Tải bản đầy đủ (.docx) (158 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn việt nam – chi nhánh hoàng mai – hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.16 KB, 158 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
---------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh
Mã ngành: 60340102
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM - CHI NHÁNH
HOÀNG MAI – HÀ NỘI

HỌC VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN ANH TUẤN
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐÌNH KIỆM

Hà Nội, Tháng 11 năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân.
Các số liệu và tài liệu là trung thực. Kết quả nghiên cứu trong luận văn này chưa
từng được công bố trong công trình nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả

Trần Anh Tuấn


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG




DANH MỤC SƠ ĐỒ


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là ngành kinh tế trọng điểm, là mạch máu của toàn bộ nền
kinh tế. Trong các NHTM, hoạt động tín dụng đã và đang là một trong những
hoạt động kinh doanh chính đem lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng. Ở
Việt Nam, tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng của các NHTM chiếm khoảng
70% đến 90% tổng thu nhập của ngân hàng. Nhưng hoạt động tín dụng cũng
tiềm ẩn nhiều rủi ro, đây là một loại rủi ro mà các NHTM phải đặc biệt quan
tâm, vì rủi ro tín dụng là nguyên nhân cản trở sự phát triển, ảnh hưởng lớn
đến hoạt động kinh doanh, làm suy giảm năng lực tài chính và khả năng cạnh
tranh của các ngân hàng. Trong một số trường hợp, rủi ro tín dụng dẫn đến sự
phá sản của ngân hàng, mặc dù vậy NHTM không thể loại bỏ hoàn toàn
RRTD mà chỉ có thể hạn chế ở mức độ nhất định. Hệ thống quản trị RRTD
của ngân hàng là thực hiện sứ mệnh đảm bảo cho ngân hàng luôn kiểm soát
rủi ro ở mức độ hợp lý có thể chấp nhận được và phù hợp với quy mô bản
chất kinh doanh tín dụng của ngân hàng để đạt được lợi nhuận cao nhất.
Trong những năm gần đây, do sự tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói
riêng đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Ở các ngân
hàng, tình hình thanh khoản căng thẳng, lợi nhuận giảm sút, nợ xấu tăng cao,
rủi ro tín dụng ngày càng phức tạp hơn về nguyên nhân, hình thức và phạm vi
tác động.
Ngoài ra, ở các ngân hàng việc tập trung quá nhiều vào hoạt động tín
dụng trong khi khả năng quản trị rủi ro tín dụng chưa cao, chưa có chính sách
tín dụng khoa học, chất lượng nguồn nhân lực còn yếu kém, hoạt động tín

dụng hiện nay còn phải chịu nhiều sự chi phối, điều chỉnh của hệ thống luật
pháp còn nhiều chồng chéo, không rõ ràng,... vì thế mà rủi ro tín dụng còn ở
mức cao.


Vì vậy việc tìm ra những giải pháp để hạn chế, phòng ngừa rủi ro
tíndụng thực sự cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng.
Qua mỗi thời kỳ chúng ta lại rút ra được những bài học mới cho mình, bổ
sung thêm vào kho tàng kiến thức vốn đã rất phong phú về rủi ro tín dụng.
Xuất phát từ những lý do trên và theo quy định của Viện Đại học mở,
tác giả đã chọn đề tài “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp
& Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Hoàng Mai – Hà Nội” để
nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong mấy năm trở lại đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài, như:
(1) Hoàng Minh Hà (2012), Luận văn “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Hà Nội”.
(2) Bùi văn Đại (2013), Luận văn“Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hạ Long”
(3) Đào Thị Huệ Chi (2013), Luận văn “Quản trị rủi ro tín dụng đối với
khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng TMCP Á châu – Chi nhánh Hà Nôi”
(4) Trần Duy Tân (2014), Luận văn “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Đại Dương – Chi nhánh Quảng Ninh”.
(5) Nguyễn Đại Dương (2015), Luận văn “Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Chi nhánh VID Public Bank thành phố
Hải Phòng giai đoạn 2016-2020.
(6) Trần Thị Việt Thạch (2016) Quản trị rủi ro tín dụng theo Hiệp ước
Basel 2 tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Ngoài ra, các tài liệu của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, như:

Basel 2 và Basel 3. Đây là tài liệu đang được các NHTM ở các nước trên thế
giới tìm hiểu, triển khai trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng; một số văn


bản của Ngân hàng nhà nước, Agribank có hiệu lực theo thời gian trình bày
trong luận văn.
Các đề tài nêu trên đã tập trung nghiên cứu tình hình quản trị rủi ro tín
dụng tại các NHTM cổ phần, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu về quản trị
rủi ro tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi
nhánh Hoàng Mai, đây là một Chi nhánh có đặc thù là một ngân hàng có
100% vốn nhà nước, giải pháp của các đề tài nêu trên về quản trị rủi ro tín
dụng có những điểm chưa phù hợp với thực tế hoạt động tín dụng tại Chi
nhánh Hoàng Mai, do đó tác giả đề tài đã tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng quản trị rủ ro tín dụng tại Chi nhánh Hoàng Mai, trên cơ sở đó nhằm đề
xuất một số giải pháp trong quản trị rủi ro tín dụng tại Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn - Chi nhánh Hoàng Mai phù hợp với điều kiện thực tế trong
hoạt động tín dụng của đơn vị.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng
ở các NHTM.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng ở
Ngân hàng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – Chi nhánh
Hoàng Mai. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động quản trị rủi ro tín dụng cho Chi nhánh Hoàng Mai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn về quản trị rủi ro tín dụng ở các NHTM nói chung Ngân
hàng NN & PTNT Việt Nam - Chi nhánh Hoàng Mai nói riêng.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Là nghiên cứu hoạt động tín dụng của
ngân hàng, xác định rủi ro và đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng để



đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi nhánh Hoàng Mai.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp
với các phương pháp truyền thống, bao gồm:
- Phương pháp thu thập tài liệu: tài liệu được thu thập là các giáo trình,
bài báo, các báo cáo của Ngân hàng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn - chi nhánh Hoàng Mai
- Phương pháp phân tích: phân tích các tài liệu thu thập được, phân tích
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn - chi nhánh Hoàng Mai
- Phương pháp thống kê: Để đánh giá sự tương quan giữa các biến số.
- Phương pháp đánh giá: Để rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế từ hoạt động quản trị rủi ro tín dụng ở Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi nhánh Hoàng Mai.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hoàng Mai.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị
rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam - Chi nhánh Hoàng Mai.


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Tổng quan rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại
1.1.1. Tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng thương mại
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 thì: Tín dụng ngân
hàng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động
để thoả thuận cấp tín dụng cho khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả (cả
gốc và lãi) bằng các nghiệp vụ cho vay chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo
lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác theo quy định của NHNN.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, tín dụng ngày càng
phát triển cả về nội dụng lẫn hình thức. Các quan hệ tín dụng ngày càng được
mở rộng hơn, ban đầu là quan hệ giữa các cá nhân với nhau, sau đó là giữa cá
nhân với tổ chức, tổ chức với tổ chức, quan hệ với nhà nước và cao nhất là tín
dụng quốc tế.
Trong quá trình phát triển lâu dài đó quan hệ tín dụng đã hình thành và
phảt triển qua các hình thức sau:
- Tín dụng nặng lãi: Tín dụng nặng lãi hình thành khi xuất hiện sự phân
chia giai cấp dẫn đến kẻ giàu, người nghèo. Đặc điểm nổi bật của tín dụng
này là lãi suất cho vay rất cao. Chính vì vậy, tiền vay chỉ được sử dụng vào
mục đích tiêu dùng cấp bách, hoàn toàn không mang mục đích sản xuất nên
đã làm giảm sức sản xuất xã hội. Nhưng đánh giá một cách công bằng thì tín
dụng nặng lãi lại góp phần quan trọng làm tan rã kinh tế tự nhiên, mở rộng
quan hệ hàng hoá tiền tệ, tạo tiền đề cho chủ nghĩa tư bản ra đời.


