Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu tình hình mắc một số bệnh sinh sản trên đàn lợn nái nuôi tại trại đặng đức khang xã hướng đạo tam dương vĩnh phúc và so sánh 2 phác đồ điều trị bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 73 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------

BÙI THỊ BÍCH
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH MẮC MỘT SỐ BỆNH SINH SẢN
TRÊN ĐÀN LỢN NÁI NUÔI TẠI TRẠI ĐẶNG ĐỨC KHANG XÃ HƢỚNG
ĐẠO, TAM DƢƠNG, VĨNH PHÚC VÀ SO SÁNH 2 PHÁC ĐỒ
ĐIỀU TRỊ BỆNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khóa học: 2011 - 2016

THÁI NGUYÊN, 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------

BÙI THỊ BÍCH
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH MẮC MỘT SỐ BỆNH SINH SẢN TRÊN ĐÀN
LỢN NÁI NUÔI TẠI TRẠI ĐẶNG ĐỨC KHANG XÃ HƢỚNG ĐẠO, TAM DƢƠNG,
VĨNH PHÚC VÀ SO SÁNH 2 PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ BỆNH


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khóa học: 2011 – 2016
Giảng viên HD: ThS. Hà Thị Hảo
Phần 1

THÁI NGUYÊN, 2015


i

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trong thời gian qua bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của
bản thân, tôi đã nhận được sự chỉ bảo, sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn
ThS. Hà Thị Hảo đã quan tâm dìu dắt, tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành tốt
khóa luậnnày.
Trước tiên, tôi xin được trân trọng bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới cô giáo
hướng dẫn ThS. Hà Thị Hảo đã định hướng cho tôi hoàn thành tốt khóa luận
của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự quan tâm giúp đỡ của
Ban Giám hiệu trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Chăn
nuôi Thú y, đã tạo điều kiện giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới Trang trại lợn nái của ông Đặng Đức Khang, đã giúp
đỡ về vật chất và tinh thần trong suốt quá trình thực tập tại trang trại.
Tôi xin cảm ơn đội ngũ kỹ thuật trại anh Nguyễn Hữu Phong, anh Vũ Văn Hưng
đã giúp đỡ , chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp quý báu.

Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình, bạn bè, người thân đã
động viên, giúp đỡ tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận này.
Thái Nguyên, ngày tháng 12 năm 2015
Sinh viên

Bùi Thị Bích


ii

DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Phân loại các thể viêm tử cung .................................................................12
Bảng 3.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung ..................................31
Bảng 3.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm điều trị bệnh sát nhau ..........................................31
Bảng 3.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm điều trị bệnh sảy thai...........................................32
Bảng 4.1: Kết quả thực hiện công tác vệ sinh chăn nuôi ..........................................40
Bảng 4.2: Lịch tiêm phòng cho đàn lợn con và lợn nái của trại lợn .........................40
Bảng 4.3: Kết quả công tác phục vụ sản xuất ...........................................................46
Bảng 4.4. Số lượng lợn của trại qua một số năm ......................................................47
Bảng 4.5: Tỷ lệ mắc một số bệnh sinh sản của đàn lợn nái ......................................48
Bảng 4.6. Tỷ lệ nhiễm bệnh sinh sản của đàn lợn nái các tháng .............................49
Bảng 4.7. Tỷ lệ mắc bệnh sinh sản theo lứa đẻ ........................................................51
Bảng 4.8: Tỷ lệ mắc bệnh một số bệnh sinh sản theo dãy chuồng ...........................53
Bảng 4.9: Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung và bệnh sát nhau theo tình trạng đẻ ..........54
Bảng 4.10. Kết quả điều tri bệnh sinh sản theo hai phác đồ .....................................55
Bảng 4.11. Một số chỉ tiêu sinh lý sinh sản của đàn lợn nái sau điều trị bệnh viêm tử
cung ..........................................................................................................56
Bảng 4.12. Sơ bộ hạch toán chi phí thú y .................................................................57



iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Cs:

Cộng sự

ĐVT:

Đơn vị tính

MMA:

Mastitis Metritis Agalactia –
Hội chứng viêm vú, viêm tử cung và mất sữa

PRRS:

Porcine reproductive and respiratory syndrome Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn

PTLC:

Phân trắng lợn con

TT:

Thể trọng


VTC:

Vitamin

STT:

Số thứ tự


iv

MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU...................................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................................1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài .............................................................................2
1.2.1. Mục tiêu đề tài ...................................................................................................2
1.2.2. Yêu cầu của đề tài .............................................................................................2
1.3. Ý nghĩa của đề tài .................................................................................................2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học ..............................................................................................2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ...............................................................................................2
Phần 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ...................................................................3
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài ....................................................................................3
2.1.1. Cấu tạo, chức năng cơ quan sinh dục cái ..........................................................3
2.1.2. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái .............................................................6
2.1.3. Một số bệnh sản khoa thường gặp ở lợn ...........................................................8
2.1.4. Một số hiểu biết về thuốc phòng và trị bệnh sử dụng trong đề tài ..................23
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ........................................................26
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ....................................................................26
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ...................................................................27

Phần 3: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNGVÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......30
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................30
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ........................................................................30
3.3. Nội dung nghiên cứu ..........................................................................................30
3.3.1. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................30
3.3.2.Các chỉ tiêu theo dõi .........................................................................................30
3.4. Phương pháp nghiên cứu các chỉ tiêu ...............................................................31
3.4.1. Phương pháp bố trí điều trị .............................................................................31
3.4.2. Phương pháp xác định một số chỉ tiêu lâm sàng của nái khỏe và
nái bị bệnh ..............................................................................................................32


v

Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..................................................................34
4.1. Kết quả công tác phục vụ sản xuất .....................................................................34
4.1.1. Công tác chăn nuôi tại cơ sở ...........................................................................34
4.1.2. Công tác phòng và trị bệnh ............................................................................38
4.2. Kết quả nghiên cứu chuyên đề khoa học ...........................................................47
4.2.1. Kết quả điều tra tình hình phát triển đàn lợn của trại......................................47
4.2.2. Tỷ lệ mắc một số bệnh sinh sản ở đàn lợn nái của trại ...................................47
4.2.3. Tình hình nhiễm bệnh sinh sản của đàn lợn nái qua các tháng theo dõi .........49
4.2.4. Tình hình mắc bệnh sinh sản theo lứa đẻ ........................................................50
4.2.5. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung, sát nhau và sảy thai theo dãy chuồng .............52
4.2.6. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung và bệnh sát nhau của lợn nái theo tình trạng đẻ54
4.2.7. Kết quả điều trị một số bệnh sinh sản theo hai phác đồ điều trị ....................55
4.2.8. Các chỉ tiêu sinh lý sinh sản của đàn lợn nái sau điều trị ...............................56
2.4.9. Chi phí sử dụng thuốc trong điều trị ...............................................................56
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ......................................................................58
5.1. Kết luận ..............................................................................................................58

5.2. Tồn tại ................................................................................................................58
5.3. Đề nghị ...............................................................................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay cùng với sự phát triển của đất nước, ngành chăn nuôi đã và đang có sự
phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Ngành chăn nuôi đang khẳng định
tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế của nước ta, nó góp phần đáng kể vào công
cuộc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân và thúc đẩy sự phát triển
kinh tế chung cho nước ta.
Ngành chăn nuôi ngày càng phát triển trong đó chăn nuôi lợn không thể thiếu.
Chăn nuôi lợn là một lĩnh vực quan trọng trong ngành chăn nuôi nói riêng và sản
xuất nông nghiệp nói chung, nó mang lại hiệu quả kinh tế cao và đáp ứng một lượng
lớn thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài ra còn
cung cấp số lượng lớn lợn giống cho nhu cầu chăn nuôi của các trang trại và các
nông hộ thì việc phát triển đàn lợn nái sinh sản là việc làm cần thiết.
Để chăn nuôi đàn lợn ngoại đạt hiệu quả cao bên cạnh các yếu tố về thức ăn,
chuồng trại, kỹ thuật chăn nuôi… thì một trong những yếu tố hết sức quan trọng cần
được đảm bảo là khâu vệ sinh, phòng bệnh và trị bệnh trên đàn lợn nái ngoại .
Một trong những bệnh làm hạn chế khả năng sinh sản của đàn lợn nái là các
bệnh về sinh sản đặc biệt là một số bệnh như: sảy thai, sát nhau, viêm tử cung,
… chiếm tỉ lệ cao. Những bệnh này không những làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả
năng sinh sản của lợn mẹ mà còn là một trong những nguyên nhân làm tăng cao tỉ lệ
mắc bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con đang trong thời gian theo mẹ, do đó chất lượng
của đàn giống bị ảnh hưởng. Nếu không điều trị kịp thời có thể kế phát viêm vú,

mất sữa, nặng có thể dẫn tới rối loạn sinh sản, chậm sinh, vô sinh, viêm phúc
mạc…và có thể chết.
Vì vậy để khắc phục hậu quả và hạn chế khả năng mắc một số bệnh sinh sản
trên đàn lợn nái. Được sự hướng dẫn của cô giáo Th.S Hà Thị Hảo và sự đồng ý của
ban lãnh đạo trại Đặng Đức Khang ở xã Hướng Đạo, Tam Dương, Vĩnh Phúc tôi


2

tiến hành nghiên cứu đề tài: ‘‘Nghiên cứu tình hình mắc một số bệnh sinh sản
trên đàn lợn nái nuôi tại trại Đặng Đức Khang xã Hướng Đạo, Tam Dương,
Vĩnh Phúc và so sánh 2 phác đồ điều trị bệnh’’.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu đề tài
- Đánh giá tỷ lệ mắc một số bệnh sinh sản ở lợn nái.
- Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí sinh sản của lợn nái sau khi điều trị bệnh.
- Thử nghiệm và đánh giá hiệu quả của hai phác đồ điều trị.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Xác định những biểu hiện lâm sàng của bệnh.
- Xác định hiệu lực và độ an toàn của phác đồ điều trị.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Số liệu nghiên cứu là cơ sở bổ sung vào tài liệu tham khảo và nghiên cứu
khoa học của sinh viên ngành Thú y.
- Kết quả của đề tài cung cấp thêm thông tin khoa học về một số bệnh
sinh sản ở lợn nái. Từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình phòng – trị
bệnh có hiệu quả.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu sẽ xác định được một số bệnh sinh sản ở lợn nái, từ đó
đề xuất các biện pháp phòng trị bệnh hiệu quả.

- Những khuyến cáo từ kết quả của đề tài giúp cho người chăn nuôi hạn chế
được những thiệt hại do bệnh gây ra.


3

Phần 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Cấu tạo, chức năng cơ quan sinh dục cái
Cơ quan sinh dục của lợn nái bao gồm:
- Bộ phận sinh dục ngoài gồm: âm môn, âm vật, tiền đình.
+ Âm môn: hay còn gọi là âm hộ (vuhvae) nằm dưới hậu môn. Phía ngoài
âm môn có hai môi (labia pudenda). Hai môi được nối với nhau bằng hai mép (rima
vulae). Trên hai môi của âm môn có sắc tố màu đen và có nhiều tuyến tiết (như
tuyến tiết chất nhờn trắng và tuyến mồ hôi).
+ Âm vật (clitoris):âm vật của con cái được cấu tạo giống như dương vật
của con đực được thu nhỏ lại, bên trong có các thể hổng. Trên âm vật có các nếp
da tạo ra mũ âm, ở giữa âm vật gấp xuống dưới là chỗ tập trung các đầu mút dây
thần kinh.
+ Tiền đình (vestibulum): tiền đình là giới hạn giữa âm môn và âm đạo.
Trong tiền đình có dấu vết màng trinh, phía trong là âm đạo, phía ngoài có lỗ niệu
đạo. Màng trinh có các sợi cơ đàn hồi giữa và do hai lá niêm mạc gập thành một
nếp. Tiền đình có một số tuyến xếp theo hàng chéo, hướng quay về âm vật, chúng
có chức năng tiết dịch nhầy (Nguyễn Mạnh Hà và cs, 2003) [9].
- Bộ phận sinh dục bên trong
+ Âm đạo: âm đạo có chức năng chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối
đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các
chất dịch từ tử cung ra ngoài. Âm đạo có cấu tạo như một ống cơ có thành dày, phía
trước âm đạo là cổ tử cung, phía sau là tiền đình có màng trinh che lỗ âm đạo, âm

đạo có cấu tạo gồm 3 lớp: lớp liên kết ở ngoài, lớp cơ trơn ở giữa và lớp niêm mạc ở
trong. Trên bề mặt niêm mạc có nhiều thượng bì gấp nếp dọc. Âm đạo của lợn dài
10 - 12 cm.
Ở lợn, biểu mô âm đạo tăng lên về độ cao tối đa vào lúc động dục và thấp nhất ở
các ngày 12-16, các lớp bề mặt của biểu mô âm đạo bong ra ở các ngày 4 và 14.


4

Khả năng co rút ở âm đạo đóng vai trò chính trong việc đáp ứng tính dục và
cho sự vận chuyển của tinh trùng. Sự co rút của âm đạo, tử cung và ống dẫn trứng
được kích thích bởi dịch thể bài tiết vào trong âm đạo trong quá trình kích thích
trước lúc giao phối.
+ Tử cung (dạ con): tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên
bàng quang và niệu đạo nằm trong xoang chậu, hai sừng tử cung nằm ở trước xoang
chậu, tử cung được giữ tại chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ
bởi các dây chằng. Tử cung lợn thuộc loại tử cung hai sừng. Gồm hai sừng thông
với 1 thân và cổ tử cung.
Sừng tử cung: dài 50 - 100cm, hình ruột non thông với ống dẫn trứng.
Thân tử cung: dài 3 - 5 cm.
Cổ tử cung: dài 10 - 18 cm, có thành dày hình trụ, có các cột thịt xếp theo
kiểu cài răng lược thông với âm đạo.
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: lớp tương mạc, lớp cơ trơn và
lớp nội mạc.
Lớp tương mạc: là lớp màng sợi dai chắc phủ mặt ngoài tử cung và nối tiếp
hệ thống các dây chằng.
Lớp cơ trơn: gồm cơ vòng rất dầy ở trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài, giữa
hai tầng cơ chứa tổ chức liên kết sợi đàn hồi và mạch quản đặc biệt là nhiều tĩnh
mạch lớn, ngoài ra các bó sợi cơ trơn đan vào nhau theo mọi hướng làm thành mạch
vừa dày vừa chắc. Cơ trơn là lớp cơ dày và khỏe nhất trên cơ thể.

Lớp nội mạc tử cung: là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một lớp tế
bào biểu mô hình trụ xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhày tử cung nhiều tế bào
biểu mô kéo dài thành lông nhung, khi lông nhung dung động thì gạt những chất
nhày tiết ra về phía cổ tử cung.
Trên niêm mạc có các nếp gấp. Lớp niêm mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các
chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng
trong thời gian di chuyển đến ống dẫn trứng. Dưới sự ảnh hưởng của oestrogen, các
tuyến tử cung phát triển từ lớp màng nhầy xâm nhập vào lớp dưới màng nhầy và


5

cuộn lại tuy nhiên các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng
của progensterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tùy theo giai đoạn của
chu kỳ sinh dục.
+ Buồng trứng: buồng trứng nằm trong xoang chậu, gồm một cặp, thực hiện
cả hai chức năng: ngoại tiết (bài noãn) và nội tiết (sản sinh hormon sinh dục cái).
Buồng trứng được hình thành trong giai đoạn phôi thai, hình dáng và kích thước của
buồng trứng biến đổi theo giai đoạn của chu kỳ sinh dục và chịu ảnh hưởng của
tuổi, đặc điểm cá thể, chế độ dinh dưỡng…
Buồng trứng được bao bọc từ phía ngoài bởi một lớp màng liên kết sợi. Phía
trong buồng trứng được chia thành hai miền là miền vỏ và miền tủy. Miền vỏ đảm
bảo quá trình phát triển của trứng đến khi trứng chín và rụng.
Miền vỏ bao gồm ba phần: tế bào trứng nguyên thủy, thể vàng và tế bào hình
hạt. Tế bào trứng nguyên thủy hay còn gọi là trứng non (fulliculloophoriprimari)
nằm dưới lớp màng của buồng trứng. Khi noãn nang chín, các tế bào nang bao
quanh tế bào trứng phân chia thành nhiều tế bào hình hạt (Strarum glannulosum).
Noãn bao ngày càng phát triển thì các tế bào nang tiêu tan tạo thành xoang chứa
dịch. Các tầng tế bào còn lại phát triển lồi lên trên tạo thành một lớp màng bao bọc,
ở ngoài có chỗ dầy lên để chứa trứng (ovum).

+ Ống dẫn trứng: ống dẫn trứng gồm có phễu phần rộng và phần eo. Phễu
mở ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để ra tăng diện tích tiếp xúc
với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng chiếm 1/2
chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp
gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo tiếp nối với sừng tử cung, nó có thành
dầy hơn phần rộng và ít gấp nếp hơn. Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận
chuyển noãn và tinh trùng đến nơi thụ tinh của ống dẫn trứng (1/3 phía trên của ống
dẫn trứng) tiết ra các chất để nuôi dưỡng noãn duy trì sự sống và ra tăng khả năng
thụ tinh của tinh trùng, tiết các chất nuôi dưỡng phôi trong mấy ngày trước khi phôi
đi vào tử cung, nơi tiếp giáp giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di
truyển của tinh trùng đến phần rộng của ống dẫn trứng hoặc di truyển của phôi vào
tử cung.


6

2.1.2. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái
Sinh lý sinh dục của gia súc nói chung và loài lợn nói riêng đặc trưng cho
loài, có tính ổn định với từng giống của vật nuôi. Nó được duy trì qua các thế hệ và
luôn củng cố và hoàn thiện qua quá trình chọn lọc. Để đánh giá đặc điểm sinh lý
sinh dục của lợn nái người ta thường tập trung nghiên cứu theo dõi các chỉ tiêu sau
đây: tuổi động dục lần đầu, chu kỳ động dục, thời gian động dục, tuổi phối giống
lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, thời gian động dục trở lại...
Theo Phạm Hữu Doanh và cs (2003) [4] thì: tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội
(Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng tuổi, khi khối lượng đạt từ 20 - 25 kg; ở lợn nái
lai F1 lúc 6 tháng tuổi, khi khối lượng đạt 50 - 55 kg. Lợn ngoại động dục muộn
hơn (6-7 tháng tuổi) khi khối lượng đạt 65- 80 kg.
Tùy theo giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà lợn có tuổi
động dục lần đầu khác nhau. Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 - 5
tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi), các giống lợn ngoại Yorkshire, Landrace muộn

hơn từ 7 - 8 tháng tuổi.
Ngoài ra tuổi động dục lần đầu còn phụ thuộc vào mùa vụ. Lợn nái hậu bị
được sinh vào mùa Thu sẽ động dục sớm hơn so với sinh vào mùa Xuân (Nguyễn
Tuấn Anh và cs, 1998) [1].
Theo Lê Xuân Thọ và cs (1979) [29] đối với lợn nái hậu bị và lợn nái sau cai sữa
chậm động dục, tiêm huyết thanh ngựa chửa có thể gây động dục.
+ Tuổi động dục lần đầu: là tuổi khi lợn nái hậu bị lần đầu tiên động dục. Các giống
lợn có tuổi động dục lần đầu khác nhau.
+ Tuổi phối giống lần đầu
Phạm Hữu Doanh và cs (2003) [4] cho rằng: không nên phối giống ở lần
động dục đầu tiên vì ở thời kỳ này cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ, chưa tích tụ
được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách hoàn chỉnh. Để đạt được
hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái lâu bền cần bỏ qua 1- 2 chu kỳ động dục rồi
mới cho phối giống.
Lợn nái nội thường phối giống lần đầu lúc 6 - 7 tháng tuổi, khi khối lượng
đạt 40 - 50 kg, lợn nái lai F1 phối giống lúc 8 tháng tuổi với khối lượng không dưới
65 - 70 kg, nái ngoại vào lúc 9 tháng tuổi.


7

Nếu phối giống quá sớm sẽ ảnh hưởng đến tầm vóc và sức khỏe của lợn
mẹ. Nhưng nếu phối giống quá muộn sẽ lãng phí về kinh tế, ảnh hưởng đến
năng suất sinh sản của lợn.
+ Tuổi đẻ lứa đầu: Theo Lê Hồng Mận (2004) [14], Lợn Ỉ, Móng Cái cho đẻ
lứa đầu vào 11 - 12 tháng tuổi, lợn nái lai, nái ngoại vào 12 tháng tuổi.
+ Chu kỳ động dục của lợn nái và động dục trở lại sau khi đẻ:
Chu kỳ tính dục của lợn nái thường khoảng 19 - 21 ngày. Thời gian động dục
thường kéo dài 3 - 4 ngày (lợn nội) hoặc 4 - 5 ngày (lợn lai, lợn ngoại) (Nguyễn
Văn Thiện, 1996) [26].

Lê Hồng Mận (2004) [14] cho biết: Thường sau khi cai sữa lợn con 3 - 5
ngày, lợn mẹ động dục trở lại.
+ Đặc điểm động dục của lợn nái: ở lợn nái, thời gian động dục chia làm 3
giai đoạn: trước chịu đực, chịu đực và sau chịu đực.
Trước chịu đực: lợn nái kêu rít, âm hộ xung huyết, không cho con khác
nhảy lên lưng. Sự rụng trứng xảy ra sau 35 - 40h ở lợn ngoại và lợn lai, 25 30h ở lợn nội.
Chịu đực: lợn kém ăn, mê ì, đứng yên khi ấn tay lên lưng, mông, âm hộ giảm
sưng, dịch nhờn chảy ra, dính, đục, đứng yên khi có đực đến gần và cho đực nhảy.
Giai đoạn này kéo dài 2 ngày ở lợn ngoại, 28 - 30h ở lợn nội. Nếu được phối giống
lợn sẽ thụ thai.
Sau chịu đực: lợn nái trở lại bình thường, âm hộ giảm sưng, đuôi cụp, không
cho con đực đến gần và nhảy lên lưng.
+ Thời điểm phối giống thích hợp: đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho
phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4, tính từ lúc bắt đầu động dục. Đối với
lợn nái nội, sớm hơn một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3.
Theo Nguyễn Hữu Ninh và cs (2002) [17] cho biết: Thời điểm phối giống
ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu thai và sai con. Phối sớm hoặc phối muộn đều cho kết quả
kém, nên cho nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm thích hợp.
+ Mang thai: thời gian mang thai của lợn trung bình là 114 ngày (113 - 115
ngày). Thời gian chửa của lợn nái được chia làm hai thời kỳ:


8

Chửa kỳ I: Là thời gian lợn có chửa 84 ngày đầu.
Chửa kỳ II: Là thời gian lợn chửa từ ngày chửa thứ 85 đến khi đẻ.
+ Năng suất sinh sản của lợn
Một lợn nái một năm trung bình có thể đẻ từ 1,8 - 2,2 lứa/ năm. Tuy nhiên,
điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của
lợn. Đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái thông qua các chỉ tiêu: số con sơ sinh,

số con cai sữa, khối lượng lợn con sơ sinh và cai sữa, tỷ lệ nuôi sống, số lứa
đẻ/năm...
2.1.3. Một số bệnh sản khoa thường gặp ở lợn
2.1.3.1. Bệnh viêm tử cung
Theo Nguyễn Hữu Phước (1992) [19] thì: Bệnh xảy ra trên cả ở lợn nội và
lợn ngoại. Tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào điều kiện vệ sinh môi trường, đặc biệt là
công tác vệ sinh thú y.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[7], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý
thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ
chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh
hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
 Nguyên nhân gây bệnh:
Theo Nguyễn Xuân Bình (1996) [2] cho biết: bệnh thường xảy ra vào thời
gian 1 - 10 ngày sau khi đẻ.
Theo tác giả Đào Trọng Đạt và cs (2000)[8], bệnh viêm tử cung ở lợn nái
thường do các nguyên nhân sau:
-

Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương

pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được
vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm.
-

Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc

mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền
sang cho lợn khoẻ.
-


Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử

cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.


9

-

Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung.

-

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sảy thai truyền nhiễm, phó

thương hàn, bệnh lao... gây viêm.
-

Do vệ sinh chuồng dành cho lợn nái đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái

trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều
kiện để xâm nhập vào gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng nhiễm
trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động đực (vì lúc đó
cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường máu và viêm tử cung là
một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Hồ Văn Nam và cs, 1997)[15].
Theo Madec và Neva (1995)[13], bệnh viêm tử cung và các bệnh ở đường
tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong
âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ

quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối
nhưng đã bị viêm tử cung.
Theo Đoàn Thị Kim Dung và cs, (2002) [6] cho biết: nguyên nhân gây ra
bệnh viêm tử cung chủ yếu do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) liên
cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella,
dung huyết E.coli, còn có thể do trùng doi (Trecbomonas fortus) và do nấm Candda
albicans.
Kết quả phân lập của Nguyễn Hữu Phước (1992) [19] cho thấy, tỷ lệ các
loại vi khuẩn gây viêm tử cung ở lợn nái như sau:
E.coli chiếm

26,7%

Prosus vuglgaris chiếm

16%

Steptococcus chiếm

34,5%

Klebsielle

10,2%

Staphylococcus chiếm

11,2%

Các loại khác:


2-7%


10

Các kết quả nghiên cứu của Bilen (1994) [3] cho biết: viêm tử cung thường
xảy ra trong lúc sinh do nhiễm khuẩn E.coli, Staphylococcus spp và Staphylococcus
aureus. Đây là nguyên nhân chính gây bệnh.
Lợn nái luôn mang vi khuẩn trong âm đạo nhưng không gây bệnh. Chỉ khi
đẻ cổ tử cung mở, chất dịch tiết chảy ra, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập, phát
triển (Nguyễn Hữu Phước, 1992) [19].
 Triệu chứng
-

Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [25] cho biết: khi lợn nái bị viêm, các chỉ

tiêu lâm sàng như: thân nhiệt, tần số hô hấp đều tăng. Lợn bị sốt theo quy luật: sáng
sốt nhẹ 39 - 39,50C, chiều 40 - 410C. Con vật ăn kém, sản lượng sữa giảm, có khi
con vật cong lưng rặn. Từ cơ quan sinh dục chảy ra hỗn dịch lẫn nhiều tổ chức, mùi
hôi tanh, có màu trắng đục, hồng hay nâu đỏ. Khi nằm lượng dịch chảy ra nhiều
hơn. Trong trường hợp thai chết lưu âm đạo sưng tấy, đỏ, có chứa dịch tiết màu
vàng sẫm, nâu và có mùi hôi thối. Xung quanh âm hộ và hai bên mông, gốc đuôi
dính bết niêm dịch, khi niêm dịch khô đóng thành vảy trắng, lợn nái mệt mỏi, đi lại
khó khăn, giảm ăn.
*

Các thể viêm tử cung

Theo Đặng Đình Tín (1986)[22], bệnh viêm tử cung được chia làm 3 thể:

viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.
-

Viêm nội mạc tử cung (Endometritis)

Trong quá trình gia súc đẻ, nhất là những trường hợp đẻ khó phải can thiệp
bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị sây sát, tổn thương, vi khuẩn xâm nhập
và phát triển gây viêm nội mạc tử cung.Theo Nguyễn Văn Thanh (1999)[ 23] đây là
một trong các nguyên nhân làm giảm khả năng sinh sản của gia súc cái, nó cũng là
thể bệnh phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong các bệnh của viêm tử cung. Khi niêm
mạc tử cung bị tổn thương các vi khuẩn Streptococcus, Staphylococcus, E.coli,
Salmonella, Cl. Pyogenes, Bruccella, roi trùng Trichomonas Foetus... xâm nhập và
tác động lên lớp niêm mạc gây viêm.
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000)[17], bệnh viêm nội mạc
tử cung có thể chia 2 loại:


11

+ Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ, chỉ gây tổn thương ở niêm
mạc tử cung.
+ Viêm nội mạc tử cung thể màng giả, tổ chức niêm mạc đã bị hoại tử, tổn
thương lan sâu xuống dưới tầng cơ của tử cung và chuyển thành viêm hoại tử.
-

