Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Người cao tuổi trong gia đình việt nam trong bối cảnh già hóa dân số và biến đổi xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 179 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ NGỌC LÂN

NGƢỜI CAO TUỔI
TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH GIÀ HÓA DÂN SỐ
VÀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
Chuyên ngành: XÃ HỘI HỌC
Mã số: 62 31 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS NGUYỄN HỮU MINH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN

Có được thành quả nghiên cứu này, tác giả Xin chân thành cảm ơn:
GS. TS Nguyễn Hữu Minh, người hướng dẫn khoa học đã có những gợi
ý, nhận xét góp ý cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu!
Chân thành cảm ơn Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Học
viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện để tôi được tham gia khóa
đào tạo NCS!
Chân thành cảm ơn các đồng nghiệp đã chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ
nghiên cứu thực tế, thông tin và kỹ thuật trong quá trình thực hiện


nghiên cứu này!
Xin được tri ân đến Bạn bè, người thân đã động viên, khích lệ giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu những năm qua!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình Luận án tiến sĩ do tôi thực hiện
và chưa từng công bố ở một nơi nào khác.
Hà nội, ngày 4 tháng 11 năm 2016
Tác giả Luận án

Lê Ngọc Lân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

10

1.1 Các nghiên cứu quốc tế và trong khu vực

12

1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước

21


CHƢƠNG 2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU

32

2.1 Các khái niệm cơ bản

32

2.2 Cơ sở lý thuyết và cách tiếp cận nghiên cứu

41

2.2.1 Tiếp cận từ góc độ Lý thuyết vị thế vai trò

42

2.2.2 Từ góc độ Lý thuyết hiện đại hóa

45

CHƢƠNG 3. MỐI QUAN HỆ VỀ ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT GIỮA NGƢỜI
CAO TUỔI VÀ CON CHÁU TRONG GIA ĐÌNH

52

3.1 Một số nét cơ bản về đời sống vật chất của người cao tuổi hiện nay

52


3.1.1 Mức sống và điều kiện sống của người cao tuổi

52

3.1.2 Các nguồn thu nhập và mức độ đảm bảo cuộc sống

54

3.2 Vai trò kinh tế và sự hỗ trợ của người cao tuổi trong gia đình

61

3.2.1 Người cao tuổi và các hoạt động kinh tế hiện nay

61

3.2.2 Cùng con cái góp phần tạo thu nhập cho gia đình

62

3.2.3 Các hình thức hỗ trợ con cái

65

3.3 Sự chu cấp, hỗ trợ của con cái với cha mẹ cao tuổi về đời sống vật chất

71

3.3.1 Các hình thức hỗ trợ của con cái với cha mẹ


71

3.3.2 Mức độ chu cấp, hỗ trợ cho cha mẹ

79

CHƢƠNG 4. MỐI QUAN HỆ VỀ ĐỜI SỐNG TINH THẦN TÌNH CẢM
GIỮA NGƢỜI CAO TUỔI VÀ CON CHÁU TRONG GIA ĐÌNH

84

4.1 Một số hoạt động và hưởng thụ văn hóa tinh thần của người cao tuổi

84

4.2 Mức độ trò chuyện, lắng nghe tâm sự giữa NCT và con cháu

87

4.3 Con cái lắng nghe, tâm sự với cha mẹ cao tuổi

93

4.4 Người cao tuổi trong mối quan hệ với các cháu trong gia đình

102


CHƢƠNG 5. CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI TRONG GIA ĐÌNH

VIỆT NAM HIỆN NAY

112

5.1 Các thế hệ trong gia đình chăm sóc người cao tuổi

112

5.1.1 Người cao tuổi chăm sóc nhau

112

5.1.2 Con cháu chăm sóc người cao tuổi

117

5.2 Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi trong gia đình

120

5.2.1 Tình trạng sức khỏe và bệnh tật của người cao tuổi

120

5.2.2 Con cháu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi

123

5.3 Một số vấn đề đặt ra trong chăm sóc người cao tuổi


127

5.3.1 Những khó khăn của gia đình hiện nay

127

5.3.2 Biến đổi xã hội và việc chăm sóc người cao tuổi hiện nay

132

KẾT LUẬN

140

TÀI LIỆU THAM KHẢO

149

Phụ lục 1. Một số bảng biểu số liệu được sử dụng trong phân tích

156

Phụ lục 2. Một số sản phẩm liên quan đến nội dung luận án đã công bố

171


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HNCT
NCT

NHTG
NTL
NT
TCTK
TT
TP HCM
UBQGNCT
UNESCO
UNICEF
UNFPA
VLSS
WHO

Hội người cao tuổi
Người cao tuổi
Ngân hàng Thế giới
Người trả lời
Nông Thôn
Tổng cục Thông kê
Thành thị
Thành phố Hồ Chí Minh
Ủy ban Quốc gia người cao tuổi Việt nam
Tổ chức Văn hoá, khoa học giáo dục Liên hợp
quốc
Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc
Quỹ dân số Liên hợp quốc
Điều tra mức sống Hộ gia đình
Tổ chức Y tế Thế giới



DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng

Tên bảng

Bảng 1.1

Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi, 15-64 tuổi, 60 tuổi trở lên, 65 tuổi
trở lên và chỉ số già hóa, 1989 - 2014
Dự báo xu hướng biến đổi dân số cao tuổi (% tổng dân số)

10

Tỷ lệ người cao tuổi có các nguồn thu nhập chia theo giới tính
Tỷ lệ người cao tuổi có góp phần tạo thu nhập cho gia đình
phân theo các nhóm của người cao tuổi
Mô hình hồi quy về tác động của các yếu tố đến việc trợ giúp
con cái của NCT
Mô hình hồi quy về tác động của các yếu tố đến việc trợ giúp
con cái của NCT bằng phổ biến kinh nghiệm
Cha mẹ đẻ hỗ trợ con cái về vốn, kinh nghiệm sản xuất kinh
doanh
Tỷ lệ hỗ trợ tiền bạc cho cha mẹ đẻ phân theo đặc trưng của
con cái
Mô hình hồi quy các yếu tố tác động đến việc hỗ trợ tiền/hiện
vật cho cha mẹ

57
63


85
86

Bảng 4.9

Mức độ hoạt động văn hóa, giải trí của người cao tuổi
Tỷ lệ người cao tuổi có các hoạt động văn hóa, giải trí hàng
ngày
Đối tượng tâm sự, trò chuyên khi có chuyện vui, buồn của
người cao tuổi
Mức độ cha mẹ đẻ lắng nghe khó khăn tâm sự của con cái (theo
nhận định của người con)
Mức độ trò chuyện với cha mẹ cao tuổi trong gia đình
Mức độ con cái lắng nghe khó khăn tâm sự của cha mẹ đẻ là
người cao tuổi (theo nhận định của người con)
Mức độ con cái lắng nghe khó khăn tâm sự của cha mẹ chồng/
vợ là người cao tuổi (theo nhận định của người con)
Mức độ gặp mặt con không sống cùng của người cao tuổi chia
theo khoảng cách sống
Mức độ các cháu gặp gỡ ông bà hai bên- theo nhóm mức sống

108

Bảng 5.1
Bảng 5.2

Tự đánh giá tình trạng sức khỏe của Người cao tuổi
Quan hệ đối xử với người cao tuổi trong gia đình

121

130

Bảng 1.2
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6
Bảng 3.7

Bảng 4.1
Bảng 4.2
Bảng 4.3
Bảng 4.4
Bảng 4.5
Bảng 4.6
Bảng 4.7
Bảng 4.8

Trang

11

64
68
69
72
74


89
90
94
95
96
98


DANH MỤC BIỂU

Biểu

Biểu 3.1

Tên

Mức độ đảm bảo cuộc sống của người cao tuổi (%)-Tp Hồ

Trang

60

Chí Minh
Biểu 4.1

Mức độ thoải mái khi trò chuyện về mối lo âu với con cái

92

sống cùng

Biểu 5.1

Những người hiện đang chăm sóc cha mẹ cao tuổi

119

Biểu 5.2

Mô hình kim cương các chủ thể chăm sóc người cao tuổi

138


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Luật người cao tuổi Việt Nam, những người từ 60 tuổi trở lên là người
cao tuổi. Hiện nay, số người cao tuổi (NCT) đã chiếm 10,2% dân số. Kết quả phân
tích các cuộc điều tra dân số và nhà ở qua các năm cũng cho thấy, chỉ số già hóa 1 có
xu hướng ngày càng gia tăng. Năm 1989, chỉ số này là 18,2%, năm 1999 là 24,3%,
năm 2009 là 35,5% đến năm 2014, tỷ số này đã là 43,3% [43, tr.35]. Việt Nam hiện
nay đang trong xu thế “dịch chuyển mạnh mẽ về cơ cấu dân số theo độ tuổi. Số
người cao tuổi sẽ tăng nhanh khiến Việt Nam trở thành một trong những nước có
dân số già hóa nhanh nhất thế giới và làm cho tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động
giảm xuống. Đến năm 2035, tỷ số người cao tuổi phụ thuộc (tỷ số giữa số người từ
65 tuổi trở lên so với số người trong độ tuổi từ 15 - 64) sẽ tăng từ gần 10/100 hiện
nay lên gần 22/100, trong khi số người trong độ tuổi lao động bắt đầu giảm” [39, tr.
XXX].
Hiện nay, đa số người cao tuổi đang sống ở nông thôn cùng con cháu trong các
gia đình và phụ thuộc vào con cái trưởng thành cũng như các thành viên khác về
chăm sóc và các nhu cầu vật chất. Tuy vậy, tỷ lệ người cao tuổi sống cùng con cháu

ngày càng có xu hướng giảm. Do tình hình di cư từ nông thôn đến thành thị, nên
“Tỷ lệ người cao tuổi sống với con cái đã giảm nhanh, trong khi tỷ lệ hộ gia đình
người cao tuổi sống cô đơn hoặc chỉ có vợ chồng người cao tuổi tăng lên đáng kể.
Phần lớn người cao tuổi sống ở nông thôn… Di cư từ nông thôn ra thành thị là một
nguyên nhân của tình trạng này và cũng là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của tỷ
lệ hộ gia đình người cao tuổi bị “khuyết thế hệ”2 [47, tr.6]. Quan hệ giữa người cao
tuổi và con cháu là một trong các mối quan hệ rường cột của gia đình. Để cuộc sống
gia đình ổn định và bền vững, bên cạnh việc thúc đẩy và xây dựng mối quan hệ giữa
vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, thì gìn giữ và phát triển mối quan hệ giữa các
hế hệ trong gia đình, đặc biệt giữa cha mẹ cao tuổi và con cháu trong gia đình trong
điều kiện xã hội mới cần đặc biệt chú ý.
1
2

Chỉ số già hóa là tỷ lệ giữa số người già (60 tuổi trở lên) so với số trẻ em (0-14 tuổi).
Gia đình thiếu thế hệ thứ 2, chỉ có ông bà sống với cháu.

1


Ngày nay, cùng với những biến đổi trong cơ cấu dân số và đời sống kinh tế xã hội, sự phụ thuộc của người cao tuổi vào con cái trong gia đình đang gặp những
khó khăn, thách thức. Những thay đổi trong đời sống xã hội, sự mở rộng giao lưu
kinh tế và văn hoá khiến sự khác biệt về các nhu cầu văn hoá, sinh hoạt, quan niệm,
giá trị, và lối sống giữa các thế hệ đang ngày càng gia tăng. Trên thực tế, người cao
tuổi đang phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội nảy sinh trong cuộc sống. Người cao
tuổi trong gia đình Việt Nam hiện nay sống ra sao? Họ đang được chăm sóc như thế
nào từ phía gia đình? Làm thế nào để củng cố mối quan hệ giữa người cao tuổi và
con cháu trong gia đình trong bối cảnh tác động của xã hội biến đổi?
Để góp phần trả lời, lý giải các vấn đề đặt ra trên đây, Luận án Người cao tuổi
trong gia đình Việt Nam trong bối cảnh già hóa dân số và biến đổi xã hội góp phần

đánh giá thực trạng đời sống, những mối quan hệ của người cao tuổi với các thế hệ
trong gia đình, về đời sống vật chất, tinh thần và sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau và
những vấn đề đang đặt ra hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Luận án được thực hiện nhằm mục đích đánh giá các mối quan hệ tương hỗ
trong đời sống vật chất, tình cảm cũng như mối quan hệ chăm sóc giữa người cao
tuổi và con cháu trong gia đình hiện nay; tìm hiểu những khó khăn mà các gia đình
đang gặp phải cũng như các yếu tố biến đổi xã hội tác động thế nào đến mối quan
hệ của người cao tuổi với các thế hệ con cháu trong gia đình.
Trên cơ sở số liệu và các thông tin thu thập được từ các cuộc điều tra khảo
sát, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là: Vận dụng các lý thuyết được áp dụng
trong nghiên cứu, trên cơ sở các số liệu, dữ kiện thu thập được để phân tích,
đánh giá một số vấn đề cơ bản liên quan đến người cao tuổi Việt Nam trong gia
đình hiện nay như: đời sống của người cao tuổi và sự chăm sóc lẫn nhau giữa
con cháu với người cao tuổi (về vật chất và tinh thần tình cảm, sức khỏe); những
vấn đề đang đặt ra trong mối quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu trong gia
đình Việt Nam hiện nay.

