Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY BẬC ĐẠI HỌC - CAO ĐẲNG THEO HƯỚNG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.26 KB, 20 trang )

Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Xã hội hiện nay ngày càng phát triển, phát triển con người là vấn đề trọng tâm của
mỗi quốc gia. Giáo dục quyết định cho bản tính con người trong tương lai. “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu” là khẩu hiệu thường thấy ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nước
Việt Nam ta cũng không ngoại lệ. Giáo dục đang là mối quan tâm lớn của toàn xã hội.
Chúng ta đang nỗ lực để xây dựng và thực hiện chương trình cải cách giáo dục, nhằm đáp
ứng đòi hỏi về nhân lực của xã hội hiện đại ngày nay. Cuộc cách mạng về khoa học và
công nghệ trên thế giới cũng như ở Việt Nam đòi hỏi giáo dục và nhà trường phải chuyển
biến theo cho phù hợp. Trong thời đại bùng nổ thông tin, thị trường lao động đòi hỏi nhà
trường phải đào tạo những con người năng động, có khả năng thích ứng nhanh nhạy với
biến đổi không ngừng của cuộc sống. Họ phải có khả năng tự học tự nghiên cứu để cập
nhật thông tin, nhất là khi không còn ngồi trên ghế nhà trường. Học tập suốt đời là
phương châm sống của mỗi người trong thời đại chúng ta. Do đó, nhà trường phải trang
bị cho người học phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Trên tất cả những cơ sở đó, tôi xin
trình bày đề tài: “PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY BẬC ĐẠI HỌC - CAO ĐẲNG THEO
HƯỚNG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ”. Tinh thần cốt lõi của dạy học theo học chế tín chỉ chính
là dạy học tích cực và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học. Dạy học tích cực hay
phương pháp tích cực đều có cùng đặc điểm với tinh thần “dạy học lấy người học làm
trung tâm”. Cách dạy của thầy không còn là truyền thụ một chiều, chỉ cung cấp thông tin
nữa mà là dạy cách học, cách học của trò không chỉ là tích lũy kiến thức mà phải nắm lấy
cách tự học. Các nghiên cứu về phương pháp dạy học trên thế giới cũng như ở Việt Nam
đã cho thấy chừng nào thầy còn dạy theo kiểu truyền thụ một chiều, trò còn học theo kiểu
ghi nhớ kiến thức, kiểm tra đánh giá nặng về kiến thức, coi nhẹ kĩ năng, tư duy thì chất
lượng đào tạo còn hạn chế, sản phẩm đào tạo không đáp ứng nhu cầu của thị trường lao
động. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quyết định số 43/2007/QĐ- BGDĐT ngày 15 tháng
8 năm 2007 về việc ban hành “Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ


thống tín chỉ”. Đó là bước đột phá chiến lược nhằm nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại
học, cao đẳng ở nước ta.
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 1


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
2.1: Ý nghĩa lý luận:
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ ra đời không chỉ để đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện
đại có tính năng động ngày càng cao mà còn để đáp ứng nhiều mục tiêu, trong đó có sự
thay đổi về quan niệm giáo dục. Từ quan niệm một nền giáo dục dựa trên quyền lực- theo
đó người học chỉ có nhiệm vụ là phục tùng, là chấp nhận vô điều kiện chương trình mà
cơ sở đào tạo quy định và nội dung mà người dạy truyền đạt, đến quan niệm dân chủ
trong giáo dục. Quan niệm giáo dục lấy người học làm trung tâm chính là biểu hiện tập
trung nhất của việc trao quyền dân chủ cho người học càng ngày càng nhiều hơn.
2.2: Ý nghĩa thực tiễn:
Nước Mỹ có một hệ thống giáo dục Đại học tốt nhất trên thế giới. Theo những
bảng xếp hạng đáng tin cậy nhất, 17/20 trường đại học tốt nhất trên Thế giới lag Đại học
Mỹ, còn trên bảng xếp hạng 50 thì Mỹ chiếm 35.Các trường đại học này đang sử dụng
70% những người đoạt giải Nobel, những người này chiếm 30% số lượng các bài nghiên
cứu khoa học trong khoa học và kĩ thuật trên Thế giới, và là tác giả của 44% những trích
dẫn phổ biến nhất trên các bài nghiên cứu khoa học trên toàn Thế giới. Đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam, đặc điểm ấn tượng của Đại học Mỹ là họ đã duy trì được
chất lượng xuất sắc như vậy với một số lượng sinh viên lớn hơn bất cứ nơi nào khác trên
thế giới.

Vì vậy, Việt Nam và các nước đang phát triển khác đang đối mặt với áp lực từ cả
hai phía: sự bùng nổ số lượng và yêu cầu về chất lượng, đang nghiên cứu hệ thống giáo
dục Mỹ để khám phá bí quyết ấy. Nhìn chung, những nước này đang tập trung chú ý đến
một nhân tố quản lý vốn là sáng kiến của hệ thống giáo dục Mỹ, đó là hệ thống phân
chia/ tích lũy học phần, hay còn được biết đến với tên gọi “hệ thống đào tạo theo tín chỉ”.

PHẦN NỘI DUNG
I. Định nghĩa tín chỉ và học chế tín chỉ:
1. Tín chỉ là gì?
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 2


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

Trong kho tàng các tư liệu nghiên cứu, có khoảng hơn 60 định nghĩa về tín chỉ. Có
định nghĩa coi trọng khía cạnh định tính, có định nghĩa coi trọng khía cạnh định lượng,
có định nghĩa nhấn mạnh vào chuẩn đầu ra của sinh viên, có định nghĩa lại nhấn mạnh
vào các mục tiêu của một chương trình học. Một định nghĩa về tín chỉ được các nhà quản
lí và các nhà nghiên cứu giáo dục ở Việt Nam biết đến nhiều nhất có lẽ là của học giả
người Mĩ gốc Trung Quốc James Quann thuộc Đại học Washington. Trong buổi thuyết
trình về hệ thống đào tạo theo tín chỉ tại Đại học Khoa học Công Nghệ Hoa Trung, Vũ
Hán mùa hè năm 1995, học giả James Quann trình bày cách hiểu của ông về tín chỉ như
sau:
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình
thường để học một môn học cụ thể, bao gồm: (1) thời gian lên lớp; (2) thời gian ở trong
phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu;

và (3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị
bài…; đối với các môn học lí thuyết một tín chỉ là một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị
bài) trong một tuần và kéo dài trong một học kì 15 tuần; đối với các môn học ở studio
hay phòng thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị); đối với các
môn tự học, ít nhất là 3 giờ làm việc trong một tuần.
Từ định nghĩa trên, kết hợp với nghiên cứu những định nghĩa khác về tín chỉ và thực tế
đào tạo của đơn vị, tín chỉ theo cách hiểu của ĐHQGHN được cụ thể hóa như sau:
Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kĩ năng của một môn học mà người
học cần phải tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định thông qua các hình thức: (1)
học tập trên lớp; (2) học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc
khác (có sự hướng dẫn của giáo viên); và (3) tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu,
giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài v.v. Tín chỉ còn được hiểu là khối lượng lao động của
người học trong một khoảng thời gian nhất định trong những điều kiện học tập tiêu
chuẩn.
2. Học chế tín chỉ:
Học chế tín chỉ là một hình thức đào tạo được hầu hết các nước tiên tiến trên thế giới
áp dụng. Bản chất của học chế tín chỉ là “cá thể hóa việc học tập trong một nền giáo dục
đại học cho số đông”, với triết lý “hướng về người học”; “lấy người học làm trung tâm”.
Học chế này tạo điều kiện và bắt buộc người học phải chủ động trong việc học tập của
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 3


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

mình. Đây chính là mục tiêu của giáo dục đại học: người học có khả năng tự học, tự
nghiên cứu, có khả năng giải quyết vấn đề, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của

người học. Hiệu quả đào tạo được tăng lên do người học được học theo nhu cầu, khả
năng học tập và hoàn cảnh kinh tế của mình.
Trong đào tạo theo học chế tín chỉ, người học giữ vị trí đặc biệt quan trọng, vị trí
“trung tâm” trong đào tạo tín chỉ. Nhưng nếu những “trung tâm” này không hoạt động,
hoạt động yếu hoặc thiếu chủ động thì dù có cố gắng đến mấy thì những tương tác đến
những “trung tâm” ấy sẽ mất tác dụng, từ đó sẽ dẫn đến thất bại trong đào tạo. Những
sinh viên mới với những thói quen, cách học, cách tư duy cũ ở bậc trung học khi bước
chân vào giảng đường Đại học chắc chắn còn nhiều lạ lẫm, bỡ ngỡ và chưa thể trở thành
ngay những trung tâm, hạt nhân tích cực trong quá trình học tập ở đại học.
Như vậy, làm thế nào để người học – những sinh viên mới nhập trường trở thành
“trung tâm” tích cực trong đào tạo theo học chế tín chỉ là một trong những việc cần phải
làm tốt để có thể tổ chức đào tạo theo tín chỉ có hiệu quả.
II.

Vai trò và nhiệm vụ của người dạy và người học trong hệ thống đào tạo theo tín
chỉ:
1. Vai trò và nhiệm vụ của người dạy:
-

Đào tạo hệ thống tín chỉ không phải là việc giảm giờ dạy trên lớp một cách máy

móc. Cái làm nên sự thay đổi căn bản về chất của học chế tín chỉ là sự thay đổi quan
niệm về đào tạo. Việc thay đổi quan niệm này tất yếu phải dẫn đến thay đổi về phương
pháp dạy học. Thật vậy, việc thay đổi từ quan niệm lấy người dạy làm trung tâm sang
quan niệm lấy người học làm trung tâm đã dẫn đến việc thay đổi căn cơ vai trò của người
dạy: phương pháp truyền đạt kiến thức hoặc cách tiếp cận nội dung được thay bằng cách
tiếp cận mục tiêu sao cho người học đạt được mục tiêu xây dựng những kỹ năng cao cấp,
như phân tích, tổng hợp, phản biện, ra quyết định, giải quyết vấn đề…
- Nhà giáo Đại học hiện nay không còn là người đơn thuần truyền thụ kiến thức mà
là người hướng dẫn, hỗ trợ và tư vấn cho sinh viên tìm chọn và xử lý thông tin. Do đó

người thầy phải nắm bắt được nhu cầu của người học và tổ chức để họ quản lý được thời
gian của mình, có tính đến sự khác biệt cá thể, đồng thời động viên họ tích cực tham gia
vào quá trình nâng cao năng lực nhận thức và tư duy, chỉ dẫn và giúp đỡ họ phát triển các
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 4


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

kỹ năng học tập độc lập như tự quyết định mục tiêu của bản thân, tự tìm kiếm và xử lý
thông tin, tự đánh giá năng lực và chất lượng học tập của mình ... để sản phẩm đào tạo
của đại học có thể là những thực thể tiếp tục phát triển sau khi tốt nghiệp và suốt đời.
- Vị trí của nhà giáo đại học không phải được xác định bằng sự độc quyền về thông
tin và tri thức có tính đẳng cấp, mà bằng trí tuệ và sự từng trải của mình trong quá trình
dẫn dắt SV tự học.
- Điểm cơ bản và quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy-học đại học hiệu quả
là người thấy nêu vấn đề và phát huy tối đa khả năng tự học và tư duy độc lập của sinh
viên. Các cách dạy học theo lối truyền thống truyền đạt - lĩnh hội cần được thay đổi bằng
những cách làm mới cùng với sự hỗ trợ của phương tiện mới hiện đại.
-

Luôn liên hệ với thực tiễn đang thay đổi.

-

Làm cho SV biết hợp tác và chia sẻ.


-

Tận dụng sự hỗ trợ của phương tiện dạy học

- Nghiên cứu khoa học cũng là một yêu cầu đối với giảng viên và đồng thời nó
khẳng định “tính đại học”, là thành tố không thể thiếu trong việc hình thành phương pháp
dạy-học mới trong các trường đại học, giúp thầy tìm kiếm, phát hiện, giúp trò gắn học với
hành, phát triển tư duy logic và rèn luyện phương pháp luận sáng tạo. Dựa trên những
định hướng nghiên cứu lớn của từng trường, mỗi giảng viên phải xây dựng cho mình một
hướng đề tài nghiên cứu lâu dài, trên cơ sở đó xác định kế hoạch nghiên cứu khoa học
cho từng thời kỳ. Có thể huy động những khả năng to lớn của sinh viên vào việc cùng
thực hiện từng phần của đề tài. Nghiên cứu khoa cũng chính là phương thức hiệu quả
nhất để thầy có thể nâng cao chất lượng chuyên môn của mình.
2. Vai trò và nhiệm vụ của người học:
∗ Vì mục tiêu đào tạo theo tinh thần mới là rèn luyện các kỹ năng cao cấp như quan
sát, phân tích, so sánh, phê phán… nên hình thức học vẹt, học nhồi nhét kiến thức không
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 5


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

còn phù hợp nữa. Đào tạo theo hướng sư phạm tích cực đồng nghĩa với việc tự học và tự
nghiên cứu.
- Người học quyết định lộ trình học tập: Người học kế hoạch hóa quá trình đào tạo
của mình, tùy theo quỹ thời gian của mỗi người. Theo tinh thần đó, người học sẽ quyết
định sau khi hoàn tất chương trình phổ thông họ sẽ vào học đại học ngay hay tham gia

vào lao động xã hội để giải quyết vấn đề tài chính gia đình. Khi vào đại học, họ sẽ lên kế
hoạch hoàn tất chương trình học trong thời gian phù hợp với họ: cơ sở đào tạo ấn định
ngưỡng thời gian ngắn nhất và dài nhất cho một khóa đào tạo: một chương trình đào tạo 4
năm có thể được người học thực hiện trong 3 năm hoặc 8 năm, tùy theo hoàn cảnh gia
đình của mỗi người. Đây là một nỗ lực nhằm hướng đến sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận
với giáo dục đại học.
- Người học quyết định nội dung của quá trình đào tạo: Khác với phương thức đào
tạo truyền thống, ở đó người học phải trải qua một chương trình đào tạo được quy định
chung cho mọi người, phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ nhằm cá thể hóa quá
trình đào tạo, nghĩa là người học sẽ tự thieets kế chương trình đào tạo cho chính mình.
Người học sẽ chọn những học phần nào họ cảm thấy hứng thú hoặc phù hợp với năng
khiếu, sở thích và định hướng nghề nghiệp của mình. Vì thế, một cơ sở đào tạo có năng
lực đáp ứng nhu cầu xã hội, có sức thu hút là cơ sở có khả năng cung cấp càng nhiều môn
học tự chọn càng tốt để việc chọn lựa càng phù hợp với người học. Hệ thống tự chọn đem
lại cho sinh viên một cơ hội để phân biệt bản thân mình với người khác, theo đuổi những
mối quan tâm riêng của mình và xây dựng tương lai nghề nghiệp dựa trên thế mạnh và tài
năng của mình.
- Người học tham gia vào việc quyết định cách thức học tập của từng môn học: Về
khía cạnh thụ đắc kiến thức, hệ thống đào tạo mới này dựa trên quan điểm của lý thuyết
kiến tạo xã hội. Theo đó, thái độ tiếp thu kiến thức một cách thụ động trong nền giáo dục
truyền thống là đi ngược lại với bản chất của việc hình thành tri thức. Vì thế, nó đòi hỏi
người học phải thay đổi thái độ trong học tập, phải xây dựng kiến thức cho mình qua quá
trình tự nghiên cứu. Chính vì thế, giờ học trên lớp được quan niệm là nơi “cọ xát” giữa
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 6


Giáo dục học đại cương


GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

những kiến thức mà người học có được từ nhiều nguồn khác nhau. Phương châm tự chủ
trong học tập đã trở thành chìa khóa then chốt trong phương pháp sư phạm tích cực.
∗ Tóm lại, đào tạo theo hệ thống tín chỉ là tăng cường ý thức trách nhiệm của người
học đối với việc đào tạo của bản thân mình, là thực hiện dân chủ hóa trong giáo dục:
người học tham gia vào tất cả các khâu trong tiến trình đào tạo của mình, từ việc cơ cấu
các môn học dựa trên hệ thống tự chọn, đến việc quy hoạch lộ trình thực hiện tiến trình
đào tạo đó tùy theo điều kiện và năng lực về tài chính, về quỹ thời gian của mình.
III.

Những phương pháp trong dạy và học theo học chế tín chỉ:
1. Các phương pháp (PP) thu nhận thông tin:
- PP đọc sách và ghi chép: Đọc từng đoạn, từng chương, từng nội dung của tài liệu và

ghi chép những vấn đề cơ bản, tóm tắt nội dung hoặc đề cương là giúp người học nắm
được tổng thể kết quả nội dung đã học là gì, có khi làm sáng tỏ vấn đề người học đang cố
tìm hiểu thêm về một đối tượng, một nội dung trong quá trình học. Đây cũng là cách thu
nhận thông tin thường xuyên nhất của người học. Trong quá trình dạy học, giảng viên
(GV) yêu cầu sinh viên đọc một tài liệu hoặc một số trang của của tài liệu, tìm hiểu và
tóm tắt nội dung trước khi đến lớp. Cũng có khi giao phần đọc thêm sau khi đã học một
nội dung để bổ sung kiến thức, làm rõ thêm vấn đề mà GV không giảng trên lớp. Kiểm
tra bằng kết quả tóm tắt của SV, trả lời một số câu hỏi (CH) do GV đưa ra.
- PP hỏi: Hỏi là tự mình đặt CH trong quá trình học để tìm hiểu và giải đáp một số vấn
đề chưa rõ, cần làm sáng tỏ. Hỏi và tìm câu trả lời là cách thức không chấp nhận dễ dàng
một vấn đề khi chưa hiểu rõ và thể hiện tư duy tích cực trong quá trình học tập. Biết cách
đặt câu hỏi cũng là biết cách nhận diện, khám phá các khía cạnh của vấn đề, cần dành
thời gian cho SV hỏi, hoặc sử dụng trong khi SV thảo luận, hoặc sau khi một nhóm trình
bày kết quả thảo luận của mình, GV yêu cầu các nhóm khác thảo luận, chất vấn nhóm
vừa trình bày. GV hướng dẫn SV sử dụng các câu hỏi có các từ hỏi: Cái gì, là gì? Tại sao,

vì sao? Ở đâu? Khi nào? Như thế nào? Khuyến khích SV hỏi và có thể cộng điểm cho
SV, cho nhóm nếu hỏi được câu hỏi đúng và hay.

SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 7


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

- PP nghe giảng: Nghe giảng là điều cần thiết của HS, SV để thu nhận thông tin từ
GV. Nghe giảng giúp HS, SV biết được những điều đơn giản của nội dung bài học qua
người đã nghiên cứu, có kinh nghiệm, có hiểu biết về nội dung cần học, đồng thời được
phân tích, minh họa qua các ví dụ. Cách trình bày, tiếp cận, nhấn mạnh những điều cơ
bản của GV qua cử chỉ, giọng nói làm cho HS, SV chú ý, hiểu và ghi nhớ hơn, thu nhận
thông tin tốt hơn. Yêu cầu SV đi học chuyên cần, có ghi chép và kiểm tra là cách giúp SV
nghe giảng thường xuyên, không bỏ qua các bài giảng của GV.
- PP nhớ: Ghi nhớ những vấn đề cơ bản để sử dụng trong các trường hợp cần thiết là
yêu cầu bắt buộc ở một số nội dung trong quá trình học, ví dụ khái niệm, định nghĩa, quy
tắc, quy trình, định lý, định luật, công thức tính… Ghi nhớ là cách thu nhận thông tin cơ
bản không thể thiếu trong quá trình học, bằng cách lặp đi lặp lại một vài lần, hoặc ứng
dụng một số lần cho đến khi thuộc. Có thể nhớ nội dung, cũng có thể nhớ phương pháp,
cách tìm nó ở đâu, như thế nào. Yêu cầu SV học thuộc, nhớ những điều cơ bản, hỏi đi hỏi
lại SV, hướng dẫn SV cách học và nhớ, vận dụng sẽ giúp SV nhớ và nhớ lâu hơn.
- PP dùng từ điển, sử dụng CNTT: Từ điển giúp người học tra cứu để làm rõ khái
niệm, từ đó hiểu nội hàm khái niệm, có thể có ví dụ minh họa. Tra từ điển cũng là cách
thu nhận thông tin nhanh và bổ ích cho HS SV khi cần tìm hiểu một khái niệm bắt gặp
mà chưa có lời giải thích hoặc chưa hiểu rõ nội hàm của nó. GV yêu cầu SV tìm hiểu,

giải thích các thuật ngữ, tạo điều kiện cho SV tra từ điển, học qua từ điển. Bản thân GV
khi giảng, trình bày cũng liên hệ theo từ điển thì từ, cụm từ, thuật ngữ đó được hiểu như
thế nào để SV có thói quen sử dụng từ điển trong học tập và cuộc sống.
- PP học trong sự tập trung tư tưởng cao độ: Học trong sự tập trung tư tưởng cao độ
giúp người học nhớ và hiểu được những vấn đề cơ bản của tri thức, tính logic của nội
dung, thông tin thu được nhiều và nhanh hơn. Thường thì tập trung tư tưởng cao độ sẽ
giúp người học hiểu kỹ hơn, nhớ lâu hơn, do vậy cũng là PP thu nhận thông tin tích cực.
Ở lớp, GV yêu cầu SV tập trung chú ý, thỉnh thoảng hỏi lại vấn đề vừa trình bày, làm cho
SV phải tập trung chú ý. Yêu cầu SV về nhà phải có kế hoạch học tập và tập thói quen

SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 8


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

tập trung tư tưởng học trong khi thực hiện kế hoạch học tập trong một thời gian nhất
định.
2. Các PP xử lý thông tin:
- Diễn đạt ý kiến: Diễn đạt ý kiến là trình bày cho người khác hiểu một nội dung theo
cách hiểu của mình. Bằng cách sắp xếp và trình bày theo một ý tưởng nào đó, hình thức
nào đó, diễn đạt ý kiến chính là xử lý thông tin theo cách riêng của mình theo một logic
xác định. GV thường xuyên tạo điều kiện, yêu cầu SV lần lượt thay nhau trình bày trong
nhóm, không có ai không có ý kiến riêng của mình sẽ giúp SV diễn đạt tốt hơn trong quá
trình học.
- Học bằng PP tiếp cận hệ thống: Tiếp cận hệ thống là xem xét sự vật trong một thể
thống nhất với các yếu tố có quan hệ, ràng buộc lẫn nhau, phụ thuộc nhau, ảnh hưởng đến

nhau. Khi thay đổi một thành phần, một yếu tố trong hệ thống thì các yếu tố khác cũng có
sự thay đổi. Vì vậy, PP tiếp cận hệ thống giúp cho HS, SV gắn các đối tượng có liên quan
trong một chỉnh thể để xem xét, phát hiện các mối quan hệ giữa chúng trong quá trình
học. Yêu cầu SV lập đề cương, lập sơ đồ tóm tắt một chương sau khi học sẽ giúp SV sắp
xếp, liên kết các vấn đề thành hệ thống, theo một cấu trúc nào đó và có sự giải thích cũng
là một cách giúp SV tiếp cận hệ thống.
- Đặt câu hỏi (CH): Đặt CH để tìm hiểu, để phân loại, sắp xếp đối tượng theo một cấu
trúc, hệ thống nào đó. Đó cũng là cách xử lý thông tin một cách tích cực từ người học.
Bản thân GV cần đặt CH và yêu cầu SV đặt CH trong quá trình học.
- Nghiên cứu theo nhóm: Nghiên cứu theo nhóm giúp các thành viên trong nhóm giải
quyết các vấn đề khác nhau do nhóm đặt ra và phân công cho các thành viên. Đó là cách
xử lý thông tin theo PP liên kết mạng. Nghiên cứu theo nhóm không chỉ giúp người học
thu nhận thông tin của nội dung cần nghiên cứu một cách tổng thể mà còn thu nhận thông
tin qua PP thực hiện, xử lý thông tin của các thành viên trong nhóm. GV giao việc, hướng
dẫn SV hoạt động nhóm và kiểm tra kết quả để giúp SV nghiên cứu theo nhóm và xử lý
thông tin trong quá trình học.
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 9


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

- Lập sơ đồ: Là một cách sắp xếp các thông tin theo một kiểu nào đó làm nổi bật đặc
tính của sự vật, hiện tượng, có sự so sánh, đối chiếu với một chuẩn nào đó. Lập sơ đồ và
cách xử lý thông tin, đưa thông tin vào mối quan hệ, so sánh, đối chiếu với các định mức,
tiêu chuẩn cần thiết. Tùy vào nội dung bài học mà GV yêu cầu SV lập sơ đồ, biểu bảng
phù hợp.

- Viết đoạn văn: Viết đoạn văn với những yêu cầu trình bày, diễn tả nội dung có liên
quan đến việc mô tả, so sánh, phân tích, tổng hợp một vấn đề. Có khi sử dụng trong
thuyết minh một vấn đề, bảo vệ một luận điểm bằng ngôn ngữ. Đó cũng là cách xử lý
thông tin bằng ngôn ngữ thông thường khi cần thiết.
- Sắp xếp khái niệm: Sắp xếp khái niệm là xử lý thông tin theo một trật tự logic, một
hệ thống, một đặc điểm hoặc một tính chất nào đó. Khi có nhiều khái niệm khác nhau,
GV cho SV sắp xếp các khái niệm để hiểu rõ mối quan hệ giữa các khái niệm, làm cho
SV hiểu rõ hơn nội dung bài học.
- Viết tóm tắt từ các bảng ghi chép: Đây là cách xử lý thông tin qua cách hiểu của
người học bằng cách thu thập, tổng hợp, chắt lọc, sắp xếp lại các tri thức theo một yêu
cầu nào đó sau khi đã ghi chép một số nội dung.
3. PP nghiên cứu khoa học:
- Bài tập nghiên cứu; Khóa luận tốt nghiệp; Luận văn tốt nghiệp là những PP giúp
người học trình bày những vấn đề nghiên cứu theo một trình tự, hệ thống, logic về các
kiến thức, kỹ năng học được trong quá trình học tập. Nó thể hiện cao nhất kết quả học tập
của người học. Nó cũng thể hiện năng lực, trình độ, khả năng phân tích, tổng hợp, cách
trình bày, diễn đạt một vấn đề của người học. Những quy định về các phương pháp thực
hiện hình thức học tập này có các quy định riêng có thể tham khảo ở các tài liệu khác mà
chúng tôi không trình bày ở đây.
4. PP rèn luyện tư duy:

SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 10


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân


- Học là quá trình nhận thức, hiểu và nắm tri thức, từ đó vận dụng trong thực tế. Tư
duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, cho phép người học đi sâu vào bản chất và
phát hiện ra tính quy luật của sự vật, hiểu được bản chất và mối quan hệ của sự vật, hiện
tượng. PP rèn luyện tư duy giúp người học hiểu sâu kiến thức, nắm bản chất của sự vật,
hiện tượng, biết cách suy luận để tìm hiểu vấn đề và giải quyết vấn đề. Rèn luyện tư duy
là cách giúp người học có phương pháp học, cách học tốt, phẩm chất trí tuệ cao, kết hợp
với rèn luyện các phẩm chất của nhân cách để rèn luyện tư duy cho HS, SV trong quá
trình tự học, GV chú ý sử dụng các thao tác tư duy so sánh, phân tích, tổng hợp, tương tự,
khái quát hóa, trừu tượng hóa. Đồng thời sử dụng các PP suy luận như suy diễn, quy nạp,
hay PP khám phá, tìm tòi. GV cần kết hợp tư duy logic, tư duy biện chứng và các loại
hình tư duy khác (Tư duy phê phán, tư duy sáng tạo…) trong dạy học. Sau khi thực hiện
các thao tác, PP trên, cần cho SV nhìn lại, nhận xét, đánh giá lại kết quả và bước đi của
mình để học cách tư duy, học PP tư duy, dần hình thành thói quen và bồi dưỡng các
phẩm chất trí tuệ cho SV.
5. PP tương tác, hợp tác: Theo Nguyễn Hữu Châu, trong dạy học hợp tác, có thể vận
dụng tổ chức bài học hợp tác với các hình thức như sau:
- Ghi chép bài hợp tác theo cặp.
- Cùng tóm tắt bài với người bên cạnh.
- Đọc và giải thích tài liệu theo cặp.
- Từng cặp cùng viết bài và chỉnh sửa bài.
- Ôn luyện theo cặp.
- Giải quyết vấn đề theo cặp.
- Tranh luận về các vấn đề của bài học.
- Điều tra nhóm.
 Các PP này giúp người học nỗ lực nhiều hơn, hiệu suất làm việc cao hơn, trạng
thái tâm lý tốt hơn, có mối quan hệ tích cực hơn với nhau trong học tập. Trong quá trình
dạy và học, tùy từng nội dung mà GV yêu cầu, hướng dẫn SV thực hiện PP tương tác,
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 11



Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

hợp tác trong học tập cho phù hợp, đặc biệt tổ chức hoạt động tương tác hợp tác trong các
giờ thực hành, ôn tập, thực hiện chuyên đề. GV có thể kiểm tra và đánh giá kết quả của
các cặp, các nhóm sau khi thực hiện.
6. PP tự kiểm tra, tự điều chỉnh: Tự kiểm tra, tự điều chỉnh là một yêu cầu đối với SV
trong dạy học theo hệ tín chỉ để giúp SV tự chủ, biết đánh giá kết quả học tập, làm việc
của bản thân, dần hình thành tính độc lập, tính trách nhiệm, tính tự chủ của bản thân. Để
giúp SV tự kiểm tra, tự điều chỉnh, GV có thể sử dụng các hình thức:
- Phân tích một CH, lập dàn ý trả lời một câu hỏi.
- Làm bài kiểm tra trắc nghiệm khách quan.
- Chuẩn bị bài kiểm tra viết.
- Chuẩn bị bài thi tự luận.
- Học từ các tín hiệu phản hồi.

SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 12


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

IV. Thực trạng việc đào tạo tín chỉ hiện nay:
1. Mặt tích cực:

- Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo trong đó sinh viên chủ động lựa chọn từng
môn học theo một số ràng buộc qui định trước nhằm tích lũy từng phần và tiến tới hoàn
tất toàn bộ chương trình đào tạo để được cấp bằng tốt nghiệp.
-

Học chế tín chỉ cũng tạo điều kiện tối đa để cá nhân hóa qui trình đào tạo, trao

quyền chủ động cho sinh viên trong việc đăng ký sắp xếp lịch học, việc tích lũy tín chỉ
theo các môn học, kể cả sắp xếp thời gian học ở trường, thời gian tốt nghiệp...
-

Như vậy việc áp dụng học chế tín chỉ ở các trường đại học là để đáp ứng nhu cầu

chủ động của sinh viên trong học tập, và cũng đòi hỏi tính chủ động rất cao của sinh viên
trong việc lập kế hoạch dự kiến đăng ký các môn học, chọn lựa môn học ngay từ đầu cho
cả chương trình học bốn hay năm năm. Sinh viên phải chủ động tìm hiểu đề cương các
môn học, rồi theo đó mà chuẩn bị đọc tài liệu trước giờ học, tích cực chủ động tham gia
thảo luận trong lớp, cũng như làm bài tập, viết tiểu luận, làm dự án ở nhà...
-

Việc áp dụng học chế tín chỉ không những đòi hỏi những thay đổi về phía nhà

trường, về phía giảng viên mà còn đòi hỏi những thay đổi rất lớn về phía người sinh viên,
đặc biệt là tính chủ động rất cao của sinh viên.


Như vậy việc chuyển từ học tập theo học chế sang học chế tín chỉ sẽ tạo ra những

điều kiện thuận lợi và động lực không nhỏ trong việc đổi mới phương pháp dạy - học.
Một điều đáng quan tâm nữa là đổi mới phương pháp dạy đại học phải đi đôi với việc đổi

mới cách thức đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Trước đây cánh thức đánh giá kết
quả học tập của sinh viên chỉ chú trọng vào kết quả kỳ thi cuối khóa và việc đánh giá chỉ
chú trọng đến kiến thức chứ chưa chú trọng đến việc phát huy tư duy, khả năng sáng tạo,
khả năng làm việc nhóm, ..Trong bối cảnh mới, với việc đổi mới phương pháp dạy học,
việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên cần thiết phải đổi mới theo hướng nhà trường
và giảng viên có thể sử dụng các loại kiểm tra khác nhau trong đánh giá quá trình đã
được sử dụng ở các đại học nước ngoài như kiểm tra ngắn, kiểm tra đột xuất, bài tập làm
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 13


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

ở nhà, dự án hay đồ án thiết kế, báo cáo nghiên cứu khoa học, tiểu luận, thi giữa học kỳ...
Về nội dung thì các bài kiểm tra đánh giá này nên được tăng cường các phần thuộc loại
nhận thức bậc cao trong bảng xếp loại Bloom như: áp dụng, phân tích, tổng hợp, và thẩm
định. Cách kiểm tra đánh giá này sẽ làm cho sinh viên chú ý việc suy luận, nghiên cứu,
phân tích giải quyết vấn đề một cách thường xuyên trong quá trình học tập, và sẽ chấm
dứt tình trạng học vẹt, học tủ, hay dùng phao để gian lận thi cử. Khi đó giảng viên sẽ
khuyến khích sinh viên tham khảo nhiều tài liệu khi làm bài ở nhà, có thể cho sinh viên
hợp tác theo nhóm, và có thể cho sinh viên sử dụng tài liệu trong các kỳ thi giữa học kỳ
và cuối khóa.
2. Mặt hạn chế:
2.1.

Về phía sinh viên:


- Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải có kỹ năng tự học và tự nghiên
cứu. Thế nhưng thói quen học vẹt và chỉ học theo giáo trình hoặc bài vở của Thầy Cô đã
hình thành từ khi còn học phổ thông đã khiến không ít sinh viên gặp nhiều khó khăn,
hoặc cảm thấy mất phương hướng do không còn sự kiểm soát chặt chẽ của người dạy như
thời học phổ thông.
- Sinh viên còn xa lạ với việc tự hoạch định nội dung học tập và quản lý quá trình tự
học của mình. Nhiều sinh viên sử dụng không đúng mục đích thời gian tự học đã được
thiết kế trong chương trình. Các đơn vị đào tạo các cấp chưa có biện pháp để kiểm tra,
đánh giá việc tự học và tự nghiên cứu, nên thời lượng dành cho tự học và tự nghiên cứu
của sinh viên vô hình trung trở thành giờ làm việc riêng tư như đi làm thêm hoặc học
thêm bằng 2, thậm chí không loại trừ những trường hợp xấu khác…
2.2. Về đội ngũ giáo viên:
- Đội ngũ giảng viên chưa được nghiên cứu và huấn luyện đầy đủ về phương pháp dạy
học tích cực. Vì hiểu một cách cứng ngắt về phương pháp dạy học tích cực nên có hiện
tượng đi từ thái cực này sang thái cực khác về phương pháp dạy học; có không ít giảng

SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 14


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

viên đi từ chỗ chỉ thiên về phương pháp đọc – chép hoặc diễn giảng đến chỗ phủ định
sạch trơn các phương pháp và thủ thuật đứng lớp truyền thống.
- Giảm số lượng giờ dạy nhưng không cắt xén chương trình, đó là phương châm của
những nhà thiết kế chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ. Nhiệm vụ này không dễ
thực hiện, nhất là khi giảng viên phải tự mò mẫm để thích nghi với hệ thống đào tạo mới.

Vì thế, không ít giảng viên chọn cách làm dễ nhất là dạy đến hết giờ trên lớp, phần
chương trình còn lại giao cho sinh viên tự học. Vì thế, việc tinh giản chương trình đào tạo
chỉ còn mang ý nghĩa thuần túy là cắt giảm giờ dạy một cách máy móc.
- Việc kiểm soát tự học và tự nghiên cứu của sinh viên cũng chưa được tiến hành có
quy củ và đều đặn, khiến xảy ran guy cơ “khoán trắng” việc tự học cho tinh thần tự giác
của sinh viên.
2.3. Về hệ thống quản lí giáo dục:
- Đánh giá về hệ thống quản lí giáo dục Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều thống nhất
nhận định rằng: “Một hệ thống tập trung quá mức. Nhà nước ôm đồm vào mình những
chức năng không cần có, làm mất quyền chủ động, linh hoạt của các cấp cơ sở. Quyền tự
quản không được thực thi, đặc biệt là ở các trường Đại học”.
- Chủ trường áp dụng hệ thống tín chỉ trong đào tạo đại học và cao đẳng ở nước ta
chưa nhắm vào mục đích đại chúng hóa giáo dục vì hiện nay các trường đại học Việt
Nam chỉ nhằm đào tạo mới nhân lực cơ chế chọn lọc tinh hoa chứ chưa chú trọng đến đại
chúng hóa (nâng cao mặt bằng dân trí và tạo ra sự năng động xã hội).
- Công tác tín chỉ hóa các chương trình đào tạo được bắt đầu bằng việc chuyển đổi cơ
học từ số lượng đơn vị học trình sang số lượng tín chỉ, trong khi đội ngũ giảng viên chưa
được đào tạo và bồi dưỡng một cách có hệ thống và hiệu quả về triết lý giáo dục và các
phương pháp dạy học mới phù hợp với phương châm giáo dục “lấy người học làm trung
tâm”.
- Phương pháp quản lý cứng ngắt thể hiện qua việc đánh đồng tất cả các ngành nghề
đào tạo theo một khuôn mẫu duy nhất, không chú trọng đến đặc thù của từng ngành nghề.
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 15


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân


Việc chuyển đổi sang hệ thống tín chỉ rất luộm thuộm, thể hiện qua việc thực hiện các
biện pháp chấp vá do thiếu tầm nhìn và thay đổi liên tục, tạo ra tâm lí bất an trong đội
ngũ giảng viên.
- Dân chủ hóa trong quá trình đào tạo chưa được nhận thức đầy đủ, chưa phát huy
được tính năng động của người học. Nhiều biện pháp học vụ như đăng ký môn học, điều
chỉnh khóa biểu, quản lí lớp học phần và lớp chuyên ngành… gây nhiều phiền hà cho
người học, đi ngược lại tinh thần của học chế tín chỉ. Việc quy định buộc thôi học ở điều
16 của quyết định 43/2007/BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cứng nhắc, không
phù hợp với nguyên lý tích lũy kiến thức của đào tạo theo học chế tín chỉ.
- Việc rút ngắn thời gian học tập cho sinh viên giỏi ở một số ngành đào tạo như dự tính
trên lý thuyết là không khả thi, chẳng hạn như sinh viên sư phạm không thể học xong
chương trình sớm hơn 4 năm, do phần thực tập sư phạm chỉ tổ chức vào học kì 2.
- Biện pháp đặc trưng của đánh giá kết quả học phần trong đào tạo theo hệ thống tín
chỉ là việc đánh giá thường xuyên theo quá trình học tập, chứ không phải là việc áp dụng
thang điểm ABC. Sự lẫn lộn giữa mục đích đánh giá và công cụ đánh giá như hiện nay đã
làm phức tạp thêm không ít công tác chuyển đổi đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
V. Một số phương thức đào tạo và biện pháp khắc phục những hạn chế để hoàn
thiện hệ thống đào tạo theo tín chỉ:
1. Phương thức đào tạo:
- Để thực hiện thành công đổi mới việc học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến là
vô cùng quan trọng. Nhưng chúng ta không thể bắt chước nước ngoài một cách mù
quáng, dù đó là lĩnh vực chính trị, kinh tế hay giáo dục, mà phải dựa trên cơ sở nghiên
cứu bản chất và mục tiêu của những điều muốn học và muốn áp dụng, cũng như các điều
kiện cần phải có để việc áp dụng có kết quả tốt đẹp, chí ít cũng không bị phản tác dụng.
- Phương thức đào tạo trước đây dành quyền quyết định việc đào tạo cho cơ sở đào tạo
người học chỉ nhắm mắt theo sự chỉ dẫn dắt của Nhà trường từ lúc nhập học đến lúc tốt
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 16



Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

nghiệp, như người bị bịt mắt đi theo sự dẫn dắt của người dẫn đường qua hành lang của
lâu đài khoa học. Phương thức đào tạo mới, với sự áp dụng đúng đắn và có hệ thống cảu
phương pháp sư phạm tích cực, trong đó học chế tín chỉ là một trong những công cụ thiết
thực, trao quyền dân chủ cho người học quyết định lộ trình thích hợp nhất để khám phá
lâu đài khoa học. Quyền dân chủ ấy chẳng những được thể hiện qua từng tiết học, từng
môn học, mà còn phải được hiện diện qua việc hoạch định kế hoạch học tập của họ; họ
phải biết những việc đang làm và sẽ làm để có thể chủ động xác định phương hướng học
tập và nghiên cứu cho chính mình trong suốt quá trình đào tạo. Là một biện pháp nhằm
thực hiện dân chủ hóa trong quá trình đào tạo và đại chúng hóa quá trình giáo dục đại
học, hệ thống tín chỉ có mục đích là cung cấp cho sinh viên nhiều tự do hơn trong việc
quyết định lộ trình đào tạo của mình. Đó là điều kiện không thể thiếu được để thực hiện
sư phạm cá thể hóa trong thời đại của chúng ta.
- Trong đội ngũ các nhà khoa học Việt Nam có khá nhiều người đã được đào tạo theo
học chế tín chỉ ở các trường tiên tiến phương Tây. Nhưng những kinh nghiệm ấy chỉ là
những kinh nghiệm của người thụ hưởng chương trình đào tạo, nghĩa là những dữ liệu
được thu thập từ góc độ người được đào tạo. Cái mà chúng ta cần hiện nay là kiến thức
về tổ chức và quản lý, nghĩa là những dữ liệu thu thập được dưới góc độ “người sản xuất”
và quản lý chương trình, là những cái mà chúng ta có rất ít kinh nghiệm. Để bù đắp lại sự
thiếu kinh nghiệm đó, chuungs ta phải nghiêm cứu và nắm vững những nguyên lý hoạt
động của nó trước khi áp dụng, chứ không thể chỉ dựa vào những kinh nghiệm của người
được thụ hưởng.
2. Những biên pháp khắc phục hạn chế trong hệ thống đào tạo theo học chế tín chỉ:
- Tiếp thu có chọn lọc, có lý trí những biện pháp quản lý của nước ngoài với nhận thức
đầy đủ về ý nghĩa và điều kiện áp dụng cuả các biện pháp đó.