Viêm cơ tử cung (Myometritis Puerperal is)

Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả. Theo
Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000)[17] cho biết: Niêm mạc tử cung bị
thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm

mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm
lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. Nếu bệnh nặng, can thiệp
chậm có thể dẫn tới nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm trùng hoặc huyết nhiễm
mủ. Có khi do lớp cơ và lớp tương mạc của tử cung bị phân giải mà tử cung bị
thủng hoặc tử cung bị hoại tử từng đám to.
Lợn nái bị bệnh này thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt
tăng cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hoặc mất hẳn. Mép âm đạo
tím thẫm, niêm mạc âm đạo khô, nóng màu đỏ thẫm. Gia súc biểu hiện trạng thái
đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu,
lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên có mùi tanh, thối. Con vật thường
kế phát viêm vú, có khi viêm phúc mạc, ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ
lần sau. Có trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
-

Viêm tương mạc tử cung (Perimetritis Puerperaỉi)

Viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ viêm cơ tử cung (Đặng Đình Tín
(1986))[22]. Thể viêm này thường cấp tính cục bộ, toàn thân xuất hiện những triệu
chứng điển hình và nặng. Lúc đầu lớp tương mạc tử cung có màu hồng, sau chuyển
sang đỏ sẫm, sần sùi mất tính trơn bóng. Sau đó các tê bào bị hoại tử và bong ra,
dịch thẩm xuất tăng tiết. Nếu bị viêm nặng, nhất là viêm có mủ, lớp tương mạc có
thể dính với các tổ chức xung quanh gây nên tình trạng viêm mô tử cung (thể
Parametritis), thành tử cung dày lên, có thể kế phát viêm phúc mạc.
Lợn nái biểu hiện triệu chứng toàn thân: Nhiệt độ tăng cao, mạch nhanh, con


12

vật ủ rũ, mệt mỏi, uể oải, đại tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn. Lượng
sữa rất ít hoặc mất hẳn, thường kế phát viêm vú. Con vật luôn biểu hiện trạng thái

đau đớn, khó chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm hộ thải ra ngoài rất nhiều
hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có màu nâu và mùi thối khắm. Khi kích thích
vào thành bụng thấy con vật có phản xạ đau rõ hơn, rặn nhanh hơn, từ âm hộ dịch
chảy ra nhiều hơn.Trường hợp một số vùng của tương mạc đã dính với các bộ phận
xung quanh thì có thể phát hiện được trạng thái thay đổi về vị trí và hình dáng của
tử cung, có khi không tìm thấy một hoặc cả hai buồng trứng. Nếu điều trị không kịp
thời sẽ chuyển thành viêm mãn tính, tương mạc đã dính với các bộ phận xung
quanh thì quá trình thụ tinh và sinh đẻ lần sau sẽ gặp nhiều khó khăn. Thể viêm này
thường kế phát bệnh viêm phúc mạc, bại huyết, huyết nhiễm mủ và dẫn đến tình
trạng mất khả năng sinh sản.
Bảng 2.1. Phân loại các thể viêm tử cung
Các thể viêm

Viêm nội

Viêm cơ tử

Viêm tƣơng

mạc tử cung

cung

mạc tử cung

Sốt

Sốt nhẹ

Sốt cao


Sốt rất cao

Màu dịch viêm

Trắng xám, trắng sữa

Hồng nâu đỏ

Nâu rỉ sắt

Mùi

tanh

Tanh thối

Thối khắm

Phản ứng đau

Đau nhẹ

Đau rõ

Đau rất rõ

Giảm

Rất yếu


Mất hẳn

Bỏ ăn hoàn toàn hoặc

Bỏ ăn hoàn

Bỏ ăn hoàn

một phần

toàn

toàn

Phản ứng co cơ
tử cung
Phản xạ ăn
 Hậu quả

Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục
của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất
lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002)[7] và Trần Thị Dân (2004)[5] khi lợn nái
bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:


13

-


Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai.

Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt
của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám
chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết
nhiều Prostaglandin, PGF2a gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám
vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao
quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ,
không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm
cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để
giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng Progesterone
giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào
thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển
kém hoặc chết lưu.
-

Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai

đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của
vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố
tạo sữa Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm,
thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc.
-

Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại.


Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2a giảm, do đó thể vàng
vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone.
Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát
triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được
và không thải trứng được.
Theo F.Madec và C.Neva (1995)[13]cho biết : ảnh hưởng rõ nhất trên lâm
sàng mà người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn viêm tử cung lúc sinh đẻ
là: chảy mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ


14

ảnh hưởng rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống
không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử
cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn
đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA,
từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo
viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.
Theo Lê Thị Tài và cs (2002) [21] cho rằng: đây là một bệnh khá phổ biến ở
gia súc cái. Nếu không được chữa trị kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thụ
thai và sinh sản.
Viêm tử cung là một trong những yếu tố gây vô sinh, rối loạn chức năng của
cơ quan sinh dục vì các quá trình viêm ở dạ con cản trở sự di chuyển của tinh trùng
tạo độc tố spermiolysin có hại cho tinh trùng. Các loại độc tố của vi khuẩn, vi trùng
và các dạng đại thực bào tích tụ gây bất lợi với tinh trùng, nếu có thụ thai được thì
phôi ở trong môi trường bất lợi cũng dễ bị chết non (Lê Văn Năm, 1999) [16].
Quá trình viêm xảy ra trong giai đoạn mang thai là do biến đổi bệnh lý trong
cấu trúc của niêm mạc (teo niêm mạc, sẹo trên niêm mạc, thoái hóa niêm mạc...)
dẫn đến phá vỡ hàng rào bảo vệ giữa bào thai và tử cung nên qua các chỗ tổn
thương vi khuẩn cũng như các độc tố do chúng tiết ra làm cho bào thai phát triển

