Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Hãy nêu điểm mới của BLHS 2015 so với BLHS 1999 quy định về tội phạm tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.19 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU

A.

Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành (từ ngày 01-7-2016) kế thừa
Bộ luật Hình sự năm 1999 và sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới liên quan
đến tội tham nhũng, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng; khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh phòng, chống
tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất
nước.
B.
I.

NỘI DUNG

Khái niệm

Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào
có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức
vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt,
tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của[1]. Tài
liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng
(năm 1969) định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng
quyền lực nhà nước để trục lợi riêng...
Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định (tại
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của người có


chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi[2]. Người có
chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức,
đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy
nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra
phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các
biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai, minh bạch
trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng
đầu.
II.

Đặc điểm cơ bản của tội phạm tham nhũng
2


1. Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn

Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có
chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức,
viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh
đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện
nhiệm vụ, công vụ đó (khoản 3, Điều 1, Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005).
Nhìn chung, nhóm đối tượng này có đặc điểm đặc thù so với các nhóm
đối tượng khác như: họ thường là những người có quá trình công tác và cống
hiến nên có nhiều kinh nghiệm; được đào tạo có hệ thống, là những chuyên gia

trên nhiều lĩnh vực khác nhau; là những người có quan hệ rộng và có uy tín xã
hội nhất định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ
thể hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều
tra, xét xử hành vi tham nhũng.
2. Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao

“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham
nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức
vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình,
cho gia đình mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành
vi tham nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó thì không thể có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải
mọi hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa giữa hành vi này
với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lưu ý khi phân biệt hành vi tham
nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
3


3. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi

Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích của hành vi tham nhũng là
vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó không là hành
vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần
mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua
hành vi tham nhũng. Như vậy, khi xử lý về hành vi tham nhũng, không bắt buộc
chủ thể tham nhũng phải đạt được lợi ích.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định những lợi
ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được để từ đó quyết định mức độ xử lý. Lợi

ích vật chất hiện nay trong cơ chế thị trường thể hiện ở rất nhiều dạng khác
nhau, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá
lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt được thì sẽ là không đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích
vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt; ví dụ như: việc dùng tài sản của
Nhà nước để khuyếch trương thanh thế, gây dựng uy tín hay các mối quan hệ để
thu lợi bất chính. Trong trường hợp này, mục đích của hành vi vừa là lợi ích vật
chất, vừa là lợi ích tinh thần...
Đối với khu vực tư, khi có vụ việc tham nhũng xảy ra, pháp luật đã có
những sự điều chỉnh nhất định. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, người có chức
vụ, quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực tư cấu kết, móc
nối với những người thoái hoá, biến chất trong khu vực công hoặc lợi dụng ảnh
hưởng của những người này để trục lợi. Trong trường hợp đó, họ trở thành đồng
phạm khi người có hành vi tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
III. Những điểm mới của Bộ luật hình sự 2015 so với Bộ luật hình sự
1999.
Kết quả rà soát, đánh giá các quy định của BLHS 1999 với Công ước của
Liên Hợp quốc về chống tham nhũng cũng cho thấy pháp luật hình sự của Việt
Nam chưa thực sự tương thích với các yêu cầu về hình sự hóa quy định tại Công
ước. Những vấn đề này đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLHS 1999 về tội phạm
4


chức vụ nhằm bảo đảm thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng về phòng,
chống tham nhũng, khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh phòng,
chống tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của
đất nước, cũng như đảm bảo thực thi các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết, tạo
cơ sở pháp lí cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế.
Vì vậy, Bộ luật hình sự 2015 đã kế thừa, phát huy và khắc phục những
thiếu sót của Bộ luật hình sự năm 1999. Trong đó tội tham nhũng đã được sửa
đổi, bộ sung nhiều nội dung mới, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh

phòng, chống tham nhũng, khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh
phòng, chống tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính
trị của đất nước.
1. Mở rộng phạm vi một số tội phạm tham nhũng ra cả khu vực tư.
Các quy định của BLHS 1999 mới chỉ dừng lại đối với các hành vi tham
nhũng trong khu vực công mà chưa ghi nhận về tội phạm tham nhũng trong khu
vực tư và vì vậy chưa có các quy định pháp luật tương ứng, kèm theo các biện
pháp xử lí hình sự đối với loại tội phạm này, mặc dù một số hành vi tương tự
xảy ra trong khu vực tư. Có thể thấy sự bất cập trong chính sách xử lí đối với
các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi do có sự phân biệt giữa khu
vực công và khu vực tư, thậm chí nhiều hành vi tương tự như tham nhũng
nhưng diễn ra trong khu vực tư thì không thể xử lí được.
Do tính chất nghiêm trọng và mức độ ảnh hưởng ngày càng lan rộng của
tham nhũng trong khu vực tư. Công ước chống tham nhũng (UNCAC) khuyến
nghị các quốc gia thành viên cần thiết phải tăng cường các biện pháp đấu tranh
chống tham nhũng không chỉ trong lĩnh vực công mà trong cả lĩnh vực tư. Theo
quy định của UNCAC (Điều 21) thì các quốc gia cần áp dụng các biện pháp lập
pháp và các biện pháp cần thiết khác để hình sự hóa hối lộ trong khu vực tư,
theo đó, hối lộ trong khu vực tư gồm hai dạng hành vi tương tự như hối lộ trong
khu vực công là đưa hối lộ và nhận hối lộ
5


Bộ luật hình sự 2015 đã có những sửa đổi sau:
Một là, mở rộng nội hàm khái niệm tội phạm chức vụ để có thể bao gồm
cả các tội phạm về chức vụ trong khu vực tư. Cụ thể là mở rộng chủ thể thực
hiện tội phạm không chỉ là người có chức vụ, quyền hạn trong khi thực hiện
“công vụ” (đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống các cơ quan
Nhà nước), mà còn là người có chức vụ, quyền hạn trong khi thực hiện “nhiệm
vụ” (tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước) (Điều 352 BLHS 2015).

Hai là, BLHS 2015 giới hạn phạm vi các tội phạm về chức vụ trong khu
vực ngoài nhà nước chỉ với 4 tội danh: Tội tham ô tài sản, Tội nhận hối lộ, Tội
đưa hối lộ và Tội môi giới hối lộ. Cụ thể: khoản 6 Điều 353 Tội tham ô tài sản,
quy định “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài
nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lí theo quy định tại Điều này”; khoản 6
Điều 354 Tội nhận hối lộ, quy định “Người có chức vụ, quyền hạn trong các
doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lí theo quy
định tại Điều này”.
2. Sửa đổi, bổ sung cấu thành cơ bản của tội nhận hối lộ.
Theo Khoản 2 Điều 15 UNCAC quy định yếu tố khách quan bắt buộc
trong cấu thành tội nhận hối lộ là lợi ích không chính đáng mà người thực hiện
công vụ, nhiệm vụ nhận được có thể dành cho chính bản thân công chức hoặc
cho người khác.
Để đáp ứng yêu cầu của công ước, khoản 1 Điều 354 Tội nhận hối lộ sửa
đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ yêu cầu này, cụ thể là: “Người nào lợi
dụng chức vụ, quyền hạn... nhận hoặc sẽ nhận bất kì lợi ích nào sau đây cho
chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc cho tổ chức khác...”

6


3. Tăng mức định lượng về giá trị tiền tài sản tham ô, chiếm đoạt, của
hối lộ
Bộ luật hình sự 1999 có quy định về giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác là một trong những tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách
nhiệm hình sự cơ bản của hầu hết các tội phạm về chức vụ. Tuy nhiên, có thể
thấy BLHS 1999 chưa có sự phân hóa phù hợp về giá trị tài sản giữa các khung
trong một điều luật cụ thể, chưa bảo đảm mức độ tương xứng giữa giá trị tài sản
và mức hình phạt trong khung, cũng như chưa phù hợp với sự phát triển mới về
kinh tế - xã hội và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Để phù hợp với

thực tiễn xử lí loại tội phạm này, phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh
tế, đồng thời nhằm cá thể hóa trách nhiệm hình sự, bảo đảm mức độ tương xứng
giữa hình phạt với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội khi căn
cứ vào giá trị tiền, tài sản tham ô, của nhận hối lộ hoặc thu lợi bất chính, BLHS
2015 đã nâng mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tại các điều khoản có liên
quan.
BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung mức định lượng giá trị tiền, tài sản đối với
nhóm tội liên quan đến hối lộ: nâng giá trị tiền, tài sản là căn cứ truy cứu trách
nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 các Điều 345 tội nhận hối lộ, Điều 364 tội
đưa hối lộ, Điều 365 tội môi giới hối lộ từ “hai triệu đồng đến dưới mười triệu
đồng” lên “từ hai triệu đồng đến dưới một trăm triệu đồng”; tại khoản 2 các
điều nói trên “từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng” lên “từ một
trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”; tại khoản 3 các điều nói trên
“từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng” lên “từ năm trăm triệu
đồng đến một tỉ”; tại khoản 4 các điều nói trên “từ ba trăm triệu đồng trở lên”
lên “từ một tỉ đồng trở lên”.

