Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thưc trạng và các giải pháp giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.7 KB, 18 trang )

BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN

MỤC LỤC

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 1


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN

LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội hiện nay ngày càng phát triển, phát triển con người là vấn đề trọng tâm của
mỗi quốc gia. Giáo dục quyết định cho bản tính của con người trong tương lai. “Giáo
dục là quốc sách hàng đầu” là khẩu hiệu thường thấy ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Nước Việt Nam ta cũng không ngoại lệ. Chúng ta đang nỗ lực để xây dựng và thực
hiện chương trình giáo dục nhằm đào tạo các chủ nhân tương lai của đất nước
Chính vì vậy những năm gần đây giáo dục được xác định là vấn đề có tầm chiến
lược lâu dài trong việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Qua
tìm hiểu về thực trạng của phổ cập giáo dục trong những năm gần đây, còn nhiều bất cập
trong nền giáo dục. Chính vì thế, em quyết định làm vể đề tài thưc trạng và các giải pháp
giáo dục để hiểu thêm nền giáo dục Việt Nam.
Để hoàn thành đề taì này, em đã nhận được sự giúp đỡ và các ý kiến đóng góp
nhận xét từ thầy. Do còn nhiều thