Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Nghiên cứu một số giải pháp nhằm nâng cao tình hình tài chính của công ty cổ phần toa xe hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.68 KB, 116 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô giáo hướng dẫn
Ths.Đinh Thị Thu Ngân. Cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em hoàn thiện bài
luận văn tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong tổ bộ môn Tài chính đã
nhận xét và góp ý cho bài luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các cô bác, anh chị phòng Kế
toán thống kê công ty Cổ phần Toa Xe Hải Phòng đã nhiệt tình giúp đỡ em
trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Các cô chú, anh chị đã
củng cố cho em những kiến thức thực tế quan trọng giúp em hiểu hơn về các
kiến thức kế toán- tài chính mà mình đang theo học. Tất cả chính là những
hành trang cần thiết cho sự nghiệp của em sau khi tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, ngày 23 tháng 5 năm2016
Sinh viên
Phạm Thị Thanh Phương

1


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của Ths. Đinh Thị Thu Ngân. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức
nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi
rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách


nhiệm về nội dung luận văn của mình.

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH
BVQS
ĐĐ- KCS
ĐHĐCĐ
GTGT
HĐQT
KTCN- TK
MĐAH
PX
TNDN
TSCD

Bảo hiểm xã hội
Bảo vệ quân sự
Điều độ- Kiểm tra chất lượng sản phẩm
Đại hội đồng cổ đông
Giá trị gia tăng
Hội đồng quản trị

Kỹ thuật công nghệ- Thiết kế
Mức độ ảnh hưởng
Phân xưởng
Thu nhập doanh nghiệp
Tài sản cố định

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
SƠ ĐỒ 2.1. TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TOA XE HẢI
PHÒNG...........................................................................................................26

5


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động có hiệu quả trong quá
trình vận hành thì phải chú trọng đến việc xem xét và đánh giá kết quả hoạt
động kinh doanh. Trong đó phân tích tình hình tài chính là một công việc vô
cùng quan trọng không thể thiếu. Phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp được thực hiện thông qua việc phân tích các con số trên các báo cáo
tài chính và các thông tin khác có liên quan. Thông qua việc phân tích này sẽ
giúp doanh nghiệp tìm ra được những điểm mạnh và điểm yếu của doanh
nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp để khắc phục các điểm yếu cũng
như hạn chế của doanh nghiệp.
Công ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng là một công ty hoạt động chủ yếu

trong lĩnh vực sản xuất và sửa chữa các loại toa xe, chi tiết và phụ tùng toa xe.
Công ty là một thành viên của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam và có quy
mô tương đối lớn, hoạt động hiệu quả trong nhiều năm liền. Do đó việc phân
tích tình hình tài chính của công ty là hết sức cần thiết và quan trọng. Chính vì
lý do này nên em đã lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu một số giải pháp nhằm

2.

nâng cao tình hình tài chính của công ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng”.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn tốt nghiệp này là đi sâu tìm hiểu tình hình
tài chính của công ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng. Bằng việc nghiên cứu sâu
về tình hình tài chính của doanh nghiệp thì sẽ nhận thấy được những điểm
mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Đối với những điểm yếu, hạn chế thì sẽ
đề xuất những biện pháp cụ thể để khắc phục. Ngoài mục tiêu chính đã nêu
thì hệ thống hóa cơ sở lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp cũng là
mục tiêu của đề tài.

6


3.1.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến tình

3.2.

hình tài chính của công ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng.

Phạm vi nghiên cứu
Vì tình hình tài chính được thể hiện chủ yếu thông qua thông tin trên

3.

các báo cáo tài chính của doanh nghiệp nên bài luận văn này em sẽ chủ yếu
phân tích báo cáo tài chính của công ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng: Bảng cân
đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền
tệ, Thuyết minh báo cáo tài chính. Dựa vào các báo cáo này em sẽ tiến hành:
+ Phân tích khái quát tình hình tài chính
+ Phân tích các chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh
+ Phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp
+ Phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp
+ Phân tích hiệu suất sinh lời
+ Phân tích tình hình đầu tư thông qua các tỷ suất tài chính
+ Phân tích khả năng hoạt động thông qua các tỷ suất tài chính
Phạm vi không gian: Công ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng
Phạm vi thời gian: Phân tích tình hình tài chính của công ty Cổ phần
Toa xe Hải Phòng qua hai năm 2014, 2015 và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao khả năng tài chính của công ty trong thời gian tới.
4.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
Vận dụng hệ thống các chỉ tiêu và các phương pháp phân tích để phân
tích tình hình tài chính của công ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng.