2


3. Đối tƣợng, phạm vi, câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu của luận án
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là các mối
quan hệ tương hỗ về đời sống vật chất và tinh thần giữa người cao tuổi và con cháu
trong gia đình; gia đình với việc chăm sóc người cao tuổi.
3.2 Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng kết quả, các bộ số liệu điều tra,
khảo sát về gia đình có liên quan ở cấp quốc gia, các khu vực trong những năm gần
đây và phân tích kết quả từ một nghiên cứu bổ sung trong quá trình làm luận án.
Các số liệu được thu thập, phân tích so sánh từ các nghiên cứu - trừ bộ số liệu quốc
gia làm cơ sở (Điều tra gia đình Việt nam, 2006), các cuộc nghiên cứu khác hầu hết

được tiến hành trong khoảng 5 năm gần đây (2010-2015) nhằm làm rõ các mối quan
hệ hỗ trợ, chăm sóc giữa người cao tuổi và các các thế hệ trong gia đình hiện nay.
Nghiên cứu này chưa có điều kiện khảo sát riêng nhóm NCT cô đơn hoặc nhóm
NCT có con cái đi làm ăn xa.
3.3 Câu hỏi nghiên cứu. Luận án được thực hiện nhằm trả lời một số câu hỏi
nghiên cứu cơ bản như: Đặc điểm về người cao tuổi và đời sống của họ trong gia
đình hiện nay như thế nào? Mối quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu (sự quan
tâm, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thế hệ) trong các lĩnh vực đời sống vật chất
và tinh thần ra sao? Việc chăm sóc người cao tuổi trong gia đình hiện nay như thế
nào và các gia đình đang gặp những vấn đề gì trong chăm sóc người cao tuổi?
3.4 Giả thuyết nghiên cứu. Luận án được thực hiện nhằm kiểm chứng 2 giả
thuyết đặt ra là: i) Trong các gia đình Việt Nam hiện nay mối quan hệ giữa các thế
hệ cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của gia đình truyền thống, giữa ông bà- cha mẹ và
con cái vẫn có sự quan tâm, gắn bó chăm sóc lẫn nhau và ii) Đã có những tác động
của các yếu tố hiện đại hóa đến các mối quan hệ gia đình, sự thay đổi trong cách
quan tâm chăm sóc với người cao tuổi đòi hỏi các thế hệ cần có những điều chỉnh
để phù hợp hơn trong bối cảnh xã hội mới.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận. Để nhận diện được mối quan hệ giữa người cao tuổi
và các thế hệ trong gia đình Việt Nam hiện nay, cần thiết phải xác định được các
nguyên lý, quan điểm và hệ lý thuyết tiếp cận vấn đề để phân tích các dữ liệu thực
3


tế. Phương pháp luận chung nhất cho nghiên cứu vấn đề này là phải nhìn mối quan
hệ giữa người cao tuổi với các thế hệ trong gia đình từ nhiều chiều, trong một tổng
thể, với cả những mặt đối lập (tích cực và hạn chế); xem xét các mối quan hệ trong
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, chịu sự ảnh hưởng, tác động của các yếu tố văn hóa, kinh
tế và môi trường xã hội đang biến đổi.
Vận dụng các lý thuyết được lựa chọn, cơ sở tiếp cận cũng như sử dụng các

phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học xã hội học trong phân tích các tình
huống, các hiện tượng xã hội và các dữ liệu thu thập được từ thực tiễn (các chỉ số,
chỉ báo, dữ liệu...). Hệ thống lý thuyết được lựa chọn và vận dụng trong nghiên cứu
này là lý thuyết về vị thế vai trò (để nhìn nhận đánh giá được vai trò của các thế hệ
trong mối quan hệ tương hỗ trong gia đình); lý thuyết hiện đại hóa (để phân tích
những yếu tố mới của xã hội trong quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa có ảnh
hưởng, tác động như thế nào đến các mối quan hệ gia đình). Ngoài ra. tiếp cận vấn
đề từ góc độ văn hóa, xã hội học gia đình sẽ giúp nhìn thấy những thay đổi về cấu
trúc, chức năng từ truyền thống sang hiện đại và các xu thế mới của sự quan tâm
chăm sóc lẫn nhau giữa các thế hệ trong gia đình.
Các biến số phụ thuộc (nhận diện các quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu
trong gia đình hiện nay về đời sống vật chất, tinh thần tình cảm, sự quan tâm chăm
sóc lẫn nhau) là kết quả của sự vận dụng hệ lý thuyết và các phương pháp nghiên
cứu trong phân tích các cứ liệu, thông tin thu thập được.
4.2 Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu và những vấn đề đặt ra, một số phương pháp
được sử dụng trong nghiên cứu này gồm:
4.2.1 Tổng quan phân tích một số tài liệu, kết quả nghiên cứu sẵn có về người
cao tuổi và mối quan hệ với con cháu trong gia đình: các số liệu thống kê, các kết
quả nghiên cứu liên quan đến người cao tuổi trong nước và ở nước ngoài những
năm gần đây. Phân tích tài liệu sẵn có sẽ cho phép nhìn nhận, đánh giá vấn đề thực
tế hơn. Kết quả của giai đoạn này sẽ cho phép xác định những vấn đề cần đi sâu,
làm rõ để trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra.
4.2.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định lượng sẽ giúp lượng
4


hoá, đánh giá các chỉ báo cụ thể liên quan đến vai trò, những đóng góp của người
cao tuổi; đời sống của họ và thực tế việc quan tâm chăm sóc người cao tuổi của các
thế hệ hiện nay trong gia đình. Nghiên cứu định lượng trước hết được sử dụng trong

phân tích số liệu thứ cấp: phân tích sâu số liệu một số cuộc điều tra gần đây như
Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 và một số kết quả nghiên cứu về gia đình, về
người cao tuổi liên quan đến mối quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu. Các
cuộc điều tra khảo sát sử dụng công cụ bảng hỏi do tác giả thực hiện tại Thành phố
Hồ Chí Minh (2010) và tại Bắc Ninh (2013) trong quá trình nghiên cứu về chủ đề
này cũng như trong quá trình làm luận án.
Về mẫu phân tích định lượng : 1) Bộ số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam
2006. Cho đến nay đây là cuộc điều tra có quy mô lớn nhất về những vấn đề cơ bản
của gia đình, trong đó có những chỉ báo đánh giá về mối quan hệ giữa các thế hệ
của gia đình. 9.300 hộ tại 64 tỉnh/ thành phố trên cả nước đã tham gia cung cấp
thông tin. Trong các hộ gia đình này, có 2.664 người từ 61 tuổi trở lên được phỏng
vấn về tình hình đời sống cũng như một số quan niệm về quan hệ gia đình. Trong số
người cao tuổi đã được điều tra, có 1.205 nam và 1.459 nữ, chiếm tỷ lệ tương ứng là
45,2% và 54,8%.
2) Điều tra Những vấn đề cơ bản của người cao tuổi tại TP Hồ Chí Minh
(2010) do Viện Gia đình và Giới thực hiện với 300 mẫu định lượng là người cao
tuổi ở khu vực nội thành và ngoại thành (một phường tại Quận 10 và một xã tại
huyện Bình Chánh). Trong đó, 41,5% là nam giới cao tuổi và 58,5% nữ giới cao
tuổi. 50,2% người cao tuổi sống ở khu vực thành thị và 49,8% người cao tuổi sống
ở khu vực nông thôn.
3) Số liệu khảo sát về Nhận thức và thái độ về gia đình của người dân Hà Nội
(Điều tra gia đình Hà Nội 2010) do Viện Gia đình và Giới thực hiện với 1.219 đại
diện hộ gia đình. Sử dụng số liệu này để phân tích, tác giả đã lọc ra 584 gia đình có
người cao tuổi và 227 người trả lời là người cao tuổi để phân tích sâu các thông tin
có liên quan đến đề tài.
4) Khảo sát về Một số yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa người cao tuổi và
con cháu trong gia đình hiện nay tại Thành phố Bắc Ninh (2013) được thực hiện
5