không bình thường.
 Chẩn đoán
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng như: lợn không yên tĩnh, luôn có biểu hiện rặn.
Kiểm tra đường sinh dục nái bằng mỏ vịt, thấy cổ tử cung mở, từ tử cung, âm
đạo chảy ra nhiều dịch nhầy lẫn mù màu trắng đục mùi hôi khắm...
Trong trường hợp lợn nái mắc bệnh ở thế ẩn khó phát hiện có thể chấn đoán
lúc động dục thông qua số lượng dịch chảy ra nhiều đôi khi có những đám mủ chảy
từ cơ quan sinh dục ngoài chảy ra. Ngoài ra, lợn nái mắc bệnh thường khó thụ thai
(A.V.Trekaxova và cs, 1983) [28].
Có thể tìm muxin trong dịch nhày từ âm hộ chảy ra rồi cho vào 1ml dung
dịch axít axetic 1%, nếu phản ứng dương tính, muxin kết tủa là mắc bệnh và ngược
lại (Lê Văn Năm, 1999) [16].


15

 Biện pháp phòng và trị bệnh viêm tử cung
- Phòng bệnh
Vệ sinh chuồng nái đẻ sạch sẽ một tuần trước đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi
20 % sau đó rửa sạch bằng nước thường.
Khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú, phun sát trùng bằng dung
dịch Biocid - 30 pha với tỷ lệ 1/1000 lên mình gia súc.
Khi đỡ đẻ bằng tay cần có găng tay, tay được sát trùng kỹ bằng rượu, cồn,
bôi trơn vazolin hoặc dầu thực vật. Sau khi lợn đẻ xong phải bơm rửa bằng thuốc
sát trùng với nồng độ hợp lý. Sau đó tiêm kháng sinh vetrimoxin để chống viêm.
Trước khi cho lợn giao phối cần kiểm tra lợn đực xem có mắc bệnh không, vệ sinh
sạch sẽ bộ phận sinh dục của lợn đực và lợn nái. Nếu thụ tinh nhân tạo cần kiểm tra
dụng cụ, vệ sinh sát trùng dụng cụ, kiểm tra phẩm chất tinh dịch,...
- Biện pháp điều trị
Việc điều trị bệnh cần đạt được hai mục đích: phục hồi nguyên vẹn niêm mạc

tử cung và phục hồi chức năng co bóp của tử cung.
Tử cung có liên quan mật thiết với các cơ quan khác, trong đó có hệ thần
kinh- thể dịch. Bởi vậy, điều trị bệnh viêm tử cung bao gồm điều trị cục bộ và điều
trị toàn thân (Lê Văn Năm, 1999) [16 ].
+ Điều trị cục bộ: Thụt rửa tử cung bằng dung dịch nước muối 0,9% pha với
2ml Oxytocin.
+ Điều trị toàn thân
Phác đồ điều trị 1
Vetrimoxin : 1ml/10 kg/ ngày. Tiêm bắp. Sau 48h tiêm nhắc lại. Tiêm 3 mũi.
Oxytocin: 3ml/con/ngày. Tiêm ở mép âm môn. Sau 24 tiêm nhắc lại. Tiêm 3 mũi.
Phác đồ điều trị 2
Pendistrep: 1ml/10kg/ngày. Tiêm bắp. Sau 72h tiêm nhắc lại. Tiêm 2 mũi.
Oxytocin: 3ml/con/ngày. Tiêm ở mép âm môn. Sau 24 tiêm nhắc lại. Tiêm 3 mũi.


16

2.1.3.2. Bệnh sảy thai
Theo NTT - (VCN) (2010)[40] thì Abortion hay embryoloss là thuật ngữ
chuyên môn nói về bệnh sảy thai ở lợn. Đây là căn bệnh thường diễn ra ngay sau khi
thụ thai hoặc khi đang mang thai nhưng lại ít được quan tâm, tỷ lệ sảy thai khoảng 2%
nhưng cũng có thể tăng lên tới 20% nên tổn thất về mặt kinh tế rất lớn.
Ba giai đoạn thường gặp
- Trong giai đoạn thụ thai đến khi bám chắc được vào thành dạ con.
- Trong giai đoạn bám vào thành dạ con sau 14 ngày thụ thai đến khi được 35
ngày tuổi.
- Giai đoạn thuần thục của bào thai, điều này có nghĩa là sảy thai có thể xảy ra bất
kỳ khi nào, sau 14 ngày thụ thai cho đến hết giai đoạn 110 ngày mang thai ở lợn.
Theo số liệu thống kê thì rủi ro sảy thai ở lợn còn có những nguyên nhân sau:
- Do tuổi thọ và sức khoẻ của lợn bố, mẹ

- Nhiệt độ chuồng trại quá nóng.
- Tiết dịch, máu qua đường âm đạo.
- Sự què quặt sức khoẻ quá yếu của bào thai.
- Lợn mẹ hay mắc chứng viêm bầu vú, ít sữa, vú hay bị viêm nhiễm, sưng.
- Có tiền sử hay bị sảy thai, con bị chết lưu hoặc chết sau khi sinh.
- Điều kiện chăn nuôi ăn uống kém.
- Lợn mẹ bị sa ruột, sa âm đạo.
- Lợn mẹ hung dữ.
 Nguyên nhân
Theo Phòng Kỹ Thuật Công Ty NHÂN LỘC – ROVETCO (2009)[41], có
rất nhiều nguyên nhân gây sảy thai, trong đó có 2 nguyên nhân chính:
Sảy thai không do bệnh truyền nhiễm: Do bản thân heo nái và bào thai phát
triển không bình thường, điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng không tốt; thức ăn,
nước uống không được cung cấp đầy đủ về chất và lượng.
+ Thai và các màng bọc phát triển không bình thường; lợn mẹ bị viêm tử
cung, rối loạn nội tiết tố trong quá trình mang thai hay mắc một số bệnh khi mang
thai; tinh trùng yếu, thai tuy đậu nhưng không đủ sức phát triển tiếp tục và bị chết.