7


4.2. Thực tiễn

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao tình hình tài chính của công
5.

ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn tốt nghiệp có sử dụng các phương pháp phân tích như:
phương pháp so sánh, chi tiết, cân đối…để phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp một cách đầy đủ, hiệu quả và mang tính khách quan.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận chung của việc nghiên cứu tình hình tài chính
của doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính của công ty Cổ phần Toa xe
Hải Phòng.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của
công ty Cổ phần Toa xe Hải Phòng.

8


CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TÌNH
HÌNH TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Lý luận về tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và bản chất của tài chính doanh
1.1.1.1.
Khái niệm tài chính doanh nghiệp

nghiệp

Tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá

trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu nhất định. Tài chính doanh
nghiệp là một bộ phận trong hệ thống tài chính, tại đây nguồn tài chính xuất hiện
và đồng thời đây cũng là nơi thu hút trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính
doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội,
đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất.[4]
1.1.1.2.
Bản chất của tài chính doanh nghiệp
Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào tì nhà kinh doanh
đều phải có một lượng vốn ban đầu nhất định được huy động từ các nguồn khác
nhau như: Tự có, ngân sách cấp, liên doanh lien kết, phát hành chứng khoán
hoặc cho vay của ngân hàng…Số vốn ban đầu đó sẽ được sẽ được đầu tư vào
các mục đích khác nhau như: Xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị,
vật tư và thuê nhân công. Như vậy, số vốn ban đầu khi phân phối cho các mục
đích khác nhau thì hình thái của nó không còn giữ nguyên dưới dạng tiền tệ ban
đầu mà đã biến đổi sang hình thái khác là những hiện vật như nhà xưởng, máy
móc thiết bị, đối tượng lao động…Quá trình phân chia và biến đổi hình thái của
vốn như vậy là quá trình cung cấp hay nói cách khác là quá trình lưu thông thứ
nhất của quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình tiếp theo là sự kết hợp của các
yếu tố vật chất nói trên để tạo ra một dạng vật chất mới là sản phẩm dở dang, kết
thúc quá trình này thì thành phẩm mới được xuất hiện. Quá trình đó chính là quá
trình sản xuất sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp sẽ phải trải qua quá trình
lưu thông thứ hai, quá trình tiêu thụ, để vốn dưới dạng thành phẩm trở lại hình
thái tiền tệ ban đầu thông qua khoản thu bán hàng của doanh nghiệp, số tiền thu

9


được đó lại trở về tham gia vào quá trình vận động biến đổi hình thái như ban
đầu. Quá trình vận động như vậy lặp đi lặp lại liên tục và có tính chất chu kỳ.

Chính sự vận động biến đổi hình thái như trên của vốn tạo ra quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình vận động của vốn diễn ra được là nhờ
hệ thống các mối quan hệ của doanh nghiệp với môi trường xung quanh nó. Hệ
thống các mối quan hệ đó rất phức tạp, đan xen lẫn nhau nhưng ta có thể phân
chia thành các nhóm cơ bản như sau: [1]
Nhóm 1: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Nhà nước. Đây là mối
quan hệ nộp, cấp. Nhà nước có thể cấp vốn, góp vốn cho doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có trách nhiệm nộp các khoản nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước.
Nhóm 2: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các tổ chức và cá nhân
khác ở các thị trường. Đây là các quan hệ trong việc mua bán, trao đổi hàng hóa,
sản phẩm ở thị trường hàng hóa; mua bán trao đổi quyền sử dụng sức lao động ở
thị trường lao động hoặc trao đổi mua bán quyền sử dụng vốn ở thị trường tài
chính.
Nhóm 3: Các mối quan hệ phát sinh trong nội bộ của doanh nghiệp. Đây
là các quan hệ chuyển giao vốn, quan hệ trong việc thu hộ, chi hộ giữa các bộ
phận trong một doanh nghiệp với doanh nghiệp. Quan hệ giữa doanh nghiệp và
cán bộ công nhân viên như là việc thanh toán lương, thưởng, vay và trả tiền vốn,
tiền lãi và yêu cầu các cá nhân vi phạm hợp đồng và kỷ luật lao động bồi thường

-

thiệt hại hoặc nộp các khoản tiền phạt.[1]
Hệ thống các mối quan hệ trên có điểm chung là:
Đó là mối quan hệ kinh tế, những quan hệ liên quan đến công việc tạo ra sản

