Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

BÀI THU HOẠCH ĐẢNG VIÊN mới 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.49 KB, 6 trang )

1. Vì sao nói độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn khách
quan của lịch sử?
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng
về đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn ái
Quốc - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước,
nhiều châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm của các nước. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm thấy cơ
sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con
đường cách mạng vô sản. Bác Hồ khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức: "Cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi
hoàn toàn". "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản". Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng định, được cả
dân tộc hưởng ứng và đi theo. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn
khách quan của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn này dựa
trên 2 cơ sở chủ yếu sau:
Một là, cơ sở lý luận:
- Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức
bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân
chính cho người lao động. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người
bóc lột người, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế
đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện giải
phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho
độc lập dân tộc.
Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa
bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh




chính sách có lợi cho người lao động; tạo khả năng hiện thực cho các nước lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra
một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Tính tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều kiện
để các dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới trong quan
niệm và giải pháp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách triệt để.
Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa đã đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng
cơ sở vật chất với quy mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật
chất và tinh thần của nhân dân. Từ một nước Nga nghèo nàn và lạc hậu, sau một
thời gian xây dựng đã trở thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước tiến
lớn trong nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốc
phòng hùng mạnh… tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển.
Hàng trăm nước đã giành được độc lập dân tộc góp phần quyết định vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hai là, cơ sở thực tiễn:
- Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi được thành lập đến nay đã lãnh đạo nhân
dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến
tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân
phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến
hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc
lập của Tổ quốc.
Xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm
quốc tế, muốn thay đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp nô lệ làm

thuê trở thành người làm chủ, không có con đường nào khác ngoài con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Mọi con đường khác đều không được nhân dân ta chấp nhận.


Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần kiên định vững vàng với mục tiêu, lý tưởng
mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là độc lập dân tộc gắn liền với con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.
2. Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết TW4 khóa XI về “một số vấn đề
cấp bách trong xây dựng đảng hiện nay” Đảng ta đã chỉ rõ một số hạn chế, tồn
tại: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên song chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn
diễn biến phức tạp; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng lôi
kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng,
Nhà nước.”
Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đồng chí hiểu như thế nào về
những nội dung trên và cần phải làm gì để góp phần xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch, vững mạnh
Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân có nhiều tiến bộ; đa số cán bộ, đảng viên phát huy
được vai trò tiền phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện
phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, trong Đảng và trong xã hội ta hiện nay đã xuất hiện tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
đã nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên song chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ
phận còn diễn biến phức tạp; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi
dụng lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối
Đảng, Nhà nước.”
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống biểu hiện ở các dạng

chủ yếu sau đây:
Một là, về tư tưởng chính trị:
- Sự phai nhạt về lý tưởng, hoài nghi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đường lối
cách mạng của Đảng.


- Nói và làm không nhất quán, không đúng đường lối, quan điểm, quy định
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phụ họa theo các quan điểm lệch lạc; xa rời
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những
khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
- Ngại học tập lý luận chính trị, ngại tham gia các phong trào cách mạng;
kém ý chí đấu tranh phê bình và tự phê bình; không thường xuyên trao dồi đạo đức
cách mạng, lối sống trong sáng, chính trực vì chân lý, vì hòa bình, vì người lao
động, người nghèo...
- Không có hoài bão, không còn ý thức vì nước, vì dân, không làm tròn bổn
phận, chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh
hoạt của Đảng; không báo cáo đúng sự thật, không trung thực, thẳng thắn trong tự
phê bình và phê bình, thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức; sa sút ý chí chiến đấu,
thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh.
- Xa dân, vô cảm trước sự khó khăn, bức xúc của dân...
- Thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh hoạt hằng
ngày.
Hai là, về đạo đức, lối sống:
- Chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu lý
tưởng, thiếu ý chí phấn đấu; hành động cơ hội, vì lợi ích cá nhân, đua đòi...
- Cực đoan, cơ hội, vụ lợi, thực dụng; dĩ hòa, vi quý, nói dựa, lấy lòng nhau;
tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích; bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm, mất đoàn kết; lối
sống xa hoa, hưởng lạc.

- Tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí, quan liêu, chạy chức, chạy
quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng.
- Có các hành vi vô đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân
với xã hội, như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu...
- Đạo đức nghề nghiệp sa sút, đặc biệt, trong những lĩnh vực được xã hội tôn
vinh.
- Mê tín, dị đoan, vi phạm thuần phong, mỹ tục của dân tộc, của cha ông...
- Có hành vi vi phạm trật tự, an toàn xã hội; lối sống vô tổ chức, vô kỷ luật,
tùy tiện vô nguyên tắc.


Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ,
đảng viên đã trở nên rất nghiêm trọng:
- Xảy ra ở bộ phận "không nhỏ" cán bộ, đảng viên.
- Diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp, nhiều ngành, trở thành "quốc nạn".
- Không chỉ mang tính cá nhân mà còn có tính tập thể, "tràn lan", đặc biệt,
cả những người có chức có quyền, có chức vụ cao trong bộ máy Đảng, Nhà nước,
đoàn thể chính trị - xã hội.
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn đến sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay. Nó đang làm thay đổi, lệch lạc những chuẩn mực, thang bậc giá trị đạo
đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại đến sự trường tồn
của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Từ những vấn đề suy thoái về đạo đức,
lối sống đã dẫn đề tình trạng một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng
lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng,
Nhà nước.
Sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân
dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu đến uy tín và vai trò lãnh đạo của tổ chức
đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.

Thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các nguy cơ khác dẫn đến
mất ổn định chính trị, xã hội, liên quan đến "sự sống còn của Đảng, của chế độ".
Là Đảng viên trong lực lượng công an để góp phần xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch, vững mạnh bản thân cần phải làm tốt những việc sau đây:
- Chấp hành nghiêm điều lệnh công an nhân dân, điều lệ đảng CSVN
- Thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước phân công
- Suốt đời phấn đấu hi sinh cho lí tưởng của Đảng
- Tuyệt đối trung thành với Đảng với sự nghiệp cách mạng.
- Đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết.
- Thường xuyên tu dường, rèn luyện đạo đức cách mạng.
- Có đời tư trong sáng, là tấm gương sáng trong cuộc sống để nhân dân tin
và noi theo


- Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân
- Luôn luôn học tập để nâng cao trình độ vế mọi mặt.
- Phải có phong cách tốt, sâu sắc, tỉ mỉ.
- Bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân dân, chứ
không phải "dán lên trán hai chừ cộng sản" là được dân tin, dân yêu, dân kính, dân
phục.
- Nêu cao tinh thẩn trách nhiệm đối với dân, không ngừng nâng cao đời sống
của nhân dân.
Tr.59
3. Trình bày tiêu chuẩn Đảng viên được quy định trong điều lệ Đảng?
Thời gian qua, trong thực tiễn công tác, đồng chí đã làm gì để xứng đáng với
danh hiệu người đảng viên Cộng sản?
Tiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực quy định chất lượng của người
đảng viên, là tiêu chí phân ra giữa đảng viên và quần chúng, là cơ sở để đánh giá
chất lượng đảng viên, là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên. Mọi đảng
viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện, phấn đấu. Điều 1, Điều lệ

ĐCS VN do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định tiêu
chuẩn đảng viên như sau:
“1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời
phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức và lối sống lành
mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn
đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện:
thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ của đảng
viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu
tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng”



×