ĐẶT VẤN ĐỀ
Để điều chỉnh và giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, cách phổ biến là quốc gia
xây dựng các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật của mình và trong các điều
ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Tức là quốc gia quốc gia đó thừa nhận và
cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài tại quốc gia mình. Vậy với Việt Nam, có hay
không việc thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam? Và
nếu có thì thực tiễn áp dụng đó như thế nào? Để tìm hiểu về vấn đề này nhóm 3 xin
trình bày đề tài:
“Đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
Khái quát chung về áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế và sự
cần thiết của việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
1. Khái quát chung về áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế
a. Mục đích và nguyên tắc áp dụng
Xuất phát từ xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ dân sự
quốc tế đã diễn ra ngày càng phổ biến. Để điều chỉnh và giải quyết các quan hệ này,
đồng thời góp phần dung hòa lợi ích của các quốc gia mình với các quốc gia có liên
quan, đảm bảo sự ổn định, củng cố, tăng cường và thúc đẩy sự phát triển hợp tác về
mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cả thế
giới, các quốc gia đã thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam,việc áp dụng pháp luật nước ngoài tuân thủ
theo hai nguyên tắc:
Thứ nhất, không áp dụng pháp luật nước ngoài có nội dung hoặc hệ quả trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, việc áp dụng phải thống nhất trong mối quan hệ tổng thể của hệ thống
pháp luật nước xây dựng các quy phạm đó.
1
b.
Các trường hợp liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài
Liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế bao gồm
ba trường hợp sau:
Thứ nhất, vấn đề bảo lưu trật tự công cộng: Bảo lưu trật tự công cộng có thể được
hiểu là việc mỗi quốc gia bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của quốc gia mình. Theo nội
dung của điều khoản bảo lưu thì khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết các quan hệ
dân sự quốc tế, pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng để giải quyết nếu việc áp
dụng đó mâu thuẫn với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong nước. Vấn đề
bảo lưu trật tự công cộng sẽ dẫn đến hệ quả pháp lí là làm mất hiệu lực của quy phạm
xung đột. Hay nói cách khác, khi áp dụng bảo lưu trật tự công cộng thì luật nước
ngoài sẽ bị gạt bỏ không áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột, nếu việc
áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình.
Thứ hai, vấn đề lẩn tránh pháp luật: Lẩn tránh pháp luật là hiện tượng đương sự
dùng những biện pháp cũng như thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật đáng nhẽ
phải được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ của họ và nhằm tới một hệ thống pháp
luật khác có lợi hơn cho mình. Lẩn tránh pháp luật sẽ làm mất hiệu lực của quy phạm
xung đột. Và để lẩn tránh pháp luật, đương sự có thể dùng nhiều biện pháp, thủ đoạn
lẩn tránh như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động
sản thành bất động sản...Ở các nước khác nhau lại có các quan điểm khác nhau về vấn
đề này. Với Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp luật sẽ đều bị coi là hành vi phạm
pháp, hành vi đó ở Việt Nam không có ý nghĩa pháp lí.
Thứ ba, vấn đề dẫn chiếu: khi có sự xung đột giữa các hệ thuộc luật trong các quy
phạm xung đột của các nước hoặc có sự khác biệt trong việc giải thích các hệ thuộc
luật của các nước có thể làm phát sinh dẫn chiếu. Vấn đề này bao gồm hai nội dung là:
Dẫn chiếu ngược, tức là theo quy phạm xung đột mà cơ quan có thẩm quyền áp dụng
thì pháp luật nước ngoài cần được áp dụng để giải quyết một quan hệ tư pháp quốc tế
cụ thể nhưng trong pháp luật nước ngoài đó lại có quy phạm xung đột quy định áp
2
dụng pháp luật của nước có cơ quan có thẩm quyền; Dẫn chiếu đến pháp luật của
nước thứ ba, tức là theo quy phạm xung đột của nước có cơ quan giải quyết tranh chấp
thì pháp luật của nước ngoài phải được áp dụng nhưng trong pháp luật nước ngoài đó
lại có quy phạm xung đột quy định cần phải áp dụng pháp luật của nước thứ ba. Tuy
nhiên, dù là dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba cũng đều sẽ
làm hạn chế hiệu lực của quy phạm xung đột. Hiện nay trên thế giới có hai luồng quan
điểm về vấn đề dẫn chiếu này, luồng quan điểm thứ nhất là chấp nhận dẫn chiếu (Việt
Nam theo quan điểm này) và luồng quan điểm thứ hai là không chấp nhận dẫn chiếu.
Thứ tư, vấn đề có đi có lại: thực chất, ở đại đa số các nước trên thế giới, vấn đề áp
dụng pháp luật nước ngoài không phụ thuộc vào nguyên tắc có đi có lại, đồng nghĩa
rằng khi cơ quan tư pháp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào đó vận dụng
pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc sẽ không cần thiết phải xem xét là ở nước
ngoài đó có áp dụng pháp luật của nước mình chưa. Vấn đề có đi có lại trong áp dụng
pháp luật nước ngoài cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung
đột. Tuy nhiên, ngoại lệ ở một vài nước trên thế giới, vấn đề áp dụng pháp luật nước
ngoài vẫn đòi hỏi phải trên nguyên tắc có đi có lại. Chẳng hạn, quy định tại Điều 25
Bộ luật dân sự của Đức năm 1986.
2.
Sự cần thiết của việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
Áp dụng quy phạm xung đột hay áp dụng pháp luật nước ngoài là đòi hỏi tất yếu
khách quan của mỗi quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa và là đặc thù của tư pháp quốc
tế. Khi xuất hiện quan hệ tư pháp quốc tế thì hiện tượng xung đột pháp luật sẽ xảy ra
vì khi đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh và
vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài được đặt ra khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu
tới vì quy phạm này xác định hệ thống pháp luật cụ thể nào có thể được áp dụng để
điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài hoặc có thể do các đương sự thỏa
thuận áp dụng pháp luật nước ngoài. Quy phạm xung đột có thể được xây dựng trong
hệ thống hệ thống pháp luật của quốc gia hoặc trong các điều ước quốc tế mà quốc gia
3
tham gia gồm cả điều ước quốc tế song phương và đa phương. Nói khác đi, việc một
quốc gia cho phép hay không việc áp dụng pháp luật nước ngoài ở quốc gia mình là
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của quốc gia đó, xuất phát từ yêu cầu của quốc gia
trong quá trình bảo về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như pháp
nhân của nước mình, của chính quốc gia trong giao lưu dân sự quốc tế.
Đáp ứng xu thế tất yếu này của tư pháp quốc tế, cũng như các quốc gia khác trên
thế giới, Việt Nam cũng thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài để điều
chỉnh và giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế mà quốc gia có liên quan, thể hiện sự
đối xử của quốc gia với luật nước ngoài là ngang tầm quan trọng với luật trong nước,
qua đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự cũng như thúc đẩy
sự phát triển của giao lưu dân sự quốc tế, góp phần thực hiện chính sách hội nhập kinh
tế quốc tế của quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
cũng phải được xác định trong phạm vi nhất định, đó là phải luôn xuất phát và trên cơ
sở của chủ quyền quốc gia, sự bình đẳng chủ quyền với các quốc gia khác và đồng
thời phải đảm bảo hiệu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với
những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa và nền tảng pháp luật của nước
mình. Chẳng hạn, Tòa án Việt Nam sẽ phải tính đến việc áp dụng pháp luật nước
ngoài trong chừng mực để bảo vệ quyền lợi của vợ chồng và lợi ích của con cái họ
trong trường hợp hai vợ chồng là hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở Pháp. Họ
có 1 con trai, 1 con gái cùng bất động sản và động sản tại Pháp. Sau hơn 20 năm cùng
chung sống ở Pháp, cho đến khi về Việt Nam sinh sống, chỉ sau khoảng 1 năm thì hai
vợ chồng lại xin ly hôn tại tòa án Việt Nam. Như vậy, để giải quyết vụ việc này Tòa
án Việt Nam phải xét tới việc áp dụng pháp luật nước ngoài (Cụ thế là pháp luật
Pháp), xét việc công nhận việc kết hôn của hai công dân Việt Nam ở Pháp là hợp pháp
hay không. Và tài sản của họ ở Pháp là tài sản hợp pháp hay không.
Thực tế các quy định của pháp luật Việt Nam về sự thừa nhận cho phép áp dụng
pháp luật nước ngoài tại Việt Nam được quy định trong các văn bản pháp luật khác
4
nhau của hệ thống pháp luật như: Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự
2005, Luật hàng không dân dụng 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2014….. Dù không quy
định cụ thể việc các bên tham gia quan hệ được lựa chọn pháp luật áp dụng đối với
một phần hay toàn bộ quan hệ giữa các bên nhưng về cơ bản pháp luật Việt Nam cho
phép các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế có quyền lựa chọn áp dụng pháp luật
nước ngoài. Chẳng hạn quy định tại Khoản 3 Điều 759 Bộ luật dân sự 2005: “3.
Trong trường hợp bộ luật này, các văn bản khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hoặc Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp
dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;…….Pháp luật nước
ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng,
nếu sự thỏa thuận đó không trái với các quy định của Bộ luật này và các văn bản
pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Có thể nói, việc áp dụng pháp luật nước ngoài là Việt Nam là rất cần thiết và việc
áp dụng đó được thực hiện trên ba cơ sở là: Khi có quy phạm xung đột trong Điều ước
quốc tế quy định; hoặc khi có quy phạm xung đột trong văn bản pháp luật quốc gia
quy định; hoặc cũng có thể là khi có sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự.
II.
1.
Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
Thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
Trong thời gian qua,Việt Nam đã tham gia kí kết 23 Hiệp định tương trợ tư pháp
về dân sự và các lĩnh vực có liên quan trong đó có một số quy định nhằm quy định cụ
thể hơn việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
Việt Nam cũng đã ban hành các văn bản pháp luật trong đó có những quy định rõ
ràng các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài như Bộ luật dân sự 2005 (Điều
759), Luật thương mại 2005 (Điều 5), Luật hôn nhân và gia đình năm 2014,…......
5
Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các quan
hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam của các Tòa án và trọng
tài Việt Nam là rất hãn hữu và do vậy nên kinh nghiệm của Tòa án, trọng tài Việt
Nam trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài là gần như chưa có. Mặc dù việc áp dụng pháp luật
nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột có thể bảo vệ tốt hơn quyền
và lợi ích chính đáng của các bên nhưng thực tế, khi có vụ việc dân sự liên quan đến
các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài xảy ra, nếu các bên không có
thỏa thuận gì về pháp luật điều chỉnh thì tòa án Việt Nam có xu hướng chung là áp
dụng pháp luật luôn pháp luật Việt Nam để giải quyết. Thậm chí, có trường hợp tòa án
Việt Nam thụ lý nhưng liên quan đến một vấn đề được điều chỉnh bởi pháp luật nước
ngoài thì lại từ chối thẩm quyền giải quyết. Chẳng hạn, vụ việc tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh từ chối thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp xảy ra giữa Công ty
Kolon (Hàn Quốc) và công ty Vinafood (Việt Nam) về vấn đề bồi thường liên quan
đến hợp đồng mua bán một số lượng phân bón, xuất xứ Hoa Kỳ giữa hai công ty xảy
ra cách đây khá lâu. Đúng như trước đó tác giả Nguyễn Công Khanh trong một bài
đăng của mình trên tạp chí Dân chủ và pháp luật đã nói: “tòa án và các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam khi giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài, thường chỉ áp dụng pháp luật Việt Nam, hầu như rất hãn hữu, nếu không
muốn nói là chưa bao giờ áp dụng pháp luật nước ngoài, mặc dù đã được quy phạm
xung đột dẫn chiếu”(1). Hay tại hội thảo “Một số vấn đề thực tiễn về quan hệ nhân thân
và quan hệ tài sản trong Tư pháp quốc tế”, thẩm phán Ngô Thị Minh Ngọc đã thừa
nhận “Chúng tôi chưa bao giờ áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết tranh chấp
dân sự hay ly hôn”(2).
Có thể thấy, các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước
ngoài tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở lý thuyết và rất hạn chế trong việc áp dụng,
dường như mới chỉ được khai thác chủ yếu dưới góc độ nghiên cứu, giảng dạy. Tại
6
Việt Nam, có chăng việc áp dụng pháp luật nước ngoài mới chỉ xuất hiện ở một số
lĩnh vực về hành chính như đăng ký kết hôn giữa người nước ngoài với công dân Việt
Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài..........Như vậy, có thể nói việc áp dụng pháp luật nước ngoài trên thực tiễn Việt
Nam là chưa đạt hiệu quả.
(1) Nguyễn Công Khanh, “Mấy ý kiến sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí dân chủ và pháp luật tháng 1/2001.
(2) Kỷ yếu hội thảo quyền nhân thân và tài sản trong tư pháp quốc tế”, Nhà pháp luật Việt Pháp 2005.
2. Nguyên nhân của những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt
Nam và một số kiên nghị hoàn thiện
a. Nguyên nhân
Sở dĩ việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam còn rất hạn chế dù là do:
Pháp luật Việt Nam đã có quy định về vấn đề này nhưng các quy định đó mới chỉ
dừng lại ở mức độ chung, mang tính khái quát, thường dưới dạng:” theo quy định của
Chính phủ”. Và sau khi các quy định trong các luật, bộ luật.. được ban hành lại còn
cần chờ được hướng dẫn thi hành bởi các nghị quyết, thông tư...thì mới có thể được
thi hành trên thực tế. Đồng nghĩa rằng phải mất rất nhiều thời gian để cac quy định về
việc áp dụng pháp luật nước ngoài này được ban hành và hướng dẫn thi hành để áp
dụng được trên thực tế, trong khi các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu
tố nước ngoài diễn ra ngày càng phổ biến trên thực tế và đòi hỏi phải được giải quyết
nhanh chóng và kịp thời. Chưa kể đến việc các quy định đã được ban hành còn có thể
có tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, trong cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều văn
bản pháp luật khác nhau cùng quy định. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, chủ thể
7
nghiên cứu và áp dụng pháp luật nước ngoài lại chưa có kinh nghiệm xét xử, chưa
thực sự đáp ứng được yêu cầu mới cả về số lượng và chất lượng.