- Tín dụng thương mại: Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất
kinh doanh với nhau. Công cụ của hình thức tín dụng này là các thương phiếu
thương mại (gồm có kỳ phiếu và hối phiếu thương mại). Tín dụng thương mại

có đặc điểm là: đối tượng cho vay là hàng hoá vì hình thức tín dụng được dựa
trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá giữa các nhà sản xuất với nhau và do đó các
chủ thể tham gia vào quá trình vay mượn cũng là các nhà sản xuất kinh
doanh. Qui mô tín dụng bị hạn chế bởi nguồn vốn cho vay là của từng chủ thể
sản xuất kinh doanh.
- Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng (TDNH) là hình thức phản
ánh quan hệ vay và trả nợ giữa một bên là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng
và một bên là các nhà sản xuất kinh doanh. Hình thức TDNH thể hiện rõ ưu
thế của mình so với hai hình thức tín dụng trên ở chỗ: đây là hình thức tín
dụng rất linh hoạt vì đối tượng cho vay mượn là tiền tệ; chiều vận động nhiều
do ngân hàng có thể vay với mọi thành phần kinh tế, thoả mãn nhu cầu của
khách hàng từ các món vay nhỏ để trang trải chi tiêu trong gia đình đến các
khoản vay lớn hơn để mở rộng sản xuất kinh doanh, phục vụ cho phát triển
kinh tế-xã hội; qui mô tín dụng lớn hơn vì nguồn vốn cho vay là nguồn vốn
mà ngân hàng có thể tập trung và huy động được trong nền kinh tế. TDNH là
hình thức tín dụng chủ yếu của nền kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về
vốn cho nền kinh tế linh hoạt, kịp thời, khắc phục được nhược điểm của các
hình thức tín dụng khác trong lịch sử.
Như vậy, nghĩa của tín dụng có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau
nhưng nội dung cơ bản của những khái niệm này đều phản ánh: một bên là
người cho vay và bên kia là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên được ràng
buộc bởi cơ chế tín dụng và pháp luật hiện tại. Việc chuyển giao giá trị hay
hiện vật giữa người đi vay và người cho vay có kỳ chuyển giao ngược lại.


Lượng giá trị hay hiện vật khi người đi vay hoàn trả cho người cho vay phải
lớn hơn lượng họ nhận được ban đầu, hay nói cách khác người đi vay phải trả
thêm phần lợi tức cho người cho vay. (Tài liệu tham khảo số 01 “Rủi ro tín
dụng ngân hàng thương mại lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia”.

Vậy tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa người
đi vay và người cho vay trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
1.1.1.2. Phân loại tín dụng của ngân hàng thương mại
Tín dụng ngân hàng có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau tùy
theo những tiêu thức phân loại khác nhau “Giáo trình Tín dụng – Ngân hàng
tài liệu tham khảo số 02”:
a) Phân loại theo thời hạn tín dụng:

Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn đến 1 năm. Mục đích thường là nhằm
tài trợ cho việc đầu tư tài sản lưu động.
Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích thường là
nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm. Mục đích thường là nhằm tài
trợ đầu tư vào các dự án, công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường,
máy móc thiết bị có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu dài.
b) Phân loại theo tài sản đảm bảo:


Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng không có tài sản
thế chấp, cầm cố của người nhận tín dụng/người thứ 3 mà chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cấp tín dụng.
Tín dụng có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo
đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố của người nhận tín dụng/người thứ 3.
c) Phân loại theo mức độ rủi ro
Tín dụng lành mạnh: các tín dụng có khả năng thu hồi cao
Tín dụng có vấn đề : các khoản tín dụng có dâú hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách
hàng gặp thiên tai…
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.

Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài
sản thế chấm nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ỳ….
d) Phân loại theo mục đích cấp tín dụng: tín dụng phục vụ sản xuất kinh
doanh công thương nghiệp, tín dụng tiêu dùng cá nhân, tín dụng nông nghiệp,
tín dụng kinh doanh xuất nhập khẩu…
1.1.2. Rủi ro tín dụng ở ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm (theo tài liệu số 01)
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh
doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm
ấn rủi ro rất lớn. Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuồi lợi


nhuận với rủi ro chấp nhận được là bản chất ngân hàng. P.Volker, cựu chủ
tịch cục dự trừ liên bang Mỹ (FED) cho rằng: “Nếu ngân hàng không có
những khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động kinh doanh”. Rủi ro tín
dụng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng. Có nhiều định nghĩa
khác nhau về rủi ro tín dụng:
Theo Giáo trình Quản trị tín dụng NHTM do PGS.TS. Đinh Xuân Hạng
và ThS. Nguyễn Văn Lộc, giảng viên Học viện Tài chính đồng chủ biên,
được Nhà xuất bản Tài chính xuất bản năm 2012: “Rủi ro tín dụng là khả
năng xảy ra những tồn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay
không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ phần vốn và lãi”, tài liêu
tham khảo số 03.
Từ những khái niệm về RRTD có thể rút ra khái niệm chung về RRTD
đó là: RRTD trong hoạt động tín dụng của UHTM là sự không chắc chắn
trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của người được cấp tín dụng
cho ngân hàng theo các điều khoản đã thỏa thuận.
1.1.2.2 Một số tiêu chí và mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng ngân hàng
a. Các tiêu chí đo lường rủi ro tín dụng ngân hàng.

Đo lường rủi ro tín dụng Đo lường rủi ro tín dụng là việc ngân hàng
xây dựng mô hình thích hợp để lượng hóa mức độ rủi ro tín dụng. Từ đó xác
định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng,
cũng như trích lập quỹ dự phòng để tài trợ cho rủi ro tín dụng. Để đo lường rủi
ro, ngân hàng cần thu thập số liệu, thông tin và phân tích, đánh giá rủi ro (tài liệu
tham khảo số 04).


Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, rủi ro tín dụng được do
lường thông qua các chỉ tiêu như sau:
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ
hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính trên cơ sở dư nợ quá hạn chia cho tổng dư
nợ tín dụng tại Ngân hàng thương mại.
Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn thường được được
phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn:
Nhóm 2: Nợ quá hạn dưới 90 ngày - Nợ cần chú ý.
Nhóm 3: Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày - Nợ dưới tiêu chuẩn.
Nhóm 4. Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày - Nợ nghi ngờ.
Nhóm 5: Nợ quá hạn trên 361 ngày - Nợ có khả năng mất vốn.
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng
càng lớn. Theo đó khả năng thanh toán của khách hàng giảm. Điều này ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng do ngân hàng phải tăng thêm
chi phí giám sát, đôn đốc thu nợ. Ngược lại, tỷ lệ này thấp cho thấy chất
lượng tín dụng cao, khả năng quản lý của Ngân hàng với các khoản vay tốt.
Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu



Nợ xấu là các khoản nợ có xác xuất xảy ra rủi ro cao và cần thiết phải
có sự quản lý đặc biệt nhằm hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra.
Tỷ lệ nợ xấu được xác định dựa trên số dư nợ xấu tính trên tổng dư nợ.
Nợ xấu bao gồm các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. So với nợ quá
hạn, cho thấy nợ xấu có quy mô nhỏ hơn. Tuy nhiên, để xác định rõ hơn về
mức độ rủi ro thì nợ xấu thể hiện rõ hơn. Nếu nợ xấu càng lớn và đặc biệt rơi
vào nhóm càng cao thì tỷ lệ trích lập dự phòng càng lớn, như chúng ta biết
trích lập dự phòng được tính vào chi phí điều này có nghĩa: lợi nhuận giảm,
mức độ rủi ro của khoản mục cho vay cao,... Tuy nhiên, để đánh giá RRTD
của một TCTD này so với toàn ngành, hoặc so một TCTD khác thì người ta
dùng tỷ lệ nợ xấu trên tống dư nợ. Thông qua tỷ lệ này cho biết nợ xấu chiếm
bao nhiêu phần trăm so với tổng dư nợ. Thực tế tỷ lệ này chiếm khoảng 25%, một tỷ lệ chấp nhận được, tại Việt Nam căn cứ quyết định số
13/2008/QĐ-NHNN ngày 29/4/2008 về mở chi nhánh tại các Ngân hàng
thương mại có quy định về điều kiện để Ngân hàng thương mại được mở chi
nhánh đó là nợ xấu không được vượt quá 3% tổng dư nợ.
Dựa vào chỉ tiêu nợ xấu, chúng ta có thể đánh giá rủi ro tín dụng theo
từng tiêu thức cụ thể: nợ xấu theo thời hạn cho vay, nợ xấu theo mục đích cho
vay, nợ xấu theo thành phần kinh tế...Từ đó, chúng ta có thể xác định được
nguyên nhân và đưa ra giải pháp hữu hiệu để giải quyết.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2;


Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị
quá hạn hoặc đã quá hạn;
Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5.


Cũng theo quyết định 493, có 02 phương thức phân chia nhóm nợ tại
các Ngân hàng thương mại, cụ thể như sau:
Phân chia theo tuổi nợ: Theo đó nợ quá hạn với thời hạn càng dài thì
nhóm nợ càng cao.
Phân chia theo kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ tại các Ngân hàng
thương mại, theo đó định kỳ cán bộ tín dụng căn cứ tình hình tài chính và phi
tài chính của khách hàng có dư nợ tại Ngân hàng thương mại để thực hiện
chấm điểm và phân loại nợ, xếp nhóm đối với khách hàng.
Cơ cấu danh mục tín dụng
Cơ cấu danh mục tín dụng là tỷ trọng dư nợ cho vay tính theo từng
ngành nghề so với tổng dư nợ.
Các ngân hàng thương mại quản lý danh mục tín dụng của mình, xác
định nợ theo các ngành kinh tế, qua đó có biện pháp mở rộng/thu hẹp cấp tín
dụng theo ngành kinh tế. Trường hợp dư nợ đối với một ngành kinh tế đang

trong giai đoạn khủng hoảng (ví dụ như ngành xây lắp, ngành kinh doanh bất
động sản, ngành thép) tại một ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn thì
đồng nghĩa với ngân hàng đó đang đứng trước nguy cơ rủi ro cao. Ngân hàng
thương mại phải tím biện pháp quản lý chặt chẽ nhàm hạn chế tối đa rủi ro
xảy ra.
Các ngân hàng luôn quản lý dư nợ cho vay theo hướng phân tán rủi ro,
hạn chế tối đa dư nợ cho vay, dư bảo lãnh tập trung tại một hoặc một số ít các
khách hàng nhằm hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào một khách hàng, khi
khách hàng xảy ra rủi ro ngân hàng rất khó có khả năng chống đỡ.


Một số quy định tại Việt Nam:
Dư nợ cho vay 01 khách hàng <=15% vốn tự có của Tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay và số dư cấp bảo lãnh của 01 khách hàng <=25%
vôn tự có của Tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay 10 khách hàng không vượt quá 30% tổng dư nợ
cho vay của Tổ chức tín dụng đó.
Tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm.
Tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm được tính bằng tổng dư nợ có tài sản
bảo đảm trên tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại.
Tài sản bảo đảm là công cụ quan trọng, là giải pháp cuối cùng đế các
ngân hàng thương mại hạn chế những thiệt hại khi rủi ro xảy ra. Do đó, để
đảm bảo nâng cao tính an toàn khi cấp tín dụng, các ngân hàng thương mại
thường tìm cách bố sung tối đa tài sản bảo đảm. Đây chính là thước đo đánh
giá khả năng xử lý của ngân hàng thương mại khi xảy ra rủi ro tín dụng.
b) Các mô hình định lượng để đo lường rủi ro tín dụng
b1) Mô hình điểm số Z
Mô hình điểm số "Z" do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng
đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng z là thước đo tổng hợp để
phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:

Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj).


Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ
nợ của người vay trong quá khứ.
Từ đó, Altman đã đưa ra mô hình cho điểm như sau:
z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1: là tỷsố "vốn lưu động ròng/tổng tài sản".
X2: là tỷ số "lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản".
X3: Là tỷ số "Lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản".
X4: là tỷ sổ "thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn".
X5 : là tỷ số "doanh thu/tổng tài sản".
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy,
khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm
có nguy cơ vỡ nợ cao.
Ưu điểm của mô hình này tính toán đơn giản dựa trên các chỉ tiêu tài
chính quen thuộc đánh giá khách hàng và kết quả tính toán rất dễ xử lý,
thuận tiện cho ngân hàngra quyết định. Tuy nhiên mô hình vẫn có một sổ
nhược điểm:
- Chỉ phân chia khách hàng thành 2 loại “vỡ nợ” và “không vỡ nợ” nên
tương đối cứngnhắc với thực tế đa dạng và phức tạp.


- Các trọng số của các chỉ tiêu trong công thức chưa được chứng minh
rõ ràng, hơn nữa khi điều kiện kinh tế thay đổi thì tầm quan trọng của các chỉ
tiêu cũng thay đổi nhưng trong công thức đã không được tính đến.
Không tính đến các yếu tố định tính nhưng khá quan trọng trong thực tế
như "mối quan hệ truyền thống,? giữa khách hàng và ngân hàng hay “uy tín”
đã có của khách hàng trên thị trường.

b2) Mô hình xác đinh khả năng tổn thất tín dụng dự kiến.
Các TCTD có thể lượng hóa khối lượng rủi ro tín dụng (được đo lường
bằng tổn thất dự kiến EL) thông qua việc tính toán ba cấu phần rủi ro: PD xác suất khách hàng không trả được nợ, LGD - tỷ lệ tổn thất dự kiến (%)
trong trường hợp khách hàng thông trả được nợ và E AD - số dư nợ rủi ro.
Các ngân hàng có thể xác định được tổn thất có thể ước tính với mỗi kì
hạn xác định:
EL : Tổn thất có thể ước tính.
EL=PD X EAD X LGD
Trong đó:
PD - xác suất khách hàng không trả được nợ. Cơ sở của xác suất này là
các sổ liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản đã
trả, các khoản trong hạn và khoản nợ không thu hồi được.
LGD- Tỷ trọng tổn thất ước tính;


IEAD- Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng khône trả
được nợ.
EAD = Dư nợ ước tính+LEQ X Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân.
Trong đó:
LEQ: là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều khả năng sẽ được
khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ
LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân: chính là phần dư nợ
khách hàngrút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân
Cơ sở xác định LEQ là các số liệu quá khứ do đó không thể tính chính
xác được IEQ của một khách hàng tốt
LGD: Tỷ trọng tốn thất ước tính - đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất
trên tổng dư nợtại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD bao gồm cả
các tổn thất khác sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến
hạn nhưng không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh
như: chi phí xử lý tài sản thế các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một sổ chi phí

liên quan.
LGD = (EAD-SỔ tiền có thể thu hồi)/EAD
Số tiền thu hồi là các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền
thu được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. LGD cũng có thể coi là 100% tỷ lệ
vốn thu hồi được.
b3) Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng


Mô hình chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng là một mô hình
ưu việt dựa trên toàn bộ thông tin được quản lý tập trung trong hệ thống và
những thông tin khác được cập nhật từ bên ngoài.
Nhiều ngân hàng sử dụng mô hình cho điểm để xử lý các đơn xin vay
của người vay. Mô hình cho điểm tín dụng thường sử dụng 7 đến 12 hạng
mục, mỗi hạng mục được cho điểm 1 đến 10. Với mô hình cho điểm tín dụng
đã loại bỏ được tính chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời
gian quyết định tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, mô hình này cũng có
những nhược điểm như: không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để
thích ứng kịp thời với những thay đổi trong nền kinh tế và những thay đối
trong cuộc sống gia đình, có thể sẽ bỏ sót những khách hàng tiềm năng, làm
giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân hàng...
c) Mô hình định tính để đo lường rủi ro tín dụng
Phương pháp định tính còn được gọi là phương pháp chủ quan, hay
phương pháp truyền thống của rủi ro tín dụng. Phương pháp này chủ yếu dựa
vào đánh giá chủ quan để xác định rủi ro tín dụng của khách hàng. Phương
pháp đánh giá truyền thống đi sâu nghiên cứu “6 khía cạnh - 6C” của người
xin vay là:
- Character: Tính chất đạc điểm phân loại
Quan hệ vay trả đã qua; Kinh nghiệm của các Ngân hàng khác đối với
khách hàng này; Mục đích khoản vay; Khả năng phân tích, dự báo về hoạt
động kinh doanh của chủ doanh nghiệ; Phân loại tín dụng, mức độ tín chấp

của khoản vay; Có người bảo lãnh cho khoản vay hay không


- Capacity: Năng lực tài chính: Năng lực hành vi dân sự của chủ doanh
nghiệp và của người bảo lãnh; Những hồ sơ pháp lý chứng minh năng lực
pháp lý của doanh nghiệp vay vốn; Mô tả quá trình hoạt động của doanh
nghiệp đến thời điểm hiện tại, cơ cấu sở hữu, chủ sở hữu, tính chất hoạt động,
sản phẩm, khách hàng chính, người cung cấp chính của doanh nghiệp.
- Capital cấu trúcvốn:Thu nhập đã qua, tình hình phân chia cổ tức,
doanh thu bán hàng; Cashflow hiện tại và dự kiến; Tính thanh khoản của tài
sản lưu động; Vòng quay nợ phải thu, phải trả và tồn kho; Cơ cấu nguồn vốn,
tình trạng vay nợ; Kiểm soát chi phí; Các tỷ lệ về khả năng trả lãi; Khả năng
và chất lượng quản lý; Những thay đổi gần đây trong phương pháp hạch toán
kế toán
- Collateral: Tài sản đảm bảo: Có các tài sản gì? Khả năng bị lỗi thời,
mất giá của tài sản; Giá trị tài sản; Mức độ chuyên biệt của tài sản; Tình
trạng đã bị cầm cố, thế chấp của tài sản, các hạn chế khác; Tình trạng bảo
hiểm; Đã được dùng để bảo lãnh cho người khác; Vị thế của Ngân hàng đối
với việc đòi cầm cố/thế chấp đối với tài sản; Nhu cầu vay vốn trong tương lai
- Conditions Điều kiện: Địa vị cạnh tranh hiện tại của khách hàng trong
ngành công nghiệp và thị phần dự kiến; Kết quả hoạt động của khách hàng so
với các đối thủ cạnh tranh khác trong ngành; Tình hình cạnh tranh của sản phẩm;
Mức độ nhạy cảm của khách hàng đổi với chu kỳ kinh doanh và những thay đổi
về công nghệ; Điều kiện/tình trạng thị trường lao động trong ngành hay trong
khu vực thị trường mà khách hàng đang hoạt động; Ảnh hưởng của lạm phát đối
với bảng cân đối kế toán và với CF của khách hàng;Tương lai của ngành; Các
yếu tố chính trị, pháp lý, xã hội, công nghệ, môi trường ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh, ngành nghề của khách hàng.



- Control : Kiểm soat (Hoặc Coverage: Bảo hiểm trong 1 số tài liệu
khác): Các luật, qui định, qui chế hiện hành liên quan đến khoản tín dụng
đang được xem xét; Đủ hồ sơ giấy tờ phục vụ cho công việc kiểm soát; Hồ sơ
giấy tờ cho vay, giải ngân phải có đầy đủ và phải được ký bởi các bên; Mức
độ phù hợp của khoản vay đối với qui chế, qui định của Ngân hàng; Ý kiến
của các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật về môi trường của ngành, về sản phẩm,
về các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến khoản vay.
Các tiêu chí tín dụng “6C” đã giúp cán bộ tín dụng và nhà phân tích
trong việc trả lời một câu hỏi tổng quát: Người vay đủ tư cách? Hợp đồng tín
dụng sẽ được ký kết đủng đắn và hợp lệ, đáp ứng được yêu cầu của người vay
và ngân hàng? Điều này đòi hỏi trước hết là nội dung hợp đồng tín dụng phải
đáp ứng được nhu cầu vốn của người tay theo một kế hoạch trả nợ thuận lợi.
Tạo điều kiện thuận lợi để người vay có khả năng xử lý các nghĩa vụ trả nợ,
bởi vì sự trả nợ của ngân hàng phụ thuộc cơ bản vào sự thành công của khách
hàng. Nếu một khách hàng chính gặp răc rôi trong việc thực hiện khoản vay,
thì chính ngân hàng cũng đang gặp rắc rối. Nếu người vay có sự điều thích
hợp khoản vay, thì khoản tín dụng thực tế có thể là lớn hơn hay nhỏ hơn so "
nhu cầu ban đầu (bởi vì nhiều khách hàng không biết chính xác được nhu cầu
tài chính của mình), và thời hạn xin vay cũng có thể là dài hơn hay ngắn hơn
so với dự kiến.Như vậy, cán bộ tín dụng phải có khả năng cố vấn tài chính
cho khách hàng, đồng thời hướng dẫn khách hàng hoàn thành đơn xin vay.
1.1.2.4 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
a) Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Do nguồn nhân lực của ngân hàng còn kém: Nguồn nhân lực là một
yếu tố quan trọng của bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào và nó ảnh hưởng


×