MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề quản lý chất thải nói chung và quản lý chất thải nguy hại nói riêng hiện
tại ở Việt Nam là vấn đề rất nhạy cảm bởi vì chất thải sinh ra ngày càng nhiều,
trong đó lượng chất thải nguy hại là đáng kể. Các hóa chất độc hại tồn lưu trong
chiến tranh, các loại thuốc bảo vệ thực vật không còn giá trị sử dụng hiện còn tồn
đọng khá nhiều bắt buộc chúng ta phải xử lý, trong khi đó năng lực quản lý chất
thải nguy hại nói chung và xử lý chất thải nguy hại nói riêng của chúng ta bên cạnh
những ưu điểm vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Trong nội dung bài viết
của mình, em xin trình bày vấn đề sau Đề 36: “Ưu điểm và hạn chế của các quy
định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.”
1
NỘI DUNG
I.
1.
Cơ sở lý luận
Khái niệm chất thải nguy hại
Theo quy định tại Khoản 12 Điều 3 Luật BVMT2014 thì “chất thải” được hiểu
là “vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt
động khác” và thế nào là “chất thải nguy hại” được quy định tại Khoản 13 Điều 3
Luật này, theo đó:
“Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ
cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác.”
2.
Khái niệm quản lý chất thải nguy hại
Theo quy định tại Khoản 15 Điều 3 Luật BVMT thì “quản lý chất thải” là quá
trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử
dụng, tái chế và xử lý chất thải. Như vậy, ta có thể hiểu rằng, “quản lý chất thải
nguy hại” là các hoạt động liên quan đến việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân định,
phân loại, tái sử dụng trực tiếp, lưu giữ tạm thời, vận chuyển và xử lý chất thải
nguy hại.Pháp luật về quản lý chất thải là một bộ phận của pháp luật môi trường,
trong đó các quy phạm pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong
hoạt động quản lý chất thải nguy hại như: Thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu giữ,
xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe con
II.
1.
người.
Khái quát về pháp luật quản lý chất thải nguy hại.
Nội dung pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Pháp luật môi trường hiện tại có quy định khá chặt chẽ và chi tiết các điều kiện
để quản lý chất thải nguy hại và các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với mỗi
công đoạn của quá trình quản lý chất thải nguy hại.
Nội dung các quy định như sau:
2
Chủ nguồn chất thải nguy hại phải lập hồ sơ về chất thải nguy hại và đăng ký
với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp tỉnh. Chỉ tổ chức, cá nhân
có đủ điều kiện và có giấy phép mới được xử lý chất thải nguy hại (Điều 90 Luật
BVMT)
Việc phân loại, thu gom, lưu giữ trước khi xử lý chất thải nguy hại phải được
tiến hành theo cách: Chủ nguồn chất thải nguy hại phải tổ chức phân loại, thu gom,
lưu giữ và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; trường hợp chủ nguồn chất
thải nguy hại không có khả năng xử lý chất thải nguy hại đạt quy chuẩn kỹ thuật
môi trường phải chuyển giao cho cơ sở có giấy phép xử lý chất thải nguy hại. Chất
thải nguy hại phải được lưu giữ trong phương tiện, thiết bị chuyên dụng bảo đảm
không tác động xấu đến con người và môi trường( Điều 91 Luật BVMT)
Xuất phát từ đặc tính nguy hại của chất thải nguy hại mà việc vận chuyển chất
thải nguy hại phải tuân thủ những quy định riêng. Chất thải nguy hại phải được vận
chuyển bằng phương tiện, thiết bị chuyên dụng phù hợp và được ghi trong giấy
phép xử lý chất thải nguy hại( Điều 92 Luật BVMT).
Kế thừa các nội dung cơ bản về quản lý chất thải nguy hại của Luật BVMT
năm 2005, Luật BVMT năm 2014 đã quy định rõ hơn về điều kiện của cơ sở xử lý
chất thải nguy hại (Điều 93 Luật BVMT). Điểm mới của quy định về quản lý chất
thải nguy hại là Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định danh mục chất thải nguy
hại và cấp phép xử lý chất thải nguy hại; xác định rõ nội dung quản lý chất thải
nguy hại trong quy hoạch BVMT do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây
dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Với các quy định này, quản lý chất
thải có tính thống nhất với trách nhiệm đầu mối là Bộ Tài nguyên và Môi trường;
cấp tỉnh không còn được cấp phép xử lý chất thải nguy hại.
