Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.7 KB, 14 trang )

Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

A. LỜI MỞ ĐẦU
Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt, nó hiện hữu
trong nhiều lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự. trong
khuôn khổ của tố tụng hình sự, quyền này không phổ biến, không rộng lớn,
không diễn ra hàng ngày hàng giờ như các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi
trường,… nhưng có thể nói đây là quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương nhất
và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được
sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi mức độ ảnh
hưởng của vấn đề này là rất lớn nên đặt ra một yêu cầu cấp thiết trong quá trình
xây dựng bộ luật tố tụng hình sự phải xem xét thật kĩ lưỡng và chú trọng hơn
nữa để không vi phạm vào quyền con người của các cá nhân khi tham gia vào
hoạt động tố tụng hình sự nhất là các cá nhân là người bị buộc tội, bởi một khi
có sự vi phạm về quyền con người xảy ra trong quá trình tố tụng thì đây là nhóm
đối tượng bị tác động nặng nề nhất, thậm chí họ có thể bị tước đi quyền được
sống. Thấy được sự cần thiết phải vấn đề, bộ luật tố tụng hình sự 2015 ra đời đã
có những điểm mới, sửa đổi, bổ sung tiến bộ hơn so với bộ luật tố tụng hình sự
2003 nhằm đảm bảo hơn quyền con người của các cá nhân tham gia tố tụng nhất
là các cá nhân là người bị buộc tội được chú trọng hơn rất nhiều.
Để nhìn nhận một cách chi tiết hơn những điểm mới, điểm tiến bộ trong
các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự mà BLTHS 2015 so với BLTTHS 2003,
nhóm 4 sẽ nêu một cách cụ thể nhất về sự thay đổi này thông qua đề tài “Điểm
mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội”.
Ở phần bài viết này, nhóm sử dụng phương pháp phân tích luật kết hợp với
phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra những điểm mới, điểm tiến bộ trong
quy định của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003 nhằm giải quyết tốt nhất vấn
đề đặt ra.

1



Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về quyền con người:
Hiến pháp 2013 của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu
lực ngày 1/1/2014 đã ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản cuả
công dân thành một chương độc lập, măt khác bản Hiến pháp mới này đã có
những điểm tiến bộ hơn những bản Hiến pháp trước đây về chế định này. Điều
14 Hiến pháp quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định quyền sống; quyền hưởng thụ
các giá trị văn hóa, nghiên cứu và thụ hưởng các kết quả khoa học; quyền xác
định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao
tiếp; quyền được sống trong môi trường trong lành….
Hiến pháp năm 2013 còn khẳng định mạnh mẽ mọi công dân Việt Nam đều
quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội; được nhà nước bảo hộ, không thể bị trục xuất, giao nộp
cho nhà nước khác. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực,
truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết
định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân
dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định.
Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định
của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử
nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử
nghiệm.
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá

nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Mọi công
dân có quyền có nơi ở hợp pháp, có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và việc
khám xét chỗ ở do luật định; có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có
quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định pháp luật; có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ
2


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Người bị buộc tội phải được Tòa án
xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai và được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa cho mình.
Quyền sở hữu tư nhân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp,
phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài
sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được
chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của
luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. Mọi người có quyền tự do kinh

doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Công dân có quyền
được bảo đảm an sinh xã hội; có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm
và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc
công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt
đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.
Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc
sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh,
khám bệnh, chữa bệnh. Công dân có quyền học tập, có quyền nghiên cứu khoa
học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt
động đó.
Sự ra đời cả BLTTHS 2015 trên nguyên tắc không được trái với Hiến pháp
và cũng nhằm bảo đảm hơn nữa quyền con người của mỗi cá nhân đã có những
đổi mới phù hợp với Hiến pháp, làm nên sự tiến bộ cao hơn so với BLTTHS
2003.
II. Điểm mới về quyền con người của người bị buộc tội được quy định ở
BLTTHS 2015.
Lần đầu tiên thuật ngữ “quyền con người” được sử dụng và được quy định
trong BLTTHS 2015 thay vì chỉ quy định chung chung như ở BLTT2003, cụ
3