Theo các quy định của pháp luật Việt Nam, nước ta chỉ hạn chế áp dụng pháp luật
nước ngoài khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới trong trường hợp việc áp dụng hoặc
hậu quả của việc áp dụng trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Đoạn 2 Khoản 3 Điều 759 BDLS năm 2005 có quy định: “Pháp luật nước ngoài cũng
được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa
thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác của
Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Câu hỏi đặt ra ở đây là nếu sự thỏa thuận của
các bên trong hợp đồng không trái với pháp luật Việt Nam nhưng trái với điều ước
quốc tế mà Việt nam là thành viên thì sao? Điều này hoàn toàn có thể xảy ra trên thực
tế. Ví dụ: 1 Công ty mang quốc tịch Anh (có trụ sở ở Anh) kí hợp đồng với một công
ty mang quốc tịch Việt nam (trụ sở ở Việt Nam). Trong hợp đồng thỏa thuận pháp luật
áp dụng cho nội dung hợp đồng là pháp luật Mỹ. Giả định rằng giữa Việt Nam và Anh
có một điều ước quốc tế về vấn đề này trong đó quy định đối với hợp đồng giữa
thương nhân hai nước thì luật áp dụng để giải quyết cho nội dung hợp đồng là pháp
luật nước ký kết có tòa án thụ lý vụ việc. Vậy thì trong trường hợp này, việc thỏa
thuận giữa hai bên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam nhưng
nó lại trái với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (với quy định của điều ước
thì rõ ràng không cho phép các bên thỏa thuận về lựa chọn pháp luật).
b. Một số kiến nghị hoàn thiện
Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
pháp luật nước ngoài tại Việt Nam, nhóm 3 xin trình bày một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại
Việt Nam: Các quy định trong các văn bản pháp luật cần được quy định một cách cụ
8
thể, rõ ràng, nên quy định việc giải quyết một vấn đề trong cùng một văn bản, giảm
dần việc phải ban hành thêm các văn bản pháp luật khác để hướng dẫn thi hành các
quy định đã có. Các hiệp định tương trợ tư pháp cần phải quy định một cách rõ ràng
và cụ thể về các trường hợp áp dụng pháp luật nước kia để vừa thuận tiện và hiệu quả
trong quá trình giải quyết, vừa tránh xung đột pháp luật.
Thứ hai, nâng cao trình độ, năng lực của các cán bộ trong các cơ quan áp dụng
pháp luật, đáp ứng xu thế mới cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ. Đồng
thời các cơ quan có thẩm quyền cần áp dụng pháp luật nước ngoài một cách thiện chí,
trung thực, đầy đủ. Không thể chỉ áp dụng những quy phạm hay nội dung mang tính
chất có lợi cho các chủ thể mang quốc tịch của quốc gia mình hoặc cố tình hiểu sai
lệch ý nghĩa của các quy phạm pháp luật nước ngoài.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hóa và tăng cường hợp tác, các quốc gia phải thực
hiện các cam kết của mình một cách tận tâm, thiện chí. Nếu quốc gia nào thiếu thân
thiện trong việc thực hiện các cam kết thì chính họ sẽ bị giảm sút uy tín.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế nói chung và trong tư
pháp quốc tế Việt Nam nói riêng là vấn đề khá phức tạp và trong xu thế toàn cầu hóa
thì đây là nhu cầu và đòi hỏi tất yếu của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trên
đây là phần trình bày của nhóm 3 về một số vấn đề liên quan đến vấn đề này nước tại
Việt Nam. Rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài làm được hoàn
thiện hơn.
9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB. ...
Ths. Bùi Thị Thu (Chủ biên), giáo trình Luật tư pháp quốc tế, Nxb. Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội, 2010.
3. TS. Nguyễn Hồng Bắc, Hướng dẫn học môn tư pháp quốc tế, Nxb........
4. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội, 2009: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam
hiện nay. Bài viết: “Áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam” của TS. Nguyễn
Hồng Bắc.
5. Nguyễn Bá Diến (chủ biên), giáo trình Tư pháp quốc tế, Khoa luật – Đại học quốc gia
Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2003.
6. Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
7. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
8. Nguyễn Công Khanh, “Mấy ý kiến sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí dân chủ và pháp luật tháng
1/2001.
9. Kỷ yếu hội thảo quyền nhân thân và tài sản trong tư pháp quốc tế”, Nhà pháp luật Việt
Pháp 2005.
10. TS. Đỗ Văn Đại và PGS. TS. Mai Hòng Qùy, “Tư pháp quốc tế Việt Nam”, Nxb.
Chính trị quốc gia, 2001.
10
MỤC LỤC
11