3
Từ đây chúng ta có thể thấy việc quản lý chất thải nguy hại có những đặc trưng
khác biệt so với hoạt động quản lý chất thải thông thường.Thứ nhất, quản lý chất
thải nguy hại là những hoạt động đòi hỏi sự tập trung nguồn lực kĩ thuật và tài
chính lớn;Thứ hai, quản lý chất thải nguy hại là những hoạt động được thực hiện
với quy trình nghiêm ngặt và những đòi hỏi khắt khe;Thứ ba, hoạt động quản lý
chất thải nguy hại là hoạt động đòi hỏi cao về chuyên môn;Thứ tư, quản lý chất
thải nguy hại là hoạt động đòi hỏi sự can thiệp mạnh tay và thường xuyên của nhà
nước.
2.
Thực trạng về pháp luật quản lý chất thải nguy hại.
Sự phát triển của các loại hình công nghiệp, sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng,
hưởng thụ vật chất… đã dẫn đến tình trạng một lượng lớn chất thải được thải ra
môi trường trong đó có các chất thải nguy hại và độc hại. Ngoài ra, cuộc chiến
tranh diễn ra liên miên tại Việt Nam cũng góp phần đưa một lượng lớn chất độc hại
vào môi trường, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh với Đế quốc Mĩ, chúng ta đã bị
kẻ thù trải một lượng lớn hóa chất độc hại màu da cam trên một khu vực rộng lớn
mà hệ lụy của nó đến ngày nay vẫn chưa giải quyết được triệt để.
Về chất thải rắn nguy hại, theo báo cáo của Sở TN&MT các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, lượng chất thải nguy hại phát sinh trên toàn quốc khoảng
800 ngàn tấn/năm. Hiện nay, đa phần các chủ nguồn thải có phát sinh lượng chất
thải nguy hại lớn hàng năm đều đã đăng ký và được cấp Sổ đăng ký chủ nguồn thải
chất thải nguy hại. Lượng chất thải nguy hại phát sinh từ các chủ nguồn thải này
đều đã được thu gom và đưa đến các cơ sở đã cấp phép để xử lý.
Đồng thời, trên toàn quốc có 83 doanh nghiệp với 56 đại lý có địa bàn hoạt
động từ hai tỉnh trở lên đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép và khoảng
130 đơn vị vận chuyển chất thải nguy hại do các địa phương cấp phép đang hoạt
4
động. Các cơ sở này trong thời gian qua đã đóng vai trò chính trong việc thu gom,
vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn
hiện hành. Bên cạnh đó, công nghệ xử lý chất thải nguy hại của Việt Nam trong
những năm vừa qua đã có những bước phát triển đáng kể, tuy nhiên, về cơ bản, các
công nghệ hiện có của Việt Nam còn chưa ở mức tiên tiến, chỉ đáp ứng được phần
nào nhu cầu xử lý chất thải nguy hại của Việt Nam.
Tại Việt Nam lượng chất thải nguy hại phát sinh ngày càng nhiều,các hóa chất
độc hại lưu tồn trong chiến tranh, các loại thuốc bảo vệ thực vật không còn giá trị
sử dụng đang tồn đọng với số lượng không nhỏ…đòi hỏi phải xử lý, trong khi đó
năng lực quản lý chất thải nguy hại của nước ta còn quá yếu.Hiện nay việc quản lý
chất thải nguy hại đã có những nét mới tiến bộ hơn là đã đưa ra các cách thức quản
lý khác nhau và đặc biệt chú trọng tới việc phối hợp các chiến lược giảm nguồn
thải,tái sử dụng,tái chế chất thải nguy hại với thu gom chôn lấp và tiêu hủy. Tuy
nhiên hiện nay việc phân loại rác tại nguồn đối với chất thải nguy hại công nghiệp
và y tế mới đang được thực hiện một cách hạn chế,chất thải nguy hại sinh hoạt mới
đang trong giai đoạn thực hiện phân loại thử nghiệm ở một số địa phương.Hoạt
động tái chế chất thải nguy hại cũng đạt được kết quả rất thấp do các chất thải
nguy hại ít được phân loại tại nguồn.Mặt khác hoạt động này phần lớn do tư nhân
đảm nhiệm,với trình độ kĩ thuật thấp,cơ sở vật chất nghèo nàn,quy mô hoạt động
nhỏ và sự kiểm soát lỏng lẻo từ phía các cơ quan chức năng nên chất lượng tái chế
các chất thải nguy hại thấp,nhiều trường hợp chưa loại bỏ được hoàn toàn các đặc
tính gây nguy hại của chất thải,gây ảnh hưởng xấu cho môi trường và sức khỏe
người tiêu dung khi sử dụng các sản tái chê từ chất thải nguy hại.Bên cạnh đó việc
xử lý chất thải nguy hại không tái chế được ở nước ta cũng là một vấn đề đáng
bàn.Ở nước ta chủ yếu xử lý chất thải theo phương pháp đốt,song các là đốt rác ở
Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng đủ lượng rác thải nguy hại cần phải xử lý.Vì vậy
mà các chất thải nguy hại từ nông nhiệp và sinh hoạt hiện vẫn được chôn lấp chung
5
với chất thải thông thường.Tất cả những thực trạng trên đang đặt ra vấn đề cần
hoàn thiện hơn nữa về vấn đề quản lý chất thải nguy hại mà đầu tiên đó chính là hệ
thống pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
Chúng ta còn thiếu những văn bản cần thiết về mặt pháp luật và chính sách.
Chúng ta cần có thêm nhiều những văn bản cụ thể hơn nữa cho từng khâu trong
quản lý chất thải nguy hại, từ việc phân loại tại nguồn, thu gom, lưu trữ, vận
chuyển, tái sử dụng, tái chế cho đến khâu xử lý cuối cùng. Về mặt cơ chế, chính
sách, chúng ta chưa có gì cụ thể để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư,
tham gia vào việc xử lý chất thải nguy hại.
III.
1.
Ưu điểm, hạn chế của các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
Ưu điểm
Hiện nay các văn bản pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở nước ta khá đa
dạng đã tạo ra hành lang pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả quản lý trong hoạt
động này. Thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp lý quy định về trách nhiệm của
cơ quan Nhà nước về môi trường; quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân liên
quan đến chất thải nguy hại. Pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã phân định rõ
quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước
đối với vấn đề này đạt hiệu quả cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành
vi, xử sự của các chủ thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến chất thải nguy
hại. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng chất thải nguy hại vào môi
trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe con người
cũng như môi trường sống. Các quy định của pháp luật ngày càng rõ ràng và cụ thể
đã làm cho người dân hiểu pháp luật, nâng cao ý thức của họ. Người dân sẽ tự giác
thực hiện những hành vi có ích cho môi trường.
Thứ nhất pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã có những quy định cụ
thể về quyền hạn trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý chất
6
thải nguy hại.Đã có quy định về sự phối hợp giữa các cơ quan này trong hoạt động
quản lý chất thải nguy hại,Trong cấp phép,đăng ký chủ nguồn thải…
Hai là pháp luật đã quy định cụ thể về trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt
động quản lý chất thải nguy hại giúp cho các chủ thể thực hiện tốt nghĩa vụ của
mình qua đó bảo vệ môi trường tốt hơn.
Thứ ba , pháp luật quản lý chất thải nguy thông qua việc định hướng xử sự cho
các cơ quan Nhà nước , các tổ chức, cá nhân trong quá trình phát sinh, thu gom,
vận chuyển và sử lý chất thải nguy hại đồng thời ràng buộc các chủ thể này vào
những chế tài cụ thể.Vì vậy Pháp luât quản lý chất thải nguy hại không chỉ góp
phần giảm thiểu được lượng chất thải nguy hại vào môi trường mà còn phòng
ngừa, hạn chế những tác động bất lợi khác. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
có các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại.Tùy
theo mức độ vi phạm thì các chủ thể vi phạm có thể bị xử lý theo trách nhiệm hành
chính,trách nhiệm dân sự hay là trách nhiệm hình sự…Qua đó góp phần ngăn
ngừa giáo dục cá nhân tổ chức giúp mọi người có ý thức hơn trong việc quản lý
chất thải nguy hại cũng như trong việc bảo vệ môi trường.
Thứ tư pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã có sự kết hợp giữa biện pháp
pháp lý và biện pháp kinh tế trong quản lý chất thải nguy hại.Thực tế cho thấy rằng
công cụ kinh tế có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường nói chung và
trong hoạt động quản lý chất thải nói riêng.Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
đã có những quy định về sử dụng công cụ kinh tế trong hoạt động quản lý chất thải
nguy hại.Như việc áp dụng phí môi trường,các chính sách miễn giảm thuế,hỗ trợ
ưu đãi cho các chủ thể thực hiện tốt việc quản lý chất thải nguy hại; áp dụng thuế
cao đối với những sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường hoặc sức khỏe
con người ở mức độ cao; hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư
7
trang thiết bị công nghệ thân thiện môi trường…Chính các quy định này của pháp
luật đã góp phần thúc đẩy các chủ thể nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về quản
lý chất thải nguy hại nói riêng và pháp luật bảo vệ môi trường nói chung.