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

thể: tại điều 8 BLTTHS 2015 quy định về “Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân” trong khi đó điều 4 BLTTHS
2003 quy định về “Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân”. Như
vậy, BLTTHS mới ban hành đã quy định mang tính chú trọng hơn đến quyền
con người của cá nhân mà ở luật 2003 chưa khái quát được. Ngoài ra, quy định
tại điều này cũng tạo nên sự công bằng trong việc hưởng các quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp giữa các cá nhân với nhau bằng việc thay từ “công

dân” thành từ “cá nhân”, điều này giúp cho những cá nhân không phải là công
dân cũng được hưởng đầy đủ những quyền này. Sự đổi mới về quyền con người
được thể hiện ngay trong nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, khẳng định sự cần
thiết phải chú trọng nhằm bảo đảm quyền con người được thực thi hiệu quả.
Có thể khái quát những điểm mới ấy thông qua các nhóm quyền cụ thể sau:
1. Quyền được đối xử bình đẳng:
Quyền này được quy định cụ thể tại Hiến pháp 2013 như sau:
-

Điều 16 quy định: 1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; 2. không ai bị
phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
Khoản 1, Điều 26 quy định: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước
có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
Dựa trên những quy định này, BLTTHS 2015 ra đời đã khắc phục những
thiếu sót của BLTTHS 2003 để hợp hiến, điều đó thể hiện:
a. Bình đẳng trước pháp luật.
Theo điều 5 BLTTHS 2003 thì “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm
tội đều bị xử lý theo pháp luật.”, theo đó tất cả công dân đều bình đẳng và như
nhau khi đứng trước pháp luật. Song, nếu theo như quy định này thì ta cần làm
rõ ở đây hai vấn đề:

-

Thứ nhất: công dân ở đây là gồm những ai? Là công dân Việt Nam hay bao gồm
cả công dân Việt Nam và công dân nước ngoài?
Thứ hai: nếu theo như quy định trên thì trường hợp người không quốc tịch họ có
được bình đẳng trước pháp luật như những “công dân” hay không? Nếu có, thì
tại sao pháp luật lại không liệt kê họ và nếu không có thì họ sẽ được hưởng

những quyền nào và không được hưởng những quyền nào? Hay chúng ta sẽ xem
xét họ là một trường hợp đặc biệt để xem xét?
4


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
-

Thứ ba: với sự phát triển về kinh tế, sự hội nhập về văn hóa thì tư tưởng người
Việt Nam ngày nay cũng đã có những sự thay đổi theo hướng thoáng hơn, điển
hình đó là sự thừa nhận giới tính thứ ba và những người chuyển giới. Vậy ở
BLTTHS 2003 quy định đó là “không phân biệt nam, nữ”, vậy, còn những
người có giới tính thứ ba, những người chuyển giới khi đứng trước pháp luật có
phải quyền lợi của họ sẽ bị xem nhẹ hơn so với những người khác?
Để khắc phục hai vấn đề này, BLTTHS 2015 đã có những thay đổi trong
quy định, cụ thể theo điều 8 BLTTHS 2015 quy định như sau: “TTHS được tiến
hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ
người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.” Ta có thể thấy sự tiến bộ trong
quy định này và nó đã giải quyết được những vấn đề còn hạn chế mà BLTTHS
2003 còn mắc phải.

-

-

Luật mới đã thay từ “công dân” thành từ “mọi người” thể hiện tinh thần coi
trọng sự bình đẳng giữa người với người, không có sự phân biệt giữa công dân
Việt Nam với công dân nước ngoài hay những người không quốc tịch. Phù hợp
với nguyên tắc quốc tế về đối xử quốc gia.

