày càng cao trong bảo đảm quan hệ cân đối NSNN. Các nguồn lực
tài chính ở đây thực chất là các khoản thu (thuế, phí, lệ phí và các khoản thu
khác) được huy động vào NSNN.
Trong quá trình huy động các nguồn thu vào NS, thuế phải được sử
dụng đầy đủ các chức năng vốn có của nó: Vừa là công cụ huy động nguồn


23

lực, vừa là công cụ điều tiết kinh tế và vừa là công cụ bồi dưỡng các nguồn
thu sẵn có và tiềm ẩn. Khâu quan trọng nhất trong huy động của nguồn thu
NSNN là tổ chức chấp hành NS mà thực chất là sử dụng tổng lực thể chế, cơ
chế, chính sách và các biện pháp kinh tế - tài chính và ngay cả biện pháp hành
chính trong quá trình thực thi. Trong quá trình đó cũng phải bảo đảm sự phối
hợp đồng bộ về công tác chuyên môn giữa các cơ quan: Tài chính, Thuế, Hải
quan, Kho bạc Nhà nước và các cơ quan hữu quan khác; từ khâu kế hoạch, tổ
chức thực hiện đến khâu quyết toán NS. Tổ chức chấp hành thu NS có tính
chất quyết định đến cân đối NS trong năm tài khóa.
1.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thu ngân
sách nhà nước
Quản lý thu ngân sách là hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực tài
chính ngân sách. Quá trình quản lý thu ngân sách thường bị chi phối bởi các
nhân tố sau:
Thứ nhất, nhân tố về thể chế tài chính.Thể chế tài chính quy định phạm
vi, đối tượng thu của các cấp chính quyền; quy định chức năng, nhiệm
vụ,thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý thu ngân sách,
vì nó chính là những văn bản của Nhà nước có tính quy phạm pháp luật chi
phối mọi quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước trong quá trình quản
lý thu ngân sách. Thực tế cho thấy nhân tố về thể chế tài chính có ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả quản lý thu ngân sách trên một lãnh thổ địa bàn nhất
định, do vậy đòi hỏi phải ban hành những thể chế tài chính đúng đắn phù hợp
mới tạo điều kiện cho công tác nói trên đạt được hiệu quả.
Thứ hai, nhân tố về bộ máy và cán bộ. Khi nói đến cơ cấu tổ chức một
bộ máy quản lý thu ngân sách người ta thường đề cập đến quy mô nhân sự
của nó và trong sự thiết lập ấy chính là cơ cấu tổ chức bộ máy và cán bộ quản
lý thu ngân sách và các mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các bộ
phận trong quá trình thực hiện chức năng này. Hay nói cách khác, điều quan
trọng hơn cả là phải thiết lập cụ thể rõ ràng, thông suốt các “mối quan hệ



24
ngang” và các “mối quan hệ dọc”. Sự thiết lập ấy được biểu hiện thông qua
qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp, các bộ phận trong tổ
chức bộ máy và cán bộ quản lý thu ngân sách. Quy định chức năng nhiệm vụ
của bộ máy và cán bộ quản lý thu theo chức năng trách nhiệm quyền hạn giữa
bộ phận này với bộ phận khác, giữa cấp trên với cấp dưới trong quá trình
phân công phân cấp quản lý đó. Nếu việc quy định chức năng,nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền cấp thành phố không rõ ràng, cụ thể thì dễ xảy ra
tình trạng hoặc thiếu trách nhiệm, hoặc lạm quyền trong việc thực hiện nhiệm
vụ quản lý thu ngân sách. Nếu bộ máy và cán bộ năng lực trình độ thấp thì sẽ
ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý thu ngân sách, do đó tổ chức bộ máy và cán
bộ là nhân tố rất quan trọng trong quá trình tổ chức quản lý thu ngân sách.
Thứ ba, nhân tố về trình độ phát triển kinh tế và mức thu nhập.Việc
quản lý thu ngân sách luôn chịu ảnh hưởng của nhân tố về trình độ phát triển
kinh tế và mức thu nhập của người dân trên địa bàn.Khi trình độ kinh tế phát
triển và mức thu nhập bình quân của người dân tăng lên sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc huy động nguồn ngân sách và sử dụng có hiệu quả. Do đó, ở
nước ta cũng như các nước trên thế giới, người ta luôn quan tâm chú trọng
đến nhân tố này, trong qúa trình quản lý hoạch định của chính sách thu
NSNN. Thực tế cho thấy, Khi chúng ta thực hiện tốt những vấn đề thu ngân
sách trong đó có nhiều nhân tố tác động nhưng trình độ mức sống của người
dân ngày càng nâng cao thì việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước có thể
rất dễ dàng. Trường hợp nếu trình độ và mức sống còn thấp thì việc thu thuế
cũng rất khó khăn.


25
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI

THÀNH PHỐ UÔNG BÍ GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2011 - 2015
2.1. Giới thiệu chung về Thành phố Uông Bí
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của Thành phố Uông Bí
* Vị trí địa lý
Thành phố Uông Bí là thành phố miền núi, nằm phía Tây Nam tỉnh
Quảng Ninh trên trục đường quốc lộ 18A, cách Hà Nội 120km, cách Hải
Phòng 29 km và cách trung tâm tỉnh lỵ hơn 40 km về phía Tây, phía Đông
giáp huyện Hoành Bồ, phía Đông Nam giáp với thị xã Quảng Yên, phía Tây
giáp huyện Đông Triều, phía Bắc giáp địa phận huyện Sơn Động thuộc tỉnh
Bắc Giang, phía Nam là thành phố Hải Phòng qua sông Đá Bạc chẩy ra sông
Bạch Đằng.
2
Diện tích tự nhiên của Thành phố là 240,4 km , chiếm 4,1% tổng diện
tích tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam.
Phía Bắc cao nhất là núi Yên Tử, có đỉnh cao tới 1064m, núi Bảo Đài cao
875m, phía Nam là vùng thấp nhất với các bãi bồi, trũng ngập nước ven sông
Đá Bạc. Địa hình chia cắt, sông suối nhỏ. Thành phố Uông Bí có 2/3 diện tích
là đồi núi dốc nghiêng từ phía Bắc xuống phía Nam và được phân thành 3
vùng: vùng núi cao, thung lũng, vùng thấp.
Dân số Thành phố năm 2015 đạt 126.738 người, với 11 đơn vị hành
chính gồm 9 phường và 2 xã.
Uông Bí có vị trí địa lý kinh tế đặc biệt. Nằm trên dải hành lang công
nghiệp trục đường 18A, cùng với những thuận lợi về đường bộ, đường sắt Hà
Nội - Kép - Bãi Cháy, cảng biển (thuộc tỉnh Quảng Ninh) cũng như gần các
trung tâm đô thị lớn, Uông Bí có những thuận lợi đặc biệt về giao lưu kinh tế
- văn hóa, xã hội và đầu tư phát triển.
Trong phạm vi tỉnh Quảng Ninh, với địa lý như trên, Uông Bí



×