Thứ năm, pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã có các quy định về việc
ứng dụng khoa học công nghệ,kĩ thuật tiên tiến trong quản lý chất thải nguy hại nói
riêng và bảo vệ môi trường nói chung.Điều này đã góp phần thúc đẩy khoa học kĩ
thuật phát triển cũng như quản lý tốt hơn nữa chất thải nguy hại và sức khỏe con
người cũng như môi trường trong sạch.
Thứ sáu pháp luật môi trường nước ta đã quan tâm đến vấn đề hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực môi trường.Hiện nay nước ta đã là thành việc của nhiều công ước
quốc tế về bảo vệ môi trường như:Công ước luật biển 1982;Công ước về bảo tồn
đa dạng sinh học…Pháp luật là công cụ hữu hiệu để nhà nước nội luật hóa các quy
định của công ước và thực hiện chúng trên thực tế.Trên cơ sở các điều ước quốc tế
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như:Luật bảo vệ môi trường, Luật bảo
vệ đa dạng sinh học …
2.
Hạn chế.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về quản lí chất thải nguy hại của chúng ta
vẫn còn chưa hoàn thiện.
Chế tài xử phạt còn nhẹ đối với các hành vi vi phạm. Việc quy định các mức
phạt hành chính trong hoạt động quản lý chất thải nguy hại là thấp so với mức độ
ảnh hưởng của nó đến môi trường,sức khỏe con người và sự tác động vào các nhân
tố,tổ chức vi phạm là không đủ sức răn đe. Về trách nhiệm hình sự các chế tài đối
với các tội phạm môi trường trong bộ luật hình sự là nhẹ so với hậu quả của các
hành vi vi phạm nên không đủ sức răn đe.
8
Công tác quản lý chất thải nguy hại còn gặp phải một số khó khăn như hiện
nay hoạt động tái chế đang phát triển rất đa dạng và cho nhiều loại chất thải nguy
hại khác nhau, nhưng thực tế một số loại hình tái chế chất thải nguy hại chưa có
quy chuẩn quốc gia về môi trường để làm cơ sở đánh giá, giám sát trong quá trình
thẩm định cấp phép và quản lý trong quá trình hoạt động sau cấp phép.
Đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người sản sinh chất thải
nguy hại nhìn chung là đã đáp ứng được thực tiễn đặt ra nhưng vần còn những hạn
chê đó là việc quy đỉnh rất chung chung.
Quy định phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn
nhưng lại không quy định những biện pháp cụ thể. Đối với việc giảm thiểu chất
thải nguy hại ngay từ nguồn là rất phù hợp, là một biện pháp giải quyết tiến bộ nên
quy định những biện pháp rõ ràng cụ thể vì nếu các chủ thể tiến hành xử lí chất
thải từ nguồn mà áp dụng không đúng các biện pháp thì có thể gây ra những hậu
quả nặng nề cho môi trường nên cần quy định rõ các biện pháp cụ thể. Chất thải rất
đa dạng phong phú, mỗi loại lại có những biện pháp xử lí riêng nên công việc này
khá phức tạp đòi hỏi pháp luật cần điều chỉnh và can thiệp cụ thể hơn nữa. Phải tổ
chức lưu giữ tạm thời trong thiết bị chuyên dụng, đóng gói chất thải nguy hại theo
chủng loại theo các bao bì thích hợp đáp ứng các yêu cầu an toàn kĩ thuật” Nhưng
bên cạnh đó còn một vấn đề nảy sinh một vấn đề là việc lưu giữ tạm thời với các
đối tượng sản sinh là rất tốn kém. Vì việc lưu giữ chất thải nguy hại là một vấn đề
khá phức tạp phải có những dụng cụ, theo một quy trình kĩ thuật xử lí công phu đòi
hỏi phải có chi phí kinh tế lớn mà với cơ sở sản sinh thì rất khó để những đối tượng
này chi ra một khoản tiền lớn như vậy.
Thiếu quy định về việc quyết định các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy ra
trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại. Pháp luật chỉ quy định là tự chịu
9
trách nhiệm còn chịu trách nhiệm cụ thể như thế nào thì chưa quy định rõ.
Việc quy định về phương tiện vận chuyển còn lỏng lẻo. Pháp luật chỉ quy định
bằng phương tiện chuyên dụng phù hợp để xác định một phương tiện đủ tiêu chuẩn
để vận chuyển chất thải nguy hại thì chưa có những tiêu chuẩn cụ thể.