- Thay đổi hình thức tuyển sinh đầu vào đại học để tạo điều kiện cho nhiều đối tượng
tiếp cận với giáo dục đại học hơn nữa (đại chúng hóa giáo dục đại học), để qua đó nâng
cao năng lực và chất lượng lao động xã hội ngày càng tốt hơn, tạo sự năng động xã hội
đúng như tinh thần đào tạo theo tín chỉ.
SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 17


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

- Đặc thù của việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ trong việc đánh giá kết quả môn học là
việc tiến hành thường xuyên, trong suốt quá trình học tập, chứ không phải là việc áp
dụng thang điểm ABC, vì vậy không nên lẫn lộn cách thức đánh giá và công cụ đánh giá.
Vì thế, cần chỉnh sửa điều 22 của quy chế 43/2007/QĐ-BGD&ĐT về cách đánh giá học
phần, chỉ áp dụng một cách tính điểm duy nhất, hoặc theo thang điểm 10, hoặc theo thang
điểm 5, để đơn giản hóa công tác quản lý điểm của giảng viên.
- Cần phải dân chủ hóa nhiều hơn nữa trong mọi hoạt động đào tạo, dao cho người học
và người dậy có thể đầu tư nhiều hơn nữa cho việc đổi mới triệt để nội dung và phương
pháp dạy và học.
- Tạo chuyển biến ngay từ nhà trường phổ thông về tinh thần tích cực tự chủ trong học
tập, giúp học sinh phổ thông làm quen dần với tinh thần tự chủ trong học tập, để khỏi bỡ
ngỡ hi lên Đại học.
- Phải đặt trọng tâm của công tác tín chỉ hóa ở khâu cải tiến các phương thức đào tạo,
trong đó phương pháp dạy và học là cốt lõi, vì đó mới chính là linh hồn quyết định chất
lượng của việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ, chứ không phải là khâu quy đổi giờ dạy của
từng học phần.
- Cần dành nhiều thời gian hơn cho giảng viên nghiên cứu khoa học và cải tiến phương

pháp dạy học, bằng cách đơn giản hóa các công việc sự vụ cho đội ngũ giảng viên trong
công tác cố vấn học tập, trong công tác kiểm tra và đánh giá.
- Tăng cường rèn luyện kỹ năng tự học và tự nghiên cứu cho sinh viên ngay từ năm
đầu Đại học. Tăng cường việc “dạy về phương pháp nghiên cứu khoa học cho tất cả sinh
viên đại học và cao đẳng” như nghị quyết của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã đề ra ngày 6/1/2010.

SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 18


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

KẾT LUẬN
Tục ngữ Việt Nam có câu “không thầy đố mày làm nên” và cũng có câu “học một biết
mười”. Như thế, người Việt ta vốn quý trọng người thầy nhưng quan trọng hơn còn đánh
giá rất cao vai trò của người học. Hiện nay chúng ta đang thảo luận nhiều về vấn đề đổi
mới phương pháp giảng dạy, nhưng phương pháp cải tiến dù có hiện đại đến đâu, suy cho
cùng, cũng không thể nói hơn được câu “học một biết mười”. Triết lý đào tạo tín chỉ lấy
người học làm trung tâm không phải là thứ lai căng, lạc lõng trong tâm thức văn hóa
Việt. Dân tộc ta vốn kính thầy nhưng rất quý và tôn vinh người học. Để xây dựng thành
công hệ thống đào tạo tín chỉ trong các trường đại học ở nước ta, đổi mới công tác giảng
dạy là một trong những việc làm rất cần thiết. Đổi mới công tác giảng dạy phải bắt đầu từ
tâm huyết của người thầy, phải học hỏi từ những lý thuyết, quan điểm của khoa học giáo
dục để xác định cho được mục tiêu, trách nhiệm và những việc làm cụ thể của người thầy.
Đổi mới công tác giảng dạy không gì hơn ngoài hướng đến mục tiêu giúp cho việc học
của người học tốt hơn, trong đó phương pháp giảng dạy phát huy tính tích cực của người

học cần được chú trọng đúng mức và áp dụng hợp lý.
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy-học là một yêu cầu khách quan của thực tế vừa là
động lực phát triển, đòi hỏi mỗi thầy giáo nhận thức sâu sắc được vai trò và trách nhiệm
tích cực tham gia vào quá trình đổi mới ở đại học, đòi hỏi sinh viên phải thay đổi vai trò,
cách học cho phù hợp. Nó cũng đặt ra cho những nhà quản lý những yêu cầu mới trong
việc trang bị cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy học, đánh giá xếp loại sinh viên, giảng
viên,… Đây là nghĩa vụ, trách nhiệm và cũng chính là lương tâm của của mỗi chúng ta
trước những thử thách to lớn trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển của đất
nước.

SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 19


Giáo dục học đại cương

GVHD: Th.S Bùi Văn Vân

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3. />4.
5. Lê Văn Hảo, Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá, Đại học Nha Trang,
2010 (Tài liệu lưu hành nội bộ)
6. Lê Ngọc Oánh, Thư viện góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy bậc đại học
(Đại học Đại học Sài gòn, 2006)
7. Driscoll, M.P. (2005). Psychology of learning for instruction. Pearson Education,
Inc., Boston, MA, USA.
8. Illeris, K. (2004). Three Dimensions of Learning. Krieger Publishing, Malabar,
FL, USA.


SVTH: Lê Thị Hồng Sương

Trang 20



×