17

+ Số lượng và chất lượng thức ăn, nước uống không tốt. Độc tố nấm mốc
zearalenone và zearaleno cản trở quá trình thụ thai và phôi bám vào tử cung gây vô
sinh, chết phôi, lợn con sinh ra yếu. Một loại độc tố nấm mốc khác, fumonisin gây
viêm phù phổi cấp tính trên lợn, lợn nái khi khỏi bệnh cấp tính, thường bị sảy thai
sau 2 – 3 ngày.
+ Thức ăn thiếu 1 số vitamin và khoáng chất. Thiếu vitamin B2 có thể gây
sinh non 14 – 16 ngày. Thiếu vitamin A, thường gây sảy thai ở tháng cuối của giai
đoạn mang thai, lợn con sinh ra yếu. Thiếu vitamin E ở giai đoạn đầu thì thai
thường bị tiêu hoặc bị chết, ở tháng cuối thường sinh non. Thiếu Ca, Fe, Mn, Iot có

liên quan tới việc lợn chết lúc sinh và lợn con sinh ra yếu ớt.
+ Điều kiện chuồng nuôi và chăm sóc kém: Chuồng nuôi nóng, lợn nái vận
động quá mạnh, bị đánh đập, ngộ độc. Nhiệt độ cao (>320C) có liên quan với tăng
số lần lên giống giả, tăng tỷ lệ chết phôi, giảm tỷ lệ sinh và trọng lượng lợn con sơ
sinh thấp. Ảnh hưởng nặng nề nhất vào giai đoạn phôi bám vào tử cung hoặc khi
lợn sinh sản.
Sảy thai do bệnh truyền nhiễm: Các bệnh truyền nhiễm chính gây sảy thai ở
lợn nái là PRRS, Parvovirus, giả dại, Brucellosis,…
+ Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp (PRRS). PRRS do Arterivirus gây
ra. Hầu hết các chủng PRRS không đi qua nhau thai cho đến sau 90 ngày mang thai,
nên các trường hợp sảy thai thường xảy ra vào cuối thai kì. Lợn nái thường bỏ ăn,
sốt vài ngày rồi sinh non khoảng 2 – 3 tuần trước khi đẻ, lợn con chết tươi hoặc chết
khô, lợn con sinh ra yếu ớt, dễ mắc bệnh hô hấp. Lợn nái chậm lên giống trở lại.
+ Parvovirus. Parvovirus do Porcine Parvovirus gây ra. Lợn cảm nhiễm ở
giai đoạn bắt đầu của thời kỳ mang thai thì gây chết phôi và lợn nái chậm lên giống,
giảm số lợn trong lứa đẻ do chết một phần phôi. Khi cảm nhiễm phôi sau ngày 35
của kỳ có mang (lúc bắt đầu canxi hóa xương sườn) sự hóa gỗ có thể xảy ra ở một
số phôi thai hay toàn bộ, thai chết ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau nên kích
thước thai gỗ cũng khác nhau. Nếu cảm nhiễm chậm hơn sẽ sinh ra những lợn con
chết lúc mới sinh.


18

+ Bệnh giả dại. Giả dại do virus Aujeszky gây ra. Lợn nái bị nhiễm virus vào
đầu thai kỳ có thể bị lên giống trở lại do thai chết và bị hấp thụ. Nếu bị nhiễm vào
giữa thai kỳ thì có thể bị sinh non và sinh ra thai khô, còn nhiễm vào giai đoạn cuối
thì sẽ bị sinh non, lợn con chết non hoặc ốm yếu, còi cọc, run rẩy.
+ Brucellosis. Bệnh do nhiễm Brecella suis. Nếu lây qua quá tình giao phối
hay thụ tinh thì sẽ gây sảy thai. Nếu nhiễm muộn hơn thì thường gây chết lưu thai,

đẻ non hoặc đẻ con tỷ lệ chết cao, khó nuôi. Trước khi sảy thai lợn nái tiêu chảy,
mệt mỏi, không ăn, âm hộ sưng có nhiều dịch màu vàng hoặc lẫn máu đỏ chảy ra từ
âm hộ, lợn nái nhiễm bệnh thường sảy thai từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 12.
 Triệu chứng
Sảy thai hoàn toàn: Toàn bộ thai được tống ra ngoài trước thời kỳ sinh đẻ,
cũng có thể toàn bộ thai hoặc phôi bị tiêu hút, xác khô và nằm lại trong tử cung.
Sảy thai không hoàn toàn:
Một số thai được đẩy ra ngoài trước lúc đến ngày đẻ còn các thai khác vẫn
phát triển bình thường.
Một số thai bị tiêu hút được đẩy ra hoặc nằm lại trong đường sinh dục, một
số thai khác vẫn phát triển bình thường.
 Hậu quả
- Làm giảm số lợn con sinh ra còn sống
- Làm giảm năng suất sinh sản của nái làm cho lợn mẹ bị mất sữa
- Sức khỏe lợn nái bị giảm sút
- Gây ra bệnh đường sinh dục
- Số ngày nuôi lãng phí
=> Làm giảm hiệu quả kinh tế
 Chẩn đoán
Theo Phòng Kỹ Thuật Công Ty NHÂN LỘC – ROVETCO (2009)[41] thì:
Ngay sau khi lợn bị sảy thai, mang ngay thai này đi xét nghiệm để tìm ra nguyên
nhân gây viêm nhiễm do virus hoặc do khuẩn, đồng thời tiến hành kiểm tra tiền sử
của lợn và nghiên cứu các yếu tố độc hại do môi trường, thức ăn gây ra.


×