Vấn đề vốn công nghệ và trình độ công nghệ còn gặp nhiều khó khăn. Về cơ
bản nguồn vốn đầu tư cho quản lí chất thải đặc biệt là xử lí chât thải còn hạn hẹp,
trong khi đó nhu cầu quản lí đòi hỏi phải có đầu tư lớn và tập trung. Hơn thế nữa
công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu là nguyên nhân khiến chất thải không được
xử lí triệt để.
Nhận thức của cộng đồng về công tác bảo vệ môi trường và xử lí chất thải còn
yếu kém. Người dân hầu như không nhận thức được tác hại của rác thải và sự ảnh
hưởng của rác thải với sức khỏe và môi trường sống, ý thức bảo vệ môi trường
chưa cao. Người dân thường quan niệm quản lí chất thải là công việc của nhà
nước, pháp luật, chính vì vậy tình trạng xả rác bừa bãi còn phổ biến.
3.
Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Thứ nhất, tăng cường hợp tác quốc tế học hỏi kinh nghiệp trong quản lý chất
thải nguy hại của các quốc gia trên thế giới.Cần tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm của
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới về quản lý chất thải nguy hại để tìm ra
các giải pháp phù hợp với điều kiện đất nước trong thời kì hội nhập.Hợp tác thống
nhất thực hiện việc vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới và việc xử lý
chất thải nguy hại ở nước ngoài.Tham gia xây dựng và thực hiện các điều ước quốc
tế về lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại,thể hiện ý chí của nhà nước trong việc
quản lý chất thải nguy hại trên thế giới nói chung và tại quốc gia mình nói riêng.
Thứ hai, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế
trong quản lý chất thải nguy hại.Pháp luật cần quy định cụ thể hơn về trường hợp
10
được miễn, giảm thuế đối với hoạt động quản lý chất thải nguy hại,cần bổ sung
quy định về các trường hợp miễn,giảm thuế khi thực hiện giảm thiểu hay tái sử
dụng trực tiếp chất thải nguy hại; Cần ưu đãi hỗ trợ thêm cho hoạt động phòng
ngừa và giảm thiểu chất thải nguy hại.
Thứ ba, cần hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về quản lý chất
thải.Một là, trong xử phạt hành chính trước tiên cần sửa đổi mức phạt đối với các
chủ thể vi phạm.Phải nâng cao mức phạt ít nhất bằng với lợi nhuận mà chủ nguồn
thải nhận được từ hành vi vi phạm.Cần bổ sung các biện pháp xử lý hành chính đối
với hành vi mua bán chất thải nguy hại.Hai là, quy định trách nhiệm đối với tội
phạm trong luật hình sự.Mức phạt đối với các tội danh về quản lý chất thải nguy
hại trong bộ luật hình sự còn quá thấp cần phải sửa đổi theo hướng hình phạt nặng
hơn để đủ sức răn đe đối với cá nhân, tổ chức vi phạm.
KẾT LUẬN
Chất thải nguy hại luôn là một trong những vấn đề môi trường trầm trọng nhất
mà con người dù ở bất cứ đâu cũng phải tìm cách để đối phó. Nhất là Việt Nam
chúng ta là một quốc gia đang phát triển, vấn đề quản lý chất thải nguy hại là hết
sức cần thiết, đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt để đối phó ngay một cách
nghiêm túc, kịp thời trước khi vấn đề trở nên trầm trọng. Do vậy, pháp luật về quản
lý chất thải nguy hại ở Việt Nam cần được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng được
nhu cầu bảo vệ môi trường nói chung, quản lý chất thải nói riêng.
1.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình “Luật Môi trường” – trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an
2.
Nhân dân.
Giáo trình“Quản lý chất thải nguy hại”- Công ty môi trường tầm nhìn xanh.
11
3.
“Pháp Luật Về Quản Lý Chât Thải Nguy Hại Tại Việt Nam”- Nguyễn Thị
4.
Phượng, Khóa luận tốt nghiệp,Hà nội, 2012.
“Xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam”
5.
Vũ Thị Duyên Thủy, Luận án tiến sĩ luật học,2009.
“Đánh giá tình hình quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam và đề xuất giải
pháp phù hợp để hoàn thiện về thể chế chính sách quản lý chất thải nguy hại
6.
7.
ở Việt Nam” – Lê Thị Bích Thủy
Luật Bảo vệ Môi trường 2014
Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về quản
lý chất thải nguy hại.
12