Lời mở đầu
Trước đây, Pháp lệnh thi hành án dân sự (PLTHADS) năm 2004 không quy
định về các biện pháp bảo đảm thi hành án (BPBĐTHA). Năm 2008, Luật thi hành án
dân sự (LTHADS) được ban hành và đã giành hẳn Mục 1 Chương IV để quy định vể
các BPBĐTHA, điều này cho thấy rõ tính cần thiết và quan trọng của các biện pháp
này đối với công tác thi hành án. Một bản án, quyết định của Tòa án có được thi hành
trên thực tế hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc đương sự có điều kiện thi hành án
không. Tuy nhiên, khi đương sự có điều kiện thi hành án (có tài sản) thì chưa hẳn điều
kiện đó sẽ được thi hành, nếu pháp luật không có các biện pháp bảo đảm. Vì họ có thể
sẽ tẩu tán, hủy hoại tài sản mà họ đang có trước khi chấp hành viên tiến hành các biện
pháp cưỡng chế. Do đó, việc quy định BPBĐTHA là hết sức cần thiết. Nhận thức
được vai trò của BPBĐTHA trong công tác thi hành án dân sự, với mong muốn tìm
hiểu thêm về biện pháp này, em đã quyết định chọn đề tài số 15: “ Điểm mới của Luật
thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”.
Dù đã cố gắng, nhưng chắc hẳn bài viết còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý
để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Nội dung
I. Khái niệm và ý nghĩa biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Chúng ta có thể hiểu BPBĐTHA là là biện pháp pháp lí đặt tài sản của người
phải THA trong tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn
việc người phải THA tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ THA
và đôn đốc họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ THA của mình do chấp hành viên áp
dụng trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS.
2. Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Việc áp dụng BPBĐTHA có các ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, ngăn chặn người phải THA tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc
THA nên bảo đảm được hiệu lực của bản án, quyết định, quyền, lợi ích hợp pháp của
người được THA và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, đốc thúc người phải THA tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình. Bởi
vì, khi đã áp dụng BPBĐTHA thì tài sản của người phải THA đã bị đặt trong tình
trạng bị hạn chế hoặc bị cấm sử dụng, định đoạt, do vậy, họ không thể tẩu tán, hủy
hoại tài sản hoặc trốn tránh việc THA và giải pháp có lợi hơn cả đối với họ là tự
nguyện thi hành các nghĩa vụ của mình được xác định trong bản án, quyết định được
đưa ra thi hành.
Thứ ba, việc áp dụng BPBĐTHA dân sự là tiền đề, là cơ sở cho việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế THADS sau này, bảo đảm hiệu quả của việc THADS. Sau khi bị
áp dụng các BPBĐTHA dân sự nếu người phải THA không tự nguyện thi hành thì cơ
quan THADS sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS nhằm buộc người phải
THA phải thực hiện các nghĩa vụ của họ. Các tài sản của người phải THA đã bị đặt
trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt hoặc bị cấm định đoạt trước đây
sẽ được xử lý để THA.
II. Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự
Các BPBĐTHA được quy định từ Điều 66 đến điều 69 Mục 1 Chương IV
LTHADS. Đây là những quy định hoàn toàn mới so với những quy định trong pháp
Luật thi hành án dân sự từ trước tới nay. Để kịp thời khắc phục những bất cập và tạo
hành lang pháp lý cho chấp hành viên cơ quan THA thực thi nhiệm vụ. Luật THA đã
bổ sung những quy định về BPBĐTHA thành một mục (Mục I chương IV), gồm
những biện pháp sau: Phong tỏa tài khoản; Tạm giữ tài sản, giấy tờ và tạm dừng việc
đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản của người phải thi hành án (quy
định tại Điều 66).
Đây là những cơ sở pháp lý đầu tiên để chấp hành viên tiến hành những hoạt
động THA nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh
việc THA của người phải THA, đảm bảo các bản án, quyết định được thi hành một
cách triệt để và hiệu quả. Để thực hiện các BPBĐTHA, LTHADS quy định chấp hành
viên có quyền chủ động áp dụng các BPBĐTHA khi xét thấy cần thiết phải ngăn chặn
việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA hoặc trong trường hợp có văn bản
yêu cầu áp dụng các BPBĐTHA của đương sự (có thể yêu cầu của người được THA,
cũng có thể là yêu càu của người phải THA). Đồng thời, LTHADS còn quy định rõ,
thủ tục, trình tự đối với từng BPBĐTHA, cụ thể như sau:
1. Biện pháp phong tỏa tài khoản
Biện pháp phong tỏa tài khoản thì trước đây được quy định là một biện pháp
cưỡng chế (theo khoản 3 Điều 37 PLTHADS năm 2004). Tuy nhiên, theo tôi quy định
như vậy là chưa hợp lý. Thứ nhất, nó không phản ánh đúng với bản chất của việc
phong tỏa tài khoản. Vì đây thực chất mới chỉ là biện pháp bảo đảm, chưa phải là biện
pháp xử lý tài sản để THA. Thứ hai, về mặt pháp lý nó có sự mâu thuẫn, vì cùng một
đối tượng là khoản tiền trong tài khoản lại có thể bị áp dụng hai biện pháp cưỡng chế.
Đó là biện pháp phong tỏa tài khoản và biện pháp khấu trừ tài khoản được quy định tại
khoản 1 Điều 37 PLTHADS. Vì vậy, LTHADS đã tách hai biện pháp này thành một
biện pháp bảo đảm và một biện pháp cưỡng chế là hoàn toàn hợp lý.
Theo quy định tại Điều 67 LTHADS, chấp hành viên áp dụng biện pháp này
trong trường hợp có căn cứ khẳng định người phải THA đang có tiền trong một tài
khoản nhất định (thông tin về tài khoản, về số tiền trong tài khoản có thể do đương sự
cung cấp hoặc do chấp hành viên xác định). Với mục đích nhằm ngăn chặn việc tẩu
tán tiền trong tài khoản của người phải THA thì chấp hành viên có thể ra ngay quyết
định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải THA ở bất kỳ giai đoạn
nào của quá trình THA. Khi ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên không
phải thông báo trước cho đương sự mà chỉ cần giao chơ cơ quan, tổ chức đang quản lý
tài khoản của người phải THA để thực thi. Khi giao quyết định phong tỏa tài khoản,
chấp hành viên phải lập biên bản và yêu cầu cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản
của người phải THA phải thực hiện ngay việc phong tỏa tài khoản trên. Hết thời hạn
05 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên phải ra quyết
định cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải THA
được quy định tại khoản 1 Điều 71 LTHADS.
Nếu như trước đây, theo PLTHADS năm 2004, chấp hành viên chỉ được ra
quyết định cưỡng chế nói chung và cưỡng chế bằng biện pháp phong tỏa tài khoản nói
riêng khi đã hết thời hạn tự nguyện mà người phải THA không tự nguyện THA hoặc
trong trường hợp cần ngăn chặn người phải THA có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản
hoặc trốn tránh việc THA (theo quy định tại khoản 2 Điều 7 PLTHADS năm 2004).
Theo đó, chấp hành viên chỉ được áp dụng khoản 2 Điều 7 PLTHADS khi chứng minh
được người phải THA đang có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc
THA. Trên thực tế, việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải THA được thực
hiện một cách khá dễ dàng và nhanh chóng trong “tích tắc”. Nhưng để chứng minh
được việc đương sự đang chuẩn bị tẩu tán hoặc có hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản
thì là một việc làm rất khó. Cho nên, việc áp dụng khoản 2 Điều 7 PLTHADS năm
2004 để ra quyết định cưỡng chế “phong tỏa tài khoản” của người phải THA trong
thời gian tự nguyện THA đã gặp không ít khó khăn như không được sự đồng tình ủng
hộ của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng cấp, người phải THA khiếu kiện, đòi
bồi thường vì cho rằng quyết định phong tỏa tài khoản của chấp hành viên đã gây ra
những tổn hại lớn trong hoạt động kinh doanh của người phải THA, họ cho rằng họ
không có dấu hiệu trốn tránh trách nhiệm THA vì đang trong thời gian tự nguyện thi
hành…Mặt khác, Điều 34 PLTHADS năm 2004, quy định “Các quyết định, giấy báo,
giấy triệu tập về thi hành án phải được thông báo cho người phải thi hành án, người
được thi hành án…” không loại trừ trường hợp nào như quy định tại khoản 2 Điều 39
và khoản 1 Điều 66 LTHADS “Chấp hành viên không phải thông báo trước cho
đương sự quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án” do đó, việc tẩu tán tài
sản còn có thể diễn ra ngay sau khi người phải THA nhận được thông báo quyết định
cưỡng chế phong tỏa tài khoản của chấp hành viên. Do đó, đến thời điểm tổ chức
cưỡng chế (yêu cầu cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản đó thực hiện việc phong
tỏa tài khoản) thì số tiền trong tài khoản của người phải THA đã không còn. Rõ ràng,
biện pháp cưỡng chế “phong tỏa tài khoản” được quy định tại khoản 3 Điều 37
PLTHADS dường như không đem lại hiệu quả trong công tác THADS.
LTHADS đã loại bỏ biện pháp cưỡng chế này và chuyển sang nhóm các
BPBĐTHA. Biện pháp bảo đảm này được sửa đổi theo hướng thay đổi điều kiện áp
dụng và thủ tục tiến hành, cụ thể như sau: Theo quy định tại khoản 1 Điều 66
LTHADS “Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc yêu cầu đương sự áp dụng các
biện pháp bảo đảm thi hành án”. Chỉ cần mục đích kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tiền
(dưới mọi hình thức) trong tài khoản của người phải THA, chấp hành viên được quyền
ra ngay quyết định phong tỏa tài khoản trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình THA.
Về thủ tục, quyết định này được giao ngay cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài
khoản của người phải THA để thi hành. Để đảm bảo ngăn chặn kịp thời, quyết định
này không phải thông báo trước cho đương sự. Việc không phải thông báo trước cho
đương sự sẽ hạn chế được mọi hành vi tẩu tán tiền đang có trong tài khoản của người
phải THA. Có thể nói, những quy định về biện pháp bảo đảm “phong tỏa tài khoản”
của người phải THA trong LTHADS rất tiến bộ, có tính khả thi cao và phù hợp với
công tác THADS. Những quy định này sẽ có khả năng ngăn chặn được mọi hành vi
tẩu tán tiền trong tài khoản của đương sự. Đó cũng là lý do LTHADS đã chuyển biện
pháp “phong tỏa tài khoản” từ một biện pháp cưỡng chế sang nhóm các BPBĐTHA.