trong quá trình làm luận án, với mẫu được chọn là 300 đại diện hộ gia đình còn cha/
mẹ cao tuổi (cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ/chồng sống chung hoặc sống riêng) nhằm tìm
hiểu một số vấn đề trong quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình. Địa bàn nghiên cứu
là Phường Kinh Bắc và xã Kim Chân thuộc thành phố Bắc Ninh.
Một số kết quả phân tích số liệu khác cũng được tham khảo, so sánh trong quá
trình thực hiện đề tài luận án, như số liệu điều tra Một số vấn đề cơ bản trong chính
sách xã hội đối với người cao tuổi vùng đồng bằng sông Hồng năm 2008; Số liệu
Điều tra về phúc lợi và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại Khánh Mậu, Ninh
Bình (2010); Số liệu Điều tra quốc gia về người cao tuổi (2011); Số liệu khảo sát
đánh giá 5 năm thực hiện Luật người cao tuổi (2015).
4.2.3. Nghiên cứu định tính. Trong nghiên cứu người cao tuổi, sử dụng phương
pháp nghiên cứu định tính là một lợi thế. Phỏng vấn sâu người cao tuổi sẽ giúp hồi
cố những kinh nghiệm, suy nghĩ của họ về từng thời kỳ, từng giai đoạn sống mà họ
đã trải qua trong gia đình cũng như xã hội. Các công cụ khác như thảo luận nhóm
tập trung, phỏng vấn những người cung cấp thông tin chủ chốt, đại diện các thế hệ
con, cháu được sử dụng để thu thập thông tin... Luận án sử dụng các kết quả nghiên
cứu định tính của các cuộc điều tra khảo sát đã nêu. Tại Bắc Ninh (2013), nghiên
cứu định tính được thực hiện với 30 phỏng vấn sâu (đại diện hộ gia đình, trẻ vị
thành niên, người cao tuổi và đại diện quản lý cộng đồng); 60 lượt người tham gia
các thảo luận nhóm (2 cuộc thảo luận nhóm vị thành niên; 2 Thảo luận nhóm đại
diện hộ gia đình; 2 thảo luận nhóm người cao tuổi và 2 thảo luận nhóm cán bộ cấp
xã /phường).
Một số phương pháp khác như phân tích tổng hợp, quy nạp, phân tích hồi quy
đa biến... cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện luận án.
4.3 Khung phân tích của Luận án.
Khung phân tích lấy bối cảnh chung là sự biến đổi của yếu tố kinh tế -xã hội,
già hóa dân số tác động đến gia đình. Vì quá trình phân tích dựa trên một số bộ số
liệu có sẵn và mẫu khảo sát mới, nên một số biến độc lập được lấy theo hai tuyến:
những đặc trưng nhân khẩu xã hội của người trả lời (người cao tuổi hoặc đại diện
hộ) và những đặc trưng nhóm xã hội của gia đình. Các biến trung gian bao gồm vai

6


trò của các thế hệ trong thực hiện các chức năng kinh tế, tâm lý tình cảm và chăm
sóc trong gia đình cũng như một số khác biệt về quan niệm, giá trị, nếp sống ... của
các thế hệ trong gia đình. Biến phụ thuộc chính là kết quả của quá trình phân tích, là
các đánh giá về mối quan hệ giữa các thế hệ trên các khía cạnh đời sống gia đình.

Bối cảnh
kinh tế
- xã hội
trong
thời kỳ
đổi
mới,
CNH,
HĐH

quá trình
già hóa
dân số

Đặc trưng
nhóm xã hội
của gia đình:
- Số thế hệ
- Mức sống
- Khu vực
- Mô hình
sống


Thực
hiện
các
vai trò

Các đặc
trưng nhân
khẩu xã hội
của NTL:
Tuổi
Học vấn
Nghề nghiệp
Giới tính
Khu vực
sống

Mối
quan hệ
về đời
sống vật
chất
Mối quan
hệ về
đời sống
tinh thần

trong
gia
đình


Mối
quan hệ
chăm sóc
NCT

5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Nghiên cứu về người cao tuổi nói chung đã được quan tâm những năm gần
đây. Một số nghiên cứu tiếp cận từ góc độ an sinh xã hội, đánh giá các khía cạnh
liên quan đến hệ thống trợ giúp đối với người cao tuổi. Tuy nhiên, những nghiên
cứu xã hội học từ cách tiếp cận nhóm liên quan đến các vấn đề xã hội của người cao
tuổi gắn với đời sống và các quan hệ trong gia đình của người cao tuổi còn hiếm,
hoặc chỉ được đề cập như là một khía cạnh liên quan trong các nghiên cứu đã có.
Về khách thể nghiên cứu. Khác với những nghiên cứu chuyên biệt khác,
nghiên cứu này tiếp cận khách thể đa dạng hơn, từ bản thân người cao tuổi; đại diện
hộ gia đình có người cao tuổi và trẻ em trong những gia đình 3 thế hệ nhằm có
những thông tin nhiều chiều giúp cho việc phân tích, đánh giá các mối quan hệ gia

7


đình toàn diện hơn. Đối với thế hệ người cao tuổi trong mối quan hệ với con cái,
những số liệu phân tích, so sánh được khai thác toàn diện hơn: NCT là cha mẹ
đẻ/cha mẹ vợ chồng; kể cả sống chung hay sống riêng. Cạnh đó, một số yếu tố liên
quan đến các dịch vụ chăm sóc tập trung người cao tuổi cũng được đề cập để làm rõ
hơn bối cảnh chăm sóc người cao tuổi trong tình hình mới.
Về lý luận, tiếp cận từ góc độ già hóa dân số và biến đổi xã hội, Luận án đã vận
dụng hai lý thuyết cơ bản để nghiên cứu phân tích làm rõ các mối quan hệ tương hỗ
giữa các thế hệ trong gia đình. Đó là lý thuyết vị thế vai trò, trong đó có vai trò giới;
lý thuyết hiện đại hóa và biến đổi xã hội. Với việc mở rộng phạm vi nghiên cứu

không chỉ những người cao tuổi sống chung trong gia đình mà cả những người cao
tuổi không sống chung (cả bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ/chồng) của các khách thể nghiên
cứu, mối quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu được đặt trong một tổng thể rộng
hơn các quan hệ gia đình. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung
hiểu biết về những yếu tố ảnh hưởng tới các mối quan hệ giữa người cao tuổi và con
cháu trong gia đình trong bối cảnh già hoá dân số đang gia tăng.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những thay đổi về vai trò và đặc
điểm của các mối quan hệ tương hỗ trong đời sống vật chất, đời sống tinh thần của
người cao tuổi với các thế hệ trong gia đình Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh
biến đổi về cơ cấu và quy mô gia đình, di cư lao động cũng như những khác biệt thế
hệ trong quan niệm về giá trị, kết quả nghiên cứu cho thấy xu hướng chuyển từ
chăm sóc truyền thống trực tiếp sang gián tiếp, “tiền tệ hóa” sự chăm sóc ở một bộ
phận các gia đình; một bộ phận người cao tuổi có khuynh hướng chuyển từ sự “hy
sinh” sang “hưởng thụ”; có sự thay đổi trong quan niệm và hành vi về mối quan hệ
hỗ trợ của các thế hệ và về các mô hình chăm sóc người cao tuổi. Những phát hiện
này góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách xã hội đáp
ứng các yêu cầu xã hội của thời kỳ dân số già. Trên cơ sở đó, luận án đã đưa ra một
số khuyến nghị về việc làm thế nào để các gia đình có điều kiện chăm sóc tốt hơn
đối với thế hệ người cao tuổi hiện nay, cũng như hướng nghiên cứu tiếp theo về
Quan hệ vợ chồng người cao tuổi; về Người cao tuổi và vai trò trong gia đình con
cái đi làm ăn xa.
8


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận. Vận dụng các lý thuyết vị thế vai trò, lý thuyết hiện đại hóa, xã
hội học gia đình một cách thiết thực trong phân tích các mối quan hệ thế hệ trong
gia đình; nhận diện những yếu tố ảnh hưởng đến các mối quan hệ thế hệ, đến việc
chăm sóc người cao tuổi trong gia đình trong bối cảnh biến đổi xã hội và già hóa
dân số. Nghiên cứu cũng góp phần hệ thống lại những vấn đề lý luận và phương

pháp trong nghiên cứu về gia đình nói chung, nghiên cứu về người cao tuổi trong
các mối quan hệ gia đình hiện nay nói riêng.
Về thực tiễn. Quá trình thu thập và xử lý thông tin trong nghiên cứu giúp nhận
diện tổng thể về người cao tuổi trong các quan hệ gia đình hiện nay; những vấn đề
về chăm sóc người cao tuổi trong gia đình trong bối cảnh xã hội biến đổi. Kết quả
nghiên cứu cũng góp phần củng cố các bằng chứng thực tiễn, đưa vấn đề chăm sóc
người cao tuổi nói chung, người cao tuổi trong gia đình nói riêng là vấn đề cấp thiết
cần quan tâm, cần có cách nhìn nhận mới để xử lý những khó khăn, các yếu tố phi
truyền thống trong chăm sóc người cao tuổi trong bối cảnh già hóa dân số.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu xã hội học về gia đình; giúp xã hội có cái nhìn cởi mở hơn về chăm sóc
người cao tuổi cũng như cung cấp một số luận cứ thực tiễn đề điều chỉnh, xây dựng
các chính sách xã hội về người cao tuổi và chăm sóc người cao tuổi.
7. Kết cấu của luận án.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
án được kết cấu thành 5 chương:
Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chƣơng 2. Các khái niệm cơ bản, cơ sở lý thuyết và cách tiếp cận
Chƣơng 3. Mối quan hệ về đời sống vật chất giữa người cao tuổi và con cháu
trong gia đình
Chƣơng 4. Mối quan hệ về đời sống tinh thần tình cảm giữa người cao tuổi và
con cháu trong gia đình
Chƣơng 5. Chăm sóc người cao tuổi trong gia đình Việt Nam hiện nay và
những vấn đề đặt ra.

9


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Ở các nước phát triển, những người từ 65 tuổi trở lên được gọi là người cao
tuổi. Hiện tại chưa có một tiêu chuẩn thống nhất cho tất cả các quốc gia, nhưng Liên
Hợp quốc chấp nhận mốc để xác định dân số già là từ 60 tuổi trở lên, trong đó phân
ra làm 3 nhóm là sơ lão (60-69 tuổi), trung lão (70-79 tuổi) và đại lão (trên 80 tuổi).
Già hóa dân số đang trở thành vấn đề lớn của các nước đang phát triển, nơi dân số
bị già đi nhanh chóng trong nửa đầu thế kỷ 21.
Trong những thập kỷ qua, cơ cấu tuổi dân số Việt Nam biến động mạnh theo
hướng: tỷ lệ trẻ em (0-14 tuổi) ngày càng giảm; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động
(15-59) tăng lên; và tỷ lệ người cao tuổi (từ 60 trở lên) cũng tăng nhanh. Nếu lấy
năm 1979 làm cơ sở thì trong giai đoạn 1979-2009, tổng dân số tăng 1,6 lần; dân số
trẻ em giảm gần một nửa; dân số trong độ tuổi lao động tăng 2,08 lần, còn dân số
cao tuổi tăng 2,12 lần. Như vậy, dân số cao tuổi tăng nhanh nhất so với tất cả các
nhóm dân số khác trong giai đoạn này. Đây chính là đặc điểm đầu tiên, nổi bật nhất
của quá trình già hóa dân số ở Việt Nam [47, tr.16].
Dự báo của Tổng cục Thống kê (2010) cho giai đoạn 2009-2049 cho thấy, hệ
quả của xu hướng biến đổi cơ cấu tuổi dân số là chỉ số già hóa sẽ tăng lên nhanh
chóng; chỉ số già hóa sẽ vượt ngưỡng 100 vào khoảng năm 2032. Đây là thời điểm
Việt Nam bắt đầu có dân số cao tuổi nhiều hơn dân số trẻ em.
Bảng 1.1 Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi, 15-64 tuổi, 60 tuổi trở lên, 65 tuổi trở lên
và chỉ số già hóa, 1989 - 2014

Các nhóm dân số
Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi
Tỷ trọng dân số từ 15-64 tuổi
Tỷ trọng dân số từ 60+
Tỷ trọng dân số từ 65+
Chỉ số già hóa

1989
39,2

56,1
7,1
4,7
18,2

1999
33,1
61,1
8,0
5,8
24,3

2009
24,5
69,1
8,7
6,4
35,5

2014
23,5
69,4
10,2
7,1
43,3

Nguồn: TCTK 2015: Kết quả Điều tra dân số giữa kỳ 2014

Theo kết quả các cuộc Điều tra Dân số, nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng từ
8% năm 1999 và đến 1/4/2014 đã chiếm 10,2% dân số. Do tỷ lệ người già tăng lên


10


trong khi tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi giảm mạnh, nên “chỉ số già hoá” của dân số Việt
Nam ngày càng tăng (sau 10 năm từ 24,3% năm 1999 lên 35,5%) và năm 2014 đã là
43,3% [43, tr.35] (bảng 1.1).
Đặc điểm thứ hai của “quá trình già hóa dân số ở Việt Nam là sẽ “già ở nhóm
già nhất”, nghĩa là tốc độ tăng và số lượng người cao tuổi ở độ tuổi cao nhất (từ 80
tuổi trở lên) sẽ ngày càng lớn (Bảng 1.2). Số liệu từ bốn cuộc Tổng Điều tra Dân số
và Nhà ở giai đoạn 1979-2009 cho thấy tỷ lệ người cao tuổi ở nhóm tuổi thấp nhất
(từ 60 đến 69) tăng chậm, trong khi tỷ lệ người cao tuổi ở nhóm cao tuổi trung bình
(70-79) và già nhất (80+) có xu hướng tăng nhanh hơn” [47, tr.18]. Sự thay đổi cơ
cấu dân số theo hướng "già hóa" tác động sâu sắc tới mọi khía cạnh của cá nhân,
cộng đồng và xã hội. Dân số già hóa nhanh cũng sẽ gây những ảnh hưởng tương tự
như gia tăng dân số nhanh, tạo áp lực cho hệ thống hạ tầng, dịch vụ xã hội và gia
đình... trong chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi.
Bảng 1.2. Dự báo xu hướng biến đổi dân số cao tuổi (% tổng dân số)
Nhóm tuổi

1979 1989 1999 2009

60-64
65-69
70-74
75-79
80+
Tổng

2,28

1,90
1,34
0,90
0,54
6,96

2,40
1,90
1,40
0,80
0,70
7,20

2,31
2,20
1,58
1,09
0,93
8,11

2019

2,26 4,29
1,81 2,78
1,65 1,67
1,40 1,16
1,47 1,48
8,69 11,78

2029


2039

5,28
4,56
3,36
1,91
1,55
16,66

5,80
5,21
4,30
3,28
2,78
21,37

2049
7,04
6,14
4,89
3,87
4,16
26,10

Nguồn: Tổng Điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và 2009
và Dự báo Dân số của GSO (2010)- Dẫn theo UNFPA, 2011

Hiện nay, đa số người cao tuổi đang sống cùng con cháu trong các gia đình và
phụ thuộc vào con cái trưởng thành cũng như các thành viên khác trong gia đình về

chăm sóc và các nhu cầu vật chất. Số liệu từ các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình
giai đoạn 1993-2008 chỉ ra xu hướng thay đổi, đó là: (i) tỷ lệ người cao tuổi sống
với con cái vẫn cao nhưng có xu hướng giảm xuống (từ gần 80% vào năm 1992/93
xuống 62% vào năm 2008); (ii) tỷ lệ người cao tuổi sống cô đơn và tỷ lệ hộ gia đình
chỉ có hai vợ chồng người cao tuổi có tăng lên; (iii) tỷ lệ hộ gia đình “khuyết thế
hệ”, dù chưa cao nhưng cũng đã tăng hơn hai lần [dẫn theo 47, tr. 22].

11


Một điểm đáng chú ý là, trong những năm qua, tỷ lệ người cao tuổi sống với
con cái với vị thế là người sống phụ thuộc ở mọi lứa tuổi lại có xu hướng giảm đi
nhanh chóng [35]. Điều này có thể là do vị thế kinh tế của người cao tuổi được được
cải thiện, nhưng cũng có thể là do mô hình gia đình ở Việt Nam đang thay đổi theo
xu hướng mà ở đó con cái ngày càng độc lập với cha mẹ.
Để cuộc sống gia đình ổn định và bền vững, bên cạnh việc thúc đẩy và xây
dựng mối quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, thì gìn giữ và phát
triển mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình, đặc biệt giữa cha mẹ cao tuổi và
con cháu trong gia đình cần đặc biệt được chú ý. Để đánh giá được thực trạng các
mối quan hệ này trên cơ sở đó gợi mở, thảo luận về những giải pháp nhằm củng cố
và nâng cao chất lượng các mối quan hệ gia đình… thì việc tìm hiểu, đánh giá các
nghiên cứu liên quan đến người cao tuổi và mối quan hệ giữa người cao tuổi và con
cháu trong gia đình là một việc làm cần thiết. Từ đó, phát hiện những yếu tố còn
thiếu, cần phân tích sâu thêm hoặc nghiên cứu bổ sung để có câu trả lời đầy đủ hơn.
1.1. Các nghiên cứu quốc tế và trong khu vực
Vào năm 2006, trên thế giới có khoảng 500 triệu người từ 65 tuổi trở lên. Dự
báo đến năm 2030, số người trên 65 tuổi sẽ khoảng 1 tỷ người và già hoá dân số
đang diễn ra mạnh mẽ ở các quốc gia đang phát triển với tốc độ tăng dự kiến
khoảng 140% vào năm 2030 [66]. Già hoá dân số được coi là một thành tựu nhờ
những tiến bộ trong y học, chăm sóc sức khoẻ, và phát triển kinh tế. Song đó lại

đang là nguyên nhân của những khó khăn đối với hệ thống bảo hiểm xã hội, lương
hưu và đang thách thức các mô hình hỗ trợ xã hội hiện nay. Cùng với những biến
đổi trong cấu trúc gia đình, tuổi thọ con người đang tăng lên trong khi các cặp vợ
chồng có ít con hơn khiến cho người cao tuổi gặp nhiều khó khăn trong việc tìm
kiếm sự giúp đỡ và chăm sóc trong gia đình. Một số nhóm vấn đề đã được các tác
giả nước ngoài phân tích liên quan đến lĩnh vực này là:
Sự hỗ trợ giữa các thế hệ trong gia đình hiện nay là vấn đề đang thu hút
nhiều nhà nghiên cứu về già hóa dân số và tuổi già. Ở cả các nước phát triển và
đang phát triển, các nghiên cứu về chủ đề này không chỉ dừng ở mô tả sự hỗ trợ,

12


tương tác qua lại giữa các thế hệ mà còn tìm hiểu về các mạng lưới hỗ trợ, quá trình
tương tác qua lại giữa các thế hệ, tác động của di cư đối với các mạng lưới hỗ trợ
tuổi già, hướng di chuyển của các dòng tài sản và sự biến đổi trong bối cảnh chuyển
đổi kinh tế và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa già hóa, sự tương tác giữa các thế
hệ và những yếu tố kinh tế vĩ mô [63].
Nghiên cứu về mối liên hệ giữa các thế hệ trong gia đình bắt đầu vào những
năm 1960 với sự xuất hiện của nhiều chương trình phát triển nhằm đưa thế hệ con
cháu gần gũi hơn với người cao tuổi. Sự quan tâm đến các hoạt động nhằm tăng
cường mối liên hệ giữa các thế hệ đã càng gia tăng khi quy mô của các gia đình thay
đổi. Ban đầu, các nghiên cứu về mối quan hệ gia đình chủ yếu là trong gia đình hạt
nhân. Đến những năm 1980, nghiên cứu về mối liên hệ giữa các thế hệ tập trung
vào mối quan hệ giữa người cao tuổi và các thành viên trong gia đình. Sussman
(1991) cho rằng hiện đại hoá là nhân tố chính ảnh hưởng đến mối liên hệ giữa các
thế hệ trong gia đình. Nghiên cứu về tác động của hiện đại hóa giúp đánh giá khả
năng của các gia đình hiện nay trong việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc người cao tuổi
trong gia đình khi có mối quan ngại rằng xã hội sẽ khó khăn khi giải quyết các nhu
cầu về chăm sóc và hỗ trợ người cao tuổi do sự biến đổi chức năng gia đình, đặc

biệt ở các quốc gia đang phát triển [74].
Mặc dù có những biến đổi trong cấu trúc gia đình ở nhiều nơi trên thế giới thì
gia đình, chủ yếu là con cái, vẫn là nguồn chăm sóc chủ yếu và là không gian đặc
biệt của mối quan hệ giữa các thế hệ. Chẳng hạn, ở Canada, gia đình là nguồn cung
cấp sự hỗ trợ cao nhất cho người cao tuổi, ở đó, người cao tuổi có thể nhận được
những hỗ trợ về tình cảm, vật chất và giao tiếp. Số liệu của cuộc Tổng điều tra Xã
hội 1990 và 1985 của Cục Thống Kê nhà nước và cuộc Khảo sát quốc gia về Già
hoá và Sự phụ thuộc (năm 1991), cho thấy, phần lớn người cao tuổi Canada sống
trong các gia đình hạt nhân (bạn đời và con cái) và tham gia các mạng lưới xã hội
trong cộng đồng. Ulyssee, cho rằng, phần lớn người cao tuổi thường liên lạc hay
gặp mặt con cái khi thấy cần, nhưng họ cũng nhấn mạnh rằng vai trò của người bạn
đời, đặc biệt là người vợ là nguồn hỗ trợ quan trọng nhất [78].

13


Do chức năng của gia đình, việc chăm sóc hằng ngày với người cao tuổi bắt
nguồn từ sự ràng buộc về tình cảm và những chuẩn mực xã hội khiến họ trở nên có
trách nhiệm với nhau và đôi khi bị đổ lỗi nếu họ không thực hiện trách nhiệm với
người cao tuổi. Con cái thực hiện việc chăm sóc hỗ trợ cha mẹ cho dù cảm giác hay
tình cảm của họ với cha mẹ có tốt hay không. Xã hội đặt lên vai người con trách
nhiệm chăm sóc cha mẹ mà con cái không thể trốn tránh nếu không muốn bị lên án.
Nguyên tắc có đi có lại chi phối mối quan hệ vật chất giữa cha mẹ cao tuổicon cái. Sự hỗ trợ giữa cha mẹ và con cái bị ảnh hưởng bởi mối quan hệ trao đổi
dựa trên nguyên tắc có đi có lại. Nếu người cao tuổi hỗ trợ con cái về mặt tài chính
thì con cái hỗ trợ cha mẹ về mặt chăm sóc và làm các công việc nhà hoặc ngược lại,
con cái hỗ trợ cha mẹ về tài chính, nuôi dưỡng thì cha mẹ lại hỗ trợ con cái về việc
nhà hoặc chăm sóc các cháu. Trong một số trường hợp, người cao tuổi đôi khi sử
dụng áp lực tài chính của mình để tăng vai trò quyền lực đối với con cái nhưng,
chính nhu cầu phải được chăm sóc sức khoẻ khiến người cao tuổi trở thành yếu thế.
Cũng từ nghiên cứu ở Canada cho thấy, mối quan hệ hỗ trợ giữa các thế hệ chịu ảnh

hưởng của các yếu tố như tầng lớp xã hội, giới, và loại hình gia đình. Theo đó, cha
mẹ thuộc tầng lớp lao động nhận sự giúp đỡ của con cái nhiều hơn so với cha mẹ
thuộc tầng lớp trung lưu. Con cái các gia đình trung lưu có xu hướng hỗ trợ bằng
tiền mặt hoặc quà cáp. Người cao tuổi nữ thuộc tầng lớp lao động có xu hướng sống
với con cái nhiều hơn để đổi lấy sự hỗ trợ của con cái. Sự giúp đỡ qua lại nhằm đổi
lấy sự chăm sóc của người cao tuổi thường gặp ở tầng lớp lao động hơn [78].
So với các nước phương Tây phát triển, ở các nước đang phát triển, cha mẹ
nhận sự hỗ trợ về tài chính và vật chất từ con cái nhiều hơn và ít hỗ trợ được cho
con cái hơn. Nhưng họ lại giúp đỡ con cái nhiều ngoài tiền bạc, ví dụ như trông coi
nhà cửa, chăm sóc và dạy dỗ các cháu. Sự giúp đỡ này giúp ích rất nhiều để người
phụ nữ trong gia đình có thể tham gia vào sản xuất nông nghiệp hoặc việc làm nơi
công sở. Vai trò của ông bà trong việc chăm sóc và dạy dỗ các cháu là không thể
phủ nhận. Một nghiên cứu cho kết quả rằng 38% người cao tuổi ở Philippines và
23% ở Đài Loan chăm sóc cháu trong số những người cao tuổi sống cùng con cháu;
32% ở Thái Lan và 70% ở Singapore. Số liệu ở các nước Bắc Âu cho thấy người bà
14


thường chăm sóc các cháu để giúp đỡ con cái họ thực hiện các nghĩa vụ gia đình và
công việc [63]. Một số kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, người chăm sóc thường gặp
phải vấn đề khó xử vì một mặt họ muốn được giải thoát khỏi gánh nặng chăm sóc
mặt khác họ cảm thấy phải có nghĩa vụ buộc phải chăm sóc [58].
Tuy nhiên, trong mối quan hệ này, hiện đang diễn ra theo một số xu hướng.
Chẳng hạn, vai trò của phụ nữ được nhấn mạnh trong chăm sóc người cao tuổi.
Không chỉ bởi họ là người tham gia vào việc chăm sóc cha mẹ cao tuổi nhiều hơn
so với nam giới mà con gái cũng giúp đỡ cha mẹ những lúc họ cần sự giúp đỡ nhiều
hơn so với con trai. Con trai chỉ chiếm 29% trong số những người giúp đỡ cha mẹ
so với 64% ở con gái. Nam giới chủ yếu chỉ đóng góp những hỗ trợ tài chính, kinh
tế và vật chất còn trách nhiệm của phụ nữ là giải quyết những nhu cầu cụ thể của
người cao tuổi [78].