Ngoài ra, việc quy định sự bình đẳng không phân biệt giới tính thể hiện cái nhìn
rất mới trong tư tưởng của các nhà làm luật, phù hợp với xu thế hiện nay. Đồng
thời, nó cũng có tác động mạnh mẽ đến những người có giới tính thứ ba, hay
những người chuyển giới củng cố niềm tin vào nền pháp luật Việt Nam.
b. Bình đẳng trong tranh tụng trong xét xử
Đây là một điểm mới của BLTTHS 2015 mà ở trong BLTTHS 2003 chưa
có quy định. Theo đó, quyền này được quy định như sau: “Trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, người bị buộc tội có quyền bình đẳng trong việc đưa
ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan
của vụ án.”
Nếu theo luật cũ thì việc đưa ra và đánh giá chứng cứ chỉ thuộc thẩm quyền
của người bào chữa và các cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng bây giờ quyền này
còn được trao cho người bị buộc tội. Đây là một quyền quan trong dành cho
người bị buộc tội. Nó đảm bảo cho người bị buộc tôi được đưa ra những chứng
cứ nhằm bảo vệ cho bản thân đồng thời nói lên ý kiến đánh giá của mình về các
chứng cứ khác tại phiên tòa. Và tất cả những chứng cứ và đánh giá của người bị
buộc tội cũng được coi là một trong những căn cứ để Tòa án có thể đưa ra phán
quyết cuối cùng. Quy định này thể hiện được sự khách quan trong quá trình
5


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

tranh tụng, đảm bảo sự công bằng cho người bị buộc tội, giúp họ có thể được
giảm nhẹ tội danh hay chứng minh sự trong sạch của mình. Đồng thời, việc để
người bị buộc tội đưa ra đánh giá về các chứng cứ có thể hạn chế được trường
hợp có người ngụy tạo chứng cứ để nhằm buộc tội người bị buộc tội.
2. Quyền được sống của người bị buộc tội.
Quyền được sống của cá nhân được quy định tại Điều 19, Hiến pháp
2013: Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.

Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.
BLTTHS 2015 có hiệu lực ngày 1/7/2016 quy định việc không thi hành án
tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a)
Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; b) Người đủ 75
tuổi trở lên; c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà
sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối
lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý
tội phạm hoặc lập công lớn.
Để phù hợp với quy định của luật nội dung và nhằm đảm bảo hơn nữa
quyền được sống của mọi cá nhân, BLTTHS 2015 đã bổ sung quy định mới tại
khoản 2 điều 367 “ Khi có căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật hình
sự thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm không ra quyết định thi hành án tử
hình và báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để xem xét chuyển hình phạt
tử hình thành tù chung thân cho người bị kết án”. Quy định này dẫn chiếu đến
điều 40 BLHS mới đã tạo nên sự khác biệt so với BLTTHS 2003 bởi đây cũng
là một điểm tiến bộ được ghi nhận mới nhằm bảo đảm quyền được sống và thể
hiện tính nhân đạo trong thi hành án hình sự của nước ta.
3. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, tài sản.
Nhóm quyền này được quy định cụ thể:
-

-

Khoản ,1 Điều 20, Hiến pháp 2013 : Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị
tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Khoản 2, Điều 20, Hiến pháp 2013: Không ai bị bắt nếu không có quyết định
của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân,

trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.
6


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
-

-

Khoản 1, Điều 21, Hiến pháp 2013: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự,
uy tín của mình.
Khoản 2, khoản 3, Điều 22, Hiến pháp 2013: Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được
người đó đồng ý (khoản 2); Việc khám xét chỗ ở do luật định (khoản 3).
a. Bất khả xâm phạm về thân thể.
Đây là quyền thiêng liêng của con người không có bất cứ một ai có quyền
xâm phạm .Theo quy định tại điều 6 BLTTHS 2003, pháp luật nghiêm cấm mọi
hình thức truy bức, nhục hình.Và đến khi BLTTHS 2015 ra đời, nó đã kế thừa
và phát triển điều luật này.Đồng thời nó đề cao tầm quan trọng của quyền này
bằng việc khẳng định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể” điều 10, BLTTHS 2015.
Ngoài ra, tại điều 10 BLTTHS 2015 còn quy định: “Nghiêm cấm tra tấn,
bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, tính mạng, sức khỏe của con người.”. Việc quy định này thể hiện sự tôn
trọng của pháp luật đối với quyền thiêng liêng này của con người. Không chỉ có
bức cung, nhục hình mới bị nghiêm cấm mà bất kỳ hình thức đối xử nào mà nó
xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của con người đều bị pháp luật cấm và trừng
trị nghiêm minh.Đảm bảo cho người bị buộc tội sẽ không bị bất cứ sự đe dọa
nào trong quá trình tham gia tố tụng gây ảnh hưởng đến sự chính xác, minh bạch
trong lời khai của mình.

Một quy định mới hoàn toàn so với BLTTHS 2003 đó là việc quy định tại
Khoản 2, Điều 194 về khám xét người “Việc khám xét không được xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị khám xét.
Bảo đảm quyền nhân thân, quyền tài sản của con người, đảm bảo tuân thủ
nguyên tắc cơ bản của bộ luật này và theo như tinh thần Hiến pháp 2013.
Căn cứ Điều 419 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Chỉ áp dụng biện pháp
ngăn chặn, biện pháp áp giải và các biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết. Đây là một quy định
hoàn toàn mới so với BLTTHS 2003 nhấn mạnh chỉ trong những trường hợp
được xem à cần thiết cơ qua có thẩm quyền mới có quyền áp dụng biệp pháp
ngăn chặn, biện pháp áp giải và biện pháp cưỡng chế đối với người chưa thành
niên, nhằm tránh sự lạm quyền của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tố
tụng vi phạm đến quyền tự do và bất khả xâm phạm của cá nhân.
7


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

b. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Nếu ở BLTTHS 2003, chỉ có công dân mới được bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản (Điều 7, BLTTHS 2003).Thì ở BLTTHS
2015, luật này được mở rộng với tất cả mọi người, “Mọi người có quyền được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành
vi vi phạm đều sẽ bị xử lý theo pháp luật” (điều 11, BLTTHS 2015). Bên cạnh
đó, tại điều 11, BLTTHS 2015 còn quy định thêm, “công dân Việt Nam không
thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.” Đây là điểm mới mà ở BLTTHS
2003 không hề có, nó thể hiện sự bảo hộ của nhà nước đối với người bị buộc tội
là công dân Việt Nam.
Ngoài ra, nội dung này được thể hiên thong qua quá trình hỏi cung, theo
khoản 4, Điều 183, BLTTHS 2015: “Kiểm sát viên hỏi cung bị can trong trường

hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc
điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.”
Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi của bị can thông qua việc tham gia, kiểm
sát của Viện kiểm sát trong quá trình hỏi cung.
Khoản 6, Điều 183, BLTTHS 2015: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam
giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng.”
Những quy định này được thêm vào BLTTHS 2015 nhằm để tạo sự công
khai, khách quan và minh bạch hơn trong quá trình hỏi cung người bị buộc tội.
Bảo vệ quyền và lợi ích cho họ và tránh trường hợp cơ quan điều tra dùng bức
cung và dùng nhục hình.Đồng thời bảo vệ người hỏi cung bị vu cáo.
Thực tiễn cho thấy, việc bức cung xảy ra rất nhiều đó cũng chính là nguyên
nhân của hàng loạt vụ oan sai ở Việt Nam. Điển hình làvụ án oan sai đối với ông
Nguyễn Thanh Chấn, ông đã bị ép cung bởi 6 điều tra viên. Ông bị điều tra viên
tay cầm dao, lăm lăm đe doạ, bị dùng dép đánh vào 2 mang tai… để bắt ông
phải nhận tội.
Vì quá trình lấy lời khai là khép kín, không có sự giám sát bởi cơ quan có
thẩm quyền, người được nhà nước trao quyền hay các công cụ thông tin ghi âm,
ghi hình nên đã khiến cho việc hỏi cung không được diễn ra một cách minh
8


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

bạch. Đẫn đến tình trạng vì một số lý do nào đó mà những người được nhà nước
giao nhiệm vụ hỏi cung đã lạm dụng quyền lực bắt người bị buộc tội phải đưa ra
những lời khai không chính xác, nhận tội về bản thân trong khi bản thân họ lại

không thực hiện hành vi tội phạm đó, nhắm mục đích kết thúc vụ án một cách
nhanh chóng.
Do đó, để tránh những trường hợp như thế này xảy ra trong thực tế nên
BLTTHS 2015 đã quy định thêm điểm mới tiến bộ nhằm bảo vệ tính mạng và
sức khỏe của người bị buộc tội, từ đó, họ sẽ đưa ra những lời khai chính xác,
phục vụ cho quá trình điều tra và xét xử vụ án.
Trong quá trình xét xử, trong “trường hợp cần kiểm tra chứng cứ, tài liệu,
đồ vật liên quan đến vụ án hoặc khi bị cáo tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình,
HĐXX quyết định việc cho nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh liên quan tại phiên tòa.” - theo Điều 313, BLTTHS 2015. Đây là một
quy định mới của BLTTHS 2015.
Việc ghi âm, ghi hình trong hoạt động điều tra là thủ tục nhằm tăng cường
giám sát khách quan nhất. Về phía cơ quan điều tra sẽ buộc họ phải điều tra thận
trọng, khách quan, buộc những người tiến hành tố tụng và cơ quan tố tụng nâng
cao nghiệp vụ điều tra về kỹ năng và kỹ thuật hỏi cung từ đó hạn chế oan sai. Về
phía các luật sư, tài liệu từ ghi âm, ghi hình là bằng chứng để tham gia bào chữa
cho bị can, bị cáo. Về phía tòa án, đây cũng là chứng cứ để làm rõ chi tiết bị cáo
kêu oan thật sự hay là ngoan cố
4. Quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Theo BLTTHS 2003 thì không quy định như thế nào là người bị buộc tội,
tuy nhiên theo điểm đ, khoản 1, Điều 4 BLTTHS 2015 về khái niệm người bị
buộc tội bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Qua khái niệm
này, nếu đối chiếu lại với BLTTHS 2003 ta có thể hiểu người bị buộc tội bao
gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ở đây, người bị bắt không được đề cập tới
với vị trí người bị buộc tội theo BLTTHS 2003 vì ở bộ luật này chưa có quy
định về người bị bắt.
Khi tham gia xét xử, pháp luật về TTHS cho người bị buộc tội quyền bào
chữa, nó được quy định chung tại Điều 16, BLTTHS 2015 và được quy định cụ
thể tại các Điều 58, 59, 60, 61BLTTHS 2015. Vì ở BLTTHS 2015 có quy định
thêm về người bị bắt với tư cách là người bị buộc tội, nên đồng thời cũng cho họ

quyền bào chữa để họ có thể tự mình hay nhờ người khác bào chữa cho mình để
minh oan, bảo vệ sự trong sạch của mình hay giúp bản thân giảm bớt khung hình
9


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

phạt do hành vi của mình gây ra. Dù đây là quyền lợi họ được pháp luật cho
phép nhưng họ có thể lựa chọn sử dụng quyền này hoặc là không nếu trong
trường hợp họ xét thấy là không cần thiết.
Tuy vậy, trong một số trường hợp đặc biệt dù họ không có yêu cầu nhưng
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ định người bào chữa cho họ. Quy định này
nhằm bảo đảm quyền được bào chữa của họ, đảm bảo sự bình đẳng giữa họ và
những người tham gia tố tụng dân sự khác. Điều này được quy định tại khoản 2
Điều 57 BLTTHS 2003 và được BLTTHS 2015 kế thừa và bổ sung thêm quy
định tại Điều 76 với nội dung:
“Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc
người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
-

Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình
phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;

-

Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người
có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi”
So với BLTTHS 2003 thì ở BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm hai trường hợp
người bị buộc tội được chỉ định người bào chữa đó là đó là trường hợp “ Bị can,

bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là
20 năm tù” và trường hợp “tù chung thân”. Ta có thể nhận thấy, nhà nước đã có
cái nhìn quan tâm hơn đối với những người vi phạm các tội danh có mức hình
phạt cao, thể hiện sự nhân đạo của Nhà nước đối với những người bị buộc tội.
Nhận thấy, đối với những tội danh có mức án cao, thì nó có ảnh hưởng rất lớn
đến số phận không chỉ người bị buộc tội mà còn cả gia đình của họ. Cho nên
trong trường hợp này quyền được bào chữa của người bị buộc tội phải được đảm
bảo thực hiện nhằm giúp việc giải quyết vụ án có thể được xem xét, khai thác
một cách trọn vẹn nhất tất cả các khía cạnh của vụ án, tránh các trường hợp sai
phạm xảy ra, đồng thời đảm bảo các quyền của người bị buộc tội.
5. Một số quy định đặc biệt trong vụ án có người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
a. Người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi.
Theo Điều 302, BLTTHS 2003, khi tiến hành tố tụng đối với người phạm
tội là người chưa thành niên thì yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục
cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành
10


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

niên. Nhưng khi BLTTHS 2015 được ban hành, theo Điều 415, ngoài yêu cầu
trên thì còn thêm yêu cầu đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố,
xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, và nó k chỉ áp dụng riêng đối với
3 đối tượng được quy định tại Điều 302, BLTTHS 2003 mà nó phải được áp
dụng cho tất cả những người tiến hành tố tụng. Ta thấy, những vụ án có người
phạm tội dưới 18 tuổi là những vụ án có tính đặc thù riêng. Vì đây là độ tuổi
được xem là chưa có phát triển đầy đủ về nhận thức, đây cũng là độ tuổi bị ảnh
hưởng nhiều bởi yếu tố về tâm sinh lý. Cho nên, để giải quyết những vụ án này
cần có những kỹ năng chuyên môn, được đào tạo kỹ càng đồng thời cần sự khéo

léo trong quá trình hỏi cung, xét xử vụ án để có thể vừa giải quyết được vụ án
vừa không để ảnh hưởng đến sự phát triển, tâm sinh lý sau này của những người
phạm tội dưới 18 tuổi.
b. Quy định trong vấn đề xác định tuổi
Trong thực tế, không phải lúc nào cũng có thể xác định được tuổi của
những người bị buộc tội. Có nhiều trường hợp những người bị buộc tội bị mất
giấy tờ tùy thân và họ không thể biết hay không biết được ngày tháng năm sinh
của mình. Mà trong các vụ án có người buộc tội dưới 18 tuổi thì việc xác định
tuổi là một khâu vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến phán quyết cuối
cùng của hội đồng xét xử. Tuy nhiên ở BLTTHS 2003 có đề cập tới vấn đề này
nhưng nó lại k quy định phương thức xác định tuổi của người bị buộc tội dưới
18 tuổi. Khắc phục hạn chế của BLTTHS 2003, ở BLTTHS 2015 thì việc xác
định tuổi của người bị buộc tội đã được pháp luật quy định tại Điều 417: “Việc
xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định pháp luật; Trường
hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định
tuổi”.
Ta thấy, với cách xác định tuổi này thì pháp luật luôn bảo đảm điều kiện có
lợi nhất cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi. đảm bảo người bị buộc tội luôn được
hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ và chịu mức hình phạt nhẹ nhất.
c. Quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Căn cứ Khoản 1 Điều 422 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa.

11


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội


Trong khi đó khoản 1, Điều 305 BLTTHS 2003 quy định: Người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể
lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.
Như vậy, không chỉ người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi có
quyền tự bào chữa hoặc lựa chọn người bào chữa mà người bị buộc tội cũng có
quyền này. Đây là điểm mới nhằm bảo đảm quyền được bào chữa, quyền ngôn
luận của người bị buộc tội mà không phân biệt người đó đủ 18 tuổi hay chưa.
Điều này xuất phát từ việc người bị buộc tội là người biết rõ nhất về hành vi bị
buộc tội của mình và đây là nguồn chứng cứ quan trọng để hội đồng xét xử xem
xét một cách khách qua để giải quyết vấn đề.
6. Quyền đặc biệt đối với người bị nghi về năng lực trách nhiệm hình sự.
Khoản 2, Điều 448, BLTTHS 2015 quy định về điều tra đối với người bị
nghi về năng lực trách nhiệm hình sự: Khi tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra
phải bảo đảm có người bào chữa tham gia tố tụng từ khi xác định được người có
hành vi nguy hiểm cho xã hội mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Người đại diện của người đó
có thể tham gia tố tụng trong trường hợp cần thiết. Bổ sung cụm từ “hoặc bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi” vào nội
dung điều luật so với BLTTHS 2003 nhằm bảo đảm quyền lợi của người mắc
các bệnh trong trường hợp này vẫn được pháp luật xem xét và bảo hộ.
7. Các quyền khác.
Điều 31, Hiến pháp 2013 quy định:
-

-

Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định,

công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc
tuyên án phải được công khai.
Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
Dựa trên tinh thần của HP 2013, BLTTHS 2015 đã bổ sung những quy
định mới phù hợp nhằm bảo đảm quyền con người của ngươi bị buộc tội được
thực thi một cách tối ưu nhất, hạn chế tối đa sự xâm phạm có thể xảy ra.
a. Suy đoán vô tội.
12


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội

Tại điều 13, BLTTHS 2015: “Người bị buộc tội được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và
có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Khi không đủ và không
thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người
bị buộc tội không có tội”. Quy định này được làm rõ hơn so với BLTTHS 2003
Thể hiện sự tiến bộ và nhận đạo đề cao hơn nữa quyền con người, khắc phục
định kiến với người bị buộc tội, tạo điều kiện cho người bị buộc tội thực hiện
quyền bào chữa , cơ sở để thực hiện đúng đắn khách quan các hành vi tố tụng,
ngăn ngừa khả năng tiên liệu trước trong tố tụng hình sự.
b. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
Điều 14, BLTTHS 2015: “ Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối
với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình
sự quy định là tội phạm”.
Đây là quy định hoàn toàn mới, đảm bảo việc thực thi quy đinh tại khoản 3
điều 31 HP 2013 “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” đảm bảo sự công
bằng về mặt pháp lý đối với người bị buộc tội, người pham tội chỉ chịu trách

nhiệm pháp lý 1 lần đối với hành vi mà mình gây ra.
c. Phục hồi điều tra.
Quyền này được thể hiện thông qua khoản 2, Điều 235, Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 về phục hồi điều tra: Sau thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định
phục hồi điều tra, Cơ quan điều tra ngoài phải gửi quyết định này cho Viện kiểm
sát cùng cấp, còn phải gửi cho bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị
can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. BLLTTHS 2015 đã bổ sung thêm. Theo điều này thì BLTTHS tiến bộ
hơn ở chỗ bị can có quyền nhận được quyết định phục hồi điều tra, khi không
đồng ý với việc đình chỉ điều tra mà có lý do thì có quyền yêu cầu điều tra lại.
Điều này BLTTHS 2003 chưa quy định.

13


Điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
A.

KẾT LUẬN.

Quyền con người là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm và cần thiết phải
được tôn trọng của mỗi cá nhân mà nhất là đối với nhóm đối tượng người bị
buộc tội trong tố tụng hình sự. BLTTHS 2015 với những điểm tiến bộ trong
nhóm quyền này nói riêng đã cho thấy tiến trình lập pháp của nhà nước ta đã đề
cao hơn quyền con người. Với đề tài “điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm bảo
đảm quyền con người của người bị buộc tội” nhóm đã có một sự tiếp cận cụ thể
và chi tiết nhất các vấn đề được nêu ra.
Dưới góc độ nhìn nhận, đánh giá vấn đề của một nhóm sinh viên và thời
gian hạn chế nên vấn đề mà nhóm giải quyết có thể còn nhiều thiếu sót và chưa
triệt để, rất mong sự đóng góp ý kiến của cô và các bạn để đề tài này được hoàn

thiện hơn nữa.

14



×