-

phẩm và giá trị mới cho doanh nghiệp.
Chúng đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, thông qua đồng tiền để đo


-

lường, để đánh giá.
Chúng đều nảy sinh trong quá trình tạo ra và phân chia các quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp.[1]
Chỉ cần một sự mất cân đối hoặc sự phá vỡ của một trong những mối
quan hệ trên thì quá trình vận động biến đổi hình thái của vốn có thể bị đình trệ,
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thế mà sẽ bị đảo lộn thậm chí

10


có thể dẫn đến phá sản. Hệ thống các mối quan hệ như vậy được coi là tài chính
của doanh nghiệp.[1]
Như vậy tài chính doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là những khoản tiền
hoặc những hoạt động liên quan đến tiền mà nó có thể được hiểu như sau:
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ kinh tế biểu hiện
dưới hình thái tiền tệ giữa doanh nghiệp và môi trường xung quanh nó, những
mối quan hệ này nảy sinh trong quá trình tạo ra và phân chia các quỹ tiền tệ của
doanh nghiệp. [1]
1.1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Vai trò của tài chính doanh nghiệp được ví như những tế bào có khả năng
tái tạo, hay còn được gọi là cái gốc của nền tài chính. Sự phát triển hay suy thoái
của sản xuất, kinh doanh gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài
chính. Vì vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ
động, thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả
năng, trình độ của người quản lý; sau đó nó còn phụ thuộc vào môi trường kinh
doanh, phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.[5]
Song song với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã
hoạch định hàng loạt chính sách đổi mới nhằm xác lập cơ chế quản lý quản lý

năng động như các chính sách khuyến khích đầu tư kinh doanh, mở rộng khuyến
khích giao lưu vốn….Trong điều kiện như vậy, tài chính doanh nghiệp có vai trò
-

sau:
Tài chính doanh nghiệp - một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài
chính nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh.
Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh
nghiệp phải có một yếu tố tiền đề - đó là vốn kinh doanh.
Trong cơ chế quản lý hành chính cao cấp trước đây, vốn của các doanh
nghiệp Nhà nước được Nhà nước tài trợ hầu hết. Vì thế vai trò khai thác, thu hút
vốn không được đạt ra như một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn với doanh
nghiệp.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần, các doanh nghiệp Nhà
nước chỉ là một bộ phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu tư
phát triển những ngành nghề mới nhằm thu hút được lợi nhuận cao… đã trở
11


thành động lực và là một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp trong
nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, khi đã có nhu cầu về vốn, thì nảy sinh
vấn đề cung ứng vốn. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện
và khả năng để chủ động khai thác thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm
-

phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và phát triển của mình.[5]
Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết
kiệm và hiệu quả
Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và
có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong

điều kiện của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra
trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khắt khe, sản xuất không phải
với bất kỳ giá nào. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của đều được phản ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu tài chính, bằng
các số liệu của kế toán và bằng tổng kết tài sản. Với đặc điểm này, người cán bộ
tài chính có khả năng phân tích, giám sát các hoạt động kinh doanh để một mặt
phải bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng

-

quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.[5]
Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất
kinh doanh
Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế thị trường các quan hệ
tài chính doanh nghiệp được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những
quan hệ với hệ thống ngân hàng thương mại, với các tổ chức tài chính trung gian
khác, các thành viên góp vốn đầu tư liên doanh và những quan hệ tài chính trong
nội bộ doanh nghiệp…Những quan hệ tài chính trên đây chỉ có thể được diễn ra
khi cả hai bên cùng có lợi và trong khuôn khổ của pháp luật. Dựa vào khả năng
này, nhà quản lý có thể sử dụng các công cụ tài chính như đầu tư, xác định lãi
suất, tiền lương, tiền thưởng để kích thích năng suất lao động, kích thích tiêu
dùng, kích thích thu hút vốn nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh
doanh.[5]

12


-

Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài
chính như: hệ số nợ, hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu các thành phần
vốn…có thể dễ dàng nhận biết chính xác thực trạng tốt, xấu trong các khâu của
quá trình sản xuất kinh doanh.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính, đòi hỏi nhà quản lý
doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê,
xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính và duy trì nề nếp chế độ phân
tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.[5]

13


1.1.3. Chức năng của tài chính
1.1.3.1. Chức năng phân phối

doanh nghiệp

Chức năng phân phối là một khách quan vốn có của phạm trù tài chính
nói chung và tài chính doanh nghiệp nói riêng. Con người nhận thức và vận
dụng khả năng này để tiến hành phân phối nguồn tài chính của doanh nghiệp để
tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, nhằm thỏa mãn những nhu
cầu của chủ doanh nghiệp. Đối tượng phân phối của tài chính doanh nghiệp là
các nguồn tài chính của doanh nghiệp, đó chính là những giá trị của cải mới
sáng tạo ra trong kỳ, những giá trị của cải doanh nghiệp tích lũy từ trước…Chủ
thể phân phối của tài chính doanh nghiệp là chủ doanh nghiệp và Nhà nước. Quá
trình phân phối diễn ra trước, trong và sau quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Cụ thể là phân phối về nguồn huy động vốn cho doanh nghiệp,
phân phối số vốn huy động được để đầu tư vào các loại tài sản và phân phối thu

nhập sau quá trình kinh doanh. Quá trình phân phối của tài chính doanh nghiệp
diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp.[1]
Tuy vậy, việc phân phối phải dựa trên các tiêu chuẩn và định mức đươc
tính toán một cách khoa học trên nền tảng là hệ thống các mối quan hệ kinh tế
của doanh nghiệp với môi trường xung quanh. Phân phối hợp lý là mục đích mà
chủ thể mong muốn. Để phân phối chủ thể phải dựa trên cơ sở quá trình phân
tích, tính toán khoa học. Việc phân tích không chi tiết, việc tính toán không
chính xác có thể gây ra sự mất cân đối các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và
môi trường xung quanh làm cho quá trình sản xuất kinh doanh không đạt hiệu
quả cao, thậm chí dẫn đến phá sản. Các tiêu chuẩn và định mức phân phối ở mỗi
quá trình sản xuất kinh doanh mặc dù được tính toán đầy đủ chính xác thì nó
cũng không thể là bất di bất dịch mà thường xuyên được điểu chỉnh, uốn nắn
cho phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế thường xuyên thay đổi. Việc điều
chỉnh uốn nắn đó được thực hiện thông qua chức năng thứ hai của tài chính là
chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp.[1]
1.1.3.2.

Chức năng giám đốc

14


Đây cũng là một khả năng khách quan vốn có của phạm trù tài chính nói
chung và tài chính doanh nghiệp nói riêng. Giám đốc tài chính doanh nghiệp là
việc theo dõi, giám sát. Đối tượng của giám đốc tài chính là quá trình phân phối,
cụ thể là quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Chủ thể
giám đốc tài chính doanh nghiệp là chủ thể phân phối tài chính doanh nghiệp, cụ
thể là chủ doanh nghiệp và Nhà nước. Mục đích của giám đốc tài chính doanh
nghiệp là kiểm tra tính hợp lý, tính đúng đắn và hiệu quả của quá trình phân
phối tài chính. Từ kết quả của việc giám đốc mà chủ thể có phương hướng, biện

pháp điều chỉnh cho quá trình phân phối tài chính doanh nghiệp hợp lý hơn và
đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Đặc điểm của giám đốc tài chính doanh nghiệp là
giám đốc bằng đồng tiền. Phương pháp giám đốc là phân tích tình hình tài chính
của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính và bằng phương pháp nghiên
cứu khoa học, ta có thể thấy được thực trạng tài chính doanh nghiệp cũng như
các tiềm năng tài chính của doanh nghiệp. Dựa vào những kết luận của việc
phân tích, chủ doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp hữu hiệu hơn.[1]
Khi nói đến chức năng giám đốc bằng tiền của tài chính doanh nghiệp, ta
có thể nhầm lẫn với công tác thanh tra, kiểm tra tài chính. Thực ra hai khái niệm
này rất khác nhau. Công tác kiểm tra, thanh tra tài chính là một hoạt động chủ
quan của con người trong việc thực hiện chức năng tài chính, nó có thể tồn tại
hoặc không tồn tại, có thể đúng đắn cũng có thể sai lệch. Công tác này thường
chỉ được thực hiện bởi nhân viên của các cơ quan chức năng quản lý của Nhà
nước, của ngành đối với doanh nghiệp vi phạm chế độ quản lý kinh tế, tài chính
hay bị thua lỗ kéo dài, nợ dây dưa, bị kiện cáo…Nếu có nhân viên thanh tra có
đủ năng lực, trình độ chuyên môn, công minh chính trực thì kết quả thanh tra
mới phản ánh đúng tình hình kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, trường hợp
ngươc lại thì kết quả thanh tra sẽ bị sai lệch. Còn chức năng kiểm tra hay giám
đốc bằng đồng tiền của tài chính là thuộc tính vốn có của nó. Nó luôn luôn tồn
tại và luôn luôn đúng bởi vì khi đã có quá trình sản xuất kinh doanh thì nhất

15


định có hệ thống các chỉ tiêu tài chính cho dù nhà sản xuất kinh doanh có ghi
chép nó vào các sổ sách hay không.[1]
Hai chức năng trên đây của tài chính có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Chức năng phân phối xảy ra ở trước, trong và sau mỗi quá trình sản xuất kinh
doanh, nó là tiền đề cho quá trình sản xuất kinh doanh, không có nó sẽ không
thể có quá trình sản xuất kinh doanh. Chức năng giám đốc bằng tiền luôn theo

sát chức năng phân phối, có tác dụng điều chỉnh và uốn nắn tiêu chuẩn và định
mức phân phối để đảm bảo cho nó luôn luôn phù hợp với điều kiện và tình hình
thực tế của sản xuất kinh doanh.[1]
1.2. Lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp

Phân tích hiểu theo nghĩa chung nhất là việc chia nhỏ sự vật, hiện tượng
trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng đó.
Trong lĩnh vực tự nhiên, người ta phân tích các sự vật cụ thể bằng các
phương tiện cụ thể. Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tượng cần phân tích
chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng, nên việc phân tích phải thực hiện
bằng những phương pháp trừu tượng.[1]
Phân tích hoạt động kinh tế là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình
và các kết quả kinh doanh thành các bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, bằng các
phương pháp phân tích ta liên hệ, so sánh, đối chiếu, tổng hợp nhằm rút ra tính
quy luật và xu hướng phát triển của hiện tượng nghiên cứu.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và
các công cụ cho phép xử lý các thong tin kế toán và các thông tin khác về quản
lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức
độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.[1]
Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi
trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh
nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và
các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh
nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân
tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết.[1]
16


1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ của phân tích tài chính doanh

1.2.2.1. Chức năng của phân tích tài chính doanh nghiệp
-

nghiệp

Chức năng đánh giá
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch, các luồng vận
động của những nguồn lực tài chính trong quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục
tiêu kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật. Các luồng chuyển dịch giá trị, sự
vận động của các nguồn tài chính nảy sinh và diễn ra như thế nào, nó tác động ra
sao đến quá trình kinh doanh, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, có
yếu tố mang tính môi trường, có yếu tố bên trong, có yếu tố bên ngoài cụ thể là
những yếu tố nào, tác động đến sự vận động và chuyển dịch ra sao, gần với mục
tiêu hay ngày càng xa rời mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, có phù hợp với
cơ chế chính sách và pháp luật hay không là những vấn đề mà phân tích tài

-

chính doanh nghiệp phải đưa ra câu trả lời.[3]
Chức năng dự đoán
Mọi quyết định của con người đều hướng vào thực hiện những mục tiêu
nhất định. Mục tiêu là đích hướng tới bằng những hành động cụ thể trong tương
lai. Những mục tiêu này có thể là ngắn hạn có thể là mục tiêu dài hạn. Nhưng
nếu liên quan đến đời sống kinh tế của doanh nghiệp thì cần nhận thấy tiềm lực
tài chính, diễn biến luồng chuyển dịch giá trị, sự vận động của vốn hoạt động
trong tương lai của doanh nghiệp. Những quyết định và hành động trong tương
lai phụ thuộc vào diễn biến kinh tế xã hội và hoạt động của doanh nghiệp sẽ diễn
ra trong tương lai. Bản thân doanh nghiệp cho dù đang trong giai đoạn nào trong
chu kỳ phát triển thì các hoạt động cũng đều hướng tới mục tiêu nhất định.

Những mục tiêu này được hình thành từ nhận thức về điều kiện, năng lực của
bản thân cũng như những diễn biến của tình hình kinh tế quốc tế, trong nước,
ngành nghề và các doanh nghiệp khác cùng loại, sự tác động của các yếu tố kinh
tế xã hội trong tương lai. Vì vậy, để có những quyết định phù hợp và tổ chức
thực hiện hợp lý, đáp ứng được mục tiêu mong muốn của các đối tượng quan

-

tâm cần thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp trong tương lai.[3]
Chức năng điều chỉnh
17


Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế tài chính dưới hình
thái giá trị phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động. Hệ thống các quan
hệ đó bao gồm nhiều loại khác nhau, rất đa dạng, phong phú và phức tạp, chịu
ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân và nhân tố cả bên trong lẫn bên ngoài doanh
nghiệp. Hệ thống các quan hệ kinh tế tài chính đó sẽ là bình thường nếu tất cả
các mắt xích trong hệ thống đều diễn ra bình thường và đó là sự kết hợp hài hòa
các mối quan hệ. Tuy nhiên, những mối quan hệ kinh tế ngoại sinh, bản thân
doanh nghiệp cũng như các đối tượng quan tâm không thể kiểm soát và chi phối
toàn bộ. Vì vậy, để kết hợp hài hòa các mối quan hệ, doanh nghiệp, các đối
tượng có liên quan đều phải điều chỉnh các mối quan hệ và nghiệp vụ kinh tế nội
sinh.[3]
1.2.2.2. Nhiệm vụ của phân tích tài chính doanh nghiệp
Nhiệm vụ của phân tích các báo cáo tài chính ở doanh nghiệp là căn cứ
trên những nguyên tắc về tài chính doanh nghiệp để phân tích đánh giá tình hình
thực trạng và triển vọng của hoạt động tài chính, chỉ ra được những mặt tích cực
và hạn chế của việc thu chi tiền tệ, xác định nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng
của các yếu tố. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hơn

nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu
chủ yếu đó, nhiệm vụ cơ bản của phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp
-

là:[6]
Phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Phân tích diễn biến sử sụng tài sản và nguồn hình thành tài sản.
Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình dự trữ TSLĐ
Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Phân tích các chỉ số hoạt động.
Phân tích các hệ số sinh lời.[6]
1.2.3. Ý nghĩa và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1. Ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh
doanh. Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tài
chính của doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác

18


động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì
vậy, phân tích tình hình tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân chủ
doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài có liên quan đến tài chính của doanh
nghiệp.[7]
-

Đối với nhà quản trị doanh nghiệp
Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân
tích tài chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do nhà phân tích

ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do đó thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh
nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể
phân tích tài chính tốt nhất. Vì vậy nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm
đến nhiều mục tiêu khác nhau như tạo công ăn việc làm cho người lao động,
nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ; hạ chi phí thấp nhất và bảo
vệ môi trường. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được mục tiêu này khi doanh nghiệp
kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ.
Như vậy hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông tin
nhằm thực hiện cân bằng tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua để
tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro
tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó định hướng các quyết định của ban
giám đốc tài chính, quyết định đầu tư, tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần.[7]

-

Đối với các nhà đầu tư
Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả năng hoàn vốn, mức sinh lãi, khả
năng thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế mà họ cần thông tin về điều kiện tài
chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng của doanh
nghiệp. Các nhà đầu tư còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động công tác

-

quản lý. Những điều đó tạo ra sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư.[7]
Đối với các nhà cho vay
Mối quan tâm của họ hướng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Qua
việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, họ đặc biệt chú ý tới số
lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể so
sánh được và biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.


19


Giả sử chúng ta đặt mình vào trường hợp là người cho vay thì điều đầu
tiên chúng ta chú ý cũng sẽ là số vốn chủ sở hữu, nếu như ta thấy không chắc
chắn khoản cho vay của mình sẽ được thanh toán thì trong trường hợp doanh
nghiệp đó gặp rủi ro sẽ không có số vốn bảo hiểm cho họ. Đồng thời ta cũng
quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì đó chính là cơ sở của việc
-

hoàn trả vốn và lãi vay.[7]
Đối với cơ quan Nhà nước và người làm công
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, qua việc phân tích tình hình tài chính
doanh nghiệp, sẽ đánh giá được năng lực lãnh đạo của ban giám đốc, từ đó đưa
ra các quyết định đầu tư bổ sung vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước nữa hay
không.
Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư,… người lao động có nhu cầu
thông tin cơ bản giống họ bởi vi nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến
khách hàng hiện tại và tương lai của họ.[7]
1.2.3.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng đối với các công ty

-

và doanh nghiệp:
Xác định điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thông qua quá trình phân tích doanh nghiệp, bởi trong quá trình phân tích các
nhà chuyên môn có thể đưa ra các biện pháp để giải quyết tình hình tài chính

-


khó khăn của doanh nghiệp.
Giúp các nhà quản lý xác định rõ được tình hình của công ty và đưa ra các giải

-

pháp kịp thời
Thông qua việc phân tích của các nhà phân tích, nhà đầu tư, người cho vay đánh
giá được khả năng và tính chắc chắn của dòng tiền mặt ra vào và tình hình sử

-

dụng vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Việc phân tích tình hình tài chính một cách chính xác góp phần nâng cao hiệu
quả kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp.[8]
1.2.4. Phương pháp phân tích
1.2.4.1. Phương pháp chi tiết
a, Phương pháp chi tiết theo thời gian
Kết quả kinh doanh là kết quả của một quá trình do nhiều nguyên nhân
khách quan, chủ quan khác nhau, tiến độ thực hiện quá trình trong từng đơn vị

20


thời gian xác định không đồng đều. Vì vậy ta phải chi tiết theo thời gian giúp
cho việc đánh giá kết quả được sát, đúng và tìm được các giải pháp có hiệu quả

-

cho công việc kinh doanh.[2]

Tác dụng:
Xác định thời điểm mà hiện tượng kinh tế xảy ra tốt nhất, xấu nhất.
Xác định tiến độ phát triển, nhịp điệu phát triển của hiện tượng kinh tế từ đó
giúp doanh nghiệp có biện pháp khai thác các tiềm năng, khắc phục được sự mất
cân đối, tính thời vụ thường xảy ra trong quá trình kinh doanh.
Tùy thuộc vào mục đích của phân tích có thể chia hiện tượng và kết quả
kinh tế của năm theo các quý, tháng, tuần, kỳ…[2]
b, Phương pháp chi tiết theo địa điểm
Có những hiện tượng kinh tế xảy ra tại nhiều địa điểm khác nhau với
những tính chất và mức độ khác nhau, vì vậy cần phải phân tích chi tiết theo địa
điểm.[2]
Tác dụng:
-

Xác định những đơn vị, cá nhân tiên tiến hoặc lạc hậu, tìm được những

-

nhân tố điển hình từ đó rút kinh nghiệm cho các đơn vị khác.
Xác định sự hợp lý hay không trong việc phân phối nhiệm vụ sản xuất giữa

-

các đơn vị hoặc cá nhân.
Đánh giá tình hình hạch toán kinh doanh nội bộ.
Giúp cho việc đánh giá đúng đắn kết quả của từng đơn vị thành phần từ đó
có biện pháp khai thác các tiềm năng về sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn,
đất đai...phù hợp với từng đơn vị trong kinh doanh.[2]
c, Phương pháp chi tiết theo các bộ phận cấu thành
Chi tiết theo các bộ phận cấu thành giúp ta biết được quan hệ cấu thành


của các hiện tượng và kết quả kinh tế, nhận thức được bản chất của các chỉ tiêu
kinh tế từ đó giúp cho việc đánh giá kết quả của doanh nghiệp được chính xác,
cụ thể và xác định được nguyên nhân cũng như trọng điểm của công tác quản
lý.[2]

21


1.2.4.2.

Phương pháp so sánh
Là phương pháp được vận dụng phổ biến trong phân tích nhằm xác định

vị trí và xu hướng biến động của hiện tượng, đánh giá kết quả. Có thể có các
trường hợp so sánh sau:
- So sánh giữa thực hiện với kế hoạch để đánh giá tình hình thực hiện kế
-

hoạch.
So sánh giữa kỳ này với kỳ trước để xác định nhịp độ, tốc độ phát triển của

-

hiện tượng.
So sánh giữa đơn vị này với đơn vị khác để xác định mức độ tiên tiến hoặc

-

lạc hậu giữa các đơn vị.

So sánh giữa thực tế với định mức, khả năng với nhu cầu.
Chú ý: khi so sánh phải đảm bảo nguyên tắc so sánh được: thống nhất về

nội dung, đơn vị, phương pháp tính.[2]
a, So sánh bằng số tuyệt đối
Cho biết quy mô, khối lượng của hiện tượng nghiên cứu đạt vượt hoặc hụt
giữa hai kỳ.
Mức biến động tuyệt đối (chênh lệch tuyệt đối): ∆y = y1-y0
Trong đó:
y1, y0: mức độ của hiện tượng nghiên cứu kỳ thực tế, kỳ gốc.
∆y: mức biến dộng tuyệt đối của hiện tượng nghiên cứu.[2]
b, So sánh bằng số tương đối
Cho ta thấy xu hướng biến động, tốc độ phát triển, kết cấu của tổng thể,
mức độ phổ biến của hiện tượng.
* Số tương đối động thái
Dùng để biểu hiện xu hướng biến động, tốc độ phát triển của hiện tượng
theo thời gian.
t = *100 (%)
* Số tương đối kết cấu
Để xác định tỷ trọng của bộ phận so sánh với tổng thể.
d = *100 (%)
ybp : mức độ của bộ phận
ytt : mức độ của tổng thể.[2]
1.2.4.3. Phương pháp cân đối
Phương pháp này được vận dụng trong trường hợp các nhân tố có mối
quan hệ tổng đại số. Cụ thể để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đến

22



chỉ tiêu nghiên cứu chỉ việc tính chênh lệch giữa trị số kỳ nghiên cứu và trị số
kỳ gốc của bản thân nhân tố đó, không cần quan tâm đến các nhân tố khác.[2]
-

Khái quát nội dung của phương pháp:

Chỉ tiêu phân tích: y
Các nhân tố ảnh hưởng: a, b, c
* Phương trình kinh tế: y = a + b – c
Giá trị chỉ tiêu kỳ gốc: y0 = a0 + b0 – c0
Giá trị chỉ tiêu kỳ nghiên cứu: y1 = a1 + b1 – c1
* Xác định đối tượng phân tích:
∆y = y1 – y0 = (a1 + b1 - c1) –(a0 + b0 - c0)
* Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích:
+ Ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất (a) đến y:
Ảnh hưởng tuyệt đối: ∆ya = a1 – a0
Ảnh hưởng tương đối: ya = *100 (%)
+ Ảnh hưởng của nhân tố b đến y:
Ảnh hưởng tuyệt đối: ∆yb = b1 – b0
Ảnh hưởng tương đối: yb = *100 (%)
+ Ảnh hưởng của nhân tố c đến y:
Ảnh hưởng tuyệt đối: yc = - (c1 – c0)
Ảnh hưởng tương đối: yc = *100 (%)
Tổng ảnh hưởng của các nhân tố:
∆ya + ∆yb + ∆yc = ∆y
= *100 (%).[2]
Kỳ nghiên
cứu

Kỳ gốc

Stt

1

Chỉ tiêu

Nhân tố thứ nhất

Qui


Tỷ
trọng
(%)

Qui


Tỷ
trọng
(%)

a0

da0

a1

da1


23

So
Chênh MĐAH
sánh
lệch →y (%)
(%)

a

∆a

ya


2

Nhân tố thứ hai

b0

db0

b1

db1

b

∆b


yb

3

Nhân tố thứ ba

c0

dc0

c1

dc1

c

∆c

yc

Chỉ tiêu phân tích

y0

100

y1

100


y

∆y

-

[2]
1.2.5.

Nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp
Xuất phát từ mục tiêu phân tích tài chính cũng như bản chất và nội dung
các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nôi dung phân
tích tài chính doanh nghiệp được chia thành những nhóm sau:
Một là: Phân tích cấu trúc tài chính và cân bằng tài chính. Nội dung phân
tích này nhằm đánh giá khái quát cấu trúc tài sản, cấu trúc nguồn vốn của đơn
vị; qua đó phát hiện những đặc trưng trong việc sử dụng vốn, huy động vốn.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có tính tự chủ cao trong
huy động vốn và sử dụng vốn nên phân tích tài chính còn quan tâm đến cân
bằng tài chính của doanh nghiệp.[9]
Hai là: Phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hoạt động trong
cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp có những hướng chiến lược phát triển riêng
trong từng giai đoạn. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng nhưng mục tiêu đó luôn
gắn liền với mục tiêu thị phần. Do vậy, doanh thu và lợi nhuận là hai yếu tố
quan trọng khi đánh giá hiệu quả. Hiệu quả của doanh nghiệp cần xem xét một
cách tổng thể trong sự tác động giữa hoạt động kinh doanh và hoạt động tài
chính. Phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không chỉ xem xét hiệu
quả cá biệt mà còn xem xét hiệu quả tổng hợp.[9]
Ba là: Phân tích rủi ro của doanh nghiệp. Bản chất của hoạt động kinh
doanh luôn mang tính mạo hiểm. Qua đó, phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn

trong hoạt động kinh doanh, trong huy động vốn và công tác thanh toán.
Bốn là: Phân tích giá trị của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường,
hoạt động tài chính doanh nghiệp với hai chức năng cơ bản là huy động vốn và
sử dụng vốn nhưng hướng đến mục tiêu là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Giá
trị doanh nghiệp được nâng cao không chỉ là kết quả tổng hợp từ sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp mà còn liên quan đến thái độ, trách

24


nhiệm của doanh nghiệp trước cộng đồng. Đó chính là phương cách để doanh
nghiệp nâng cao vị trí của mình trên thị trường, từ đó tác động ngược lại đến
hoạt động tài chính. Phân tích giá trị doanh nghiệp có thể được xem như là phần
mở trong phân tích tài chính.[9]

25


×