Cạnh đó, mặc dù những giá trị truyền thống vẫn được bảo tồn nhưng ở một bộ
phận gia đình, sự hỗ trợ chăm sóc chỉ diễn ra một chiều. Theo truyền thống của
người Đông Á và Đông Nam Á, con cái có trách nhiệm phải chăm sóc cha mẹ già
nhưng những thế hệ con cái ngày nay đang dần đánh mất giá trị này. Một nghiên
cứu về người cao tuổi của Trung tâm nghiên cứu những vấn đề về người cao tuổi
thuộc Viện Khoa học Xã hội Quảng Đông (Trung Quốc) thực hiện năm 2010 với
gần 1.300 NCT sống ở đô thị cho thấy 40% đang thực hiện công việc chăm sóc các
cháu và 20% đang giúp đỡ con cái việc nhà; hơn 10% NCT đang phải hỗ trợ tiền
bạc cho con cái hàng tháng và có đến 1/3 trong số người cao tuổi thường xuyên phải
cho con cái tiền bạc. Có 16% người trả lời đã cho rằng thực hiện điều này là khó
khăn đối với họ vì họ phải dành một phần tiền lương hưu của mình cho con và vì
vậy chất lượng cuộc sống của họ bị ảnh hưởng nhiều [80].
Người cao tuổi cũng đang thay đổi, chuyển quan niệm từ “hy sinh” sang
“hưởng thụ”. Ở Australia, người cao tuổi đang thay đổi quan điểm về sự hỗ trợ cho
con cái. Giờ đây họ đang chuyển từ quan điểm “hy sinh” sang “hưởng thụ cho bản
thân”. Ngày càng nhiều người cao tuổi nhận thức rằng họ sẽ phải tự mình trang trải
và giải quyết các vấn đề tuổi già mà không nhờ đến sự giúp đỡ của con cái. Trước
đây nhiều người hỗ trợ cho con cái tiền để mua nhà vì giá nhà tăng cao và con cái
15


thường gặp khó khăn để có thể mua được ngôi nhà cho mình. Nhưng ngày nay,
nhiều người cao tuổi thay đổi hình thức hỗ trợ này sang cho vay, hầu hết là không
lãi suất nhưng cũng có những trường hợp tính lãi. Giờ đây, những người cao tuổi
này cho rằng họ không nên chắt bóp mà nên hưởng thụ cho bản thân nhiều hơn
[67]. Liệu đây có trở thành xu hướng của người cao tuổi Việt Nam khi xã hội và
nền kinh tế phát triển hơn?
Mức độ thường xuyên qua lại và mối quan hệ về đời sống tinh thần giữa cha
mẹ cao tuổi-con cái cũng là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Sự gắn
kết tình cảm giữa con cháu với người cao tuổi có liên quan đến mức độ thường

xuyên hai bên qua lại hoặc liên lạc với nhau và mối quan hệ tình cảm của cha mẹ
dành cho họ. Những quan hệ tình cảm cha mẹ dành cho con cái thời kỳ trước khi
trưởng thành cũng có những tác động, ảnh hưởng đến mối quan hệ của họ ở tuổi
già. Những người hoạt động thực tiễn về gia đình biết rằng các thành viên gia đình
luôn có những hình thức giao tiếp riêng và quan niệm về quan hệ gia đình theo cách
của mình. Nghiên cứu của Whitbeck và các đồng nghiệp (2001) cho biết, các hình
thức giao tiếp này được phát triển theo thời gian và ảnh hưởng tới khả năng gia đình
trong việc đáp ứng nhu cầu của cha mẹ khi về già theo ít nhất là 2 cách: thứ nhất,
mối quan hệ và cách thức giao tiếp của cha mẹ và con cái trong quá khứ có thể ảnh
hưởng đến xu hướng con cái trưởng thành hỗ trợ, giúp đỡ cha mẹ; thứ hai, ngay cả
khi con cái sẵn sàng hỗ trợ thì nếu con cái và cha mẹ ít có liên lạc, giao tiếp với
nhau thì cũng rất khó có thể thương lượng các điều khoản hỗ trợ [83].
Mối quan hệ giữa các thế hệ chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, trong đó
quan trọng nhất là sự giao tiếp. Sebatian và Sekher chỉ ra, con gái thường dành
nhiều thời gian trò chuyện với cha mẹ già hơn so với con trai. Hơn một nửa số
người cao tuổi tham gia cung cấp thông tin cho nghiên cứu cho biết thế hệ các cháu
của họ phải đảm đương quá nhiều trách nhiệm vì vậy chúng không có đủ thời gian
để dành cho người cao tuổi [68].
Người cao tuổi có nhiều kinh nghiệm sống, họ giúp đỡ con cái công việc gia
đình và nhiều người vẫn đóng góp vào thu nhập của gia đình. Trong các nghiên cứu
về mối quan hệ giữa ông bà (thế hệ thứ nhất) và cháu (thế hệ thứ 3) của Chin-Chun
16


Yi và Ju-Ping Lin (2009), cho thấy ông bà là những người có ảnh hưởng nhất định
đối với sự phát triển của các cháu. Đặc biệt, mối quan hệ giữa các thế hệ ở thành thị
và nông thôn có những điểm khác biệt. Các cháu ở tuổi vị thành niên ở nông thôn
thường xuyên gặp gỡ với ông bà và được ông bà nội giúp đỡ rất nhiều. Mặc dù
nhiều nghiên cứu tìm hiểu về mối quan hệ giữa ông bà và cháu nhưng mối quan hệ
giữa bố mẹ già và con cái chính là cầu nối liên kết giữa các thế hệ. Mối quan hệ

giữa thế hệ ông bà và thế hệ bố mẹ tốt thì các cháu và ông bà thường xuyên gặp gỡ
hơn và duy trì được sự gần gũi. Những mối quan hệ giữa các thế hệ tốt thì con cháu
có cơ hội nhận được nhiều sự giúp đỡ hơn.
Những biến đổi trong đời sống xã hội đang khiến nhiều người cao tuổi ở đô thị
phải tự xoay xở cuộc sống. Cũng trong nghiên cứu về người cao tuổi của Trung tâm
nghiên cứu những vấn đề về người cao tuổi thuộc Viện Khoa học Xã hội Quảng
Đông (Trung Quốc, 2010) cho thấy 62% người cao tuổi ở đô thị đang sống riêng mà
không sống cùng con cái. Kết quả đáng chú ý là 48% người cao tuổi chỉ mong con
cái về thăm họ 1 lần/tuần; 28% mong con cái về thăm 1 lần/tháng và 24% chỉ hy
vọng con cái đến thăm họ 1 lần/năm. Ngay cả những người đang sống cùng con cái
thì hầu hết số họ đều cho biết họ cảm thấy rất cô đơn. Có đến 75% người cao tuổi
mong muốn con cái hỗ trợ cha mẹ về mặt tình cảm, tinh thần nhiều hơn [80].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố tác động đến cuộc sống của người
cao tuổi như tình trạng hôn nhân, sức khỏe và vị thế kinh tế xã hội.
Kết hôn và sống với vợ/chồng. Các kết quả nghiên cứu cho biết so với những
NCT không kết hôn, những người kết hôn có sức khoẻ thể chất và tinh thần tốt hơn.
Phụ nữ thường là người chăm sóc chính đối với người chồng, vì vậy, goá vợ thường
được cho là yếu tố có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của người cao tuổi nam. Ở
những nước có tư tưởng gia trưởng khiến phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn
lực kinh tế và xã hội, bởi vì phụ nữ kết hôn thường phụ thuộc vào người chồng về
mặt kinh tế nên sự thiếu vắng người chồng trong cuộc sống khiến người cao tuổi nữ
gặp nhiều khó khăn như có ít hỗ trợ kinh tế hơn và vị thế trong xã hội và gia đình
cũng suy giảm. Người cao tuổi nam và nữ có những vai trò xã hội và văn hoá khác
nhau và nhận được các lợi ích khác nhau từ việc sống chung với con cháu [73].
17


×