7


4. Bổ sung việc xử lí hình sự đối với hành vi hối lộ công chức nước
ngoài, công chức các tổ chức quốc tế công.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nhiều quốc gia trên thế
giới, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ đã và đang đóng một vai trò
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
thông qua các hoạt động hợp tác, hỗ trợ, viện trợ, tài trợ... Việc các cá nhân, tổ
chức trong nước thực hiện việc hối lộ công chức của Chính phủ, cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp nước ngoài để dành được lợi thế kinh doanh, đầu tư quốc tế,
vay vốn, sử dụng vốn ODA là hoàn toàn có thể xảy ra. Điều này cũng đã được
chứng minh qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên do

BLHS 1999 chưa có quy định về hành vi hối lộ công chức nước ngoài hoặc
công chức của tổ chức quốc tế công nên việc xử lí gặp nhiều khó khăn. Để đảm
bảo sự cạnh tranh lành mạnh, sự công bằng trong xã hội và giữ gìn quan hệ với
các nước cũng như nhằm bảo đảm sự phù hợp với yêu cầu của UNCAC, BLHS
2015 đã bổ sung chính sách sử lí đối với hành vi đưa hối lộ công chức nước
ngoài, công chức tổ chức quốc tế công tại khoản 6 Điều 364 như sau: “Người
nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức
quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà
nước cũng bị xử lí theo quy định tại Điều này”.
5.Mở rộng nội hàm “của hối lộ” tại các điều khoản liên quan.
Theo như quy định của BLHS 1999 thì “của hối lộ” trong cấu thành tội
phạm liên quan như đưa hối lộ, nhận hối lộ,…phải là tiền, tài sản hoặc lợi ích
vật chất khác có thể quy giá trị ra tiền được. Nhưng trên thực tế, trong quá trình
đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy bên cạnh việc hối lộ bằng tiền và lợi
ích vật chất thì còn có lợi ích về tinh thần bao gồm nhiều hình thức khác nhau
có thể mang lại giá trị về mặt tinh thần cho người nhận hối lộ ( ví dụ như tình
dục, vị trí, việc làm….) cũng là một cách để các đối tượng sử dụng để hối lộ
nhằm đạt được mục đích của mình
8


Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn cũng như đảm bảo thực thi UNCAC, BLHS
2015 đã bổ sung “lợi ích phi vật chất” vào các cấu thành định tội đối với tội
nhận hối lộ; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác
để trục lợi; tội đưa hối lộ; tội môi giới hối lội và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với
người có chức vụ quyền hạn để trục lợi.
6. Bổ sung cấu thành tăng nặng định khung hình phạt và bổ sung các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm tham nhũng.
Quy định của BLHS 1999 về các nhóm tội phạm cụ thể khác, các quy
định về tội phạm tham nhũng còn nhiều hạn chế, dấu hiệu định tội, định khung

của nhiều tội chưa rõ ràng cụ thể, nhiều tình tiết có tính chất “định tính” gây
khó khăn cho việc áp dụng để xử lí tội phạm. Hơn nữa, một số quy định về tội
phạm còn quá đơn giản, chưa dự liệu được hết các trường hợp phạm tội có tính
nghiêm trọng hơn, do đó chỉ thiết kế một hoặc hai khung hình phạt. Để bảo đảm
tính minh bạch của các quy định, bảo đảm cá thể hóa trách nhiệm hình sự cũng
như tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất áp
dụng, BLHS 2015 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng: Cụ thể hóa các tình tiết định
tính “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng”, bổ sung nhiều tình tiết tăng nặng định khung hình phạt
và bổ sung các tình tiết.
Ví dụ trong tội tham ô (Điều 353): Bổ sung các tình tiết tăng nặng định
khung trách nhiệm hình sự tại khoản 2:
“đ) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền
phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự
phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên
tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn”;
“e) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới
3.000.000.000 đồng”;
9


“g) Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động trong cơ quan, tổ chức”.
Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại khoản
3: “b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000
đồng”;
“c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”;
“d) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng
hoạt động”.
C.


KẾT LUẬN

BLHS 2015 đã góp phần hoàn thiện các quy định về tội phạm tham nhũng,
đáp ứng được những yêu cầu thực tế của đời sống xã hội và những sửa đổi, bổ
sung về tội phạm tham nhũng đã phù hợp với yêu cầu của UNCAC. Qua đó góp
phần tích cực vào công cuộc đấu tranh ngăn ngừa và phòng chống tội phạm
tham nhũng có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, BLHS 2015 vẫn chưa có các quy định
để giải quyết vấn đề chủ thể của tội phạm tham nhũng là pháp nhân và chưa
hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Nxb. Lao Động.
2.Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, Nxb. Lao Động.
3.Luật phòng, chống tham nhũng năm 2012, Nxb. Lao Động.
4.Công ước của Liên hợp quốc vê phòng, chống tham nhũng
năm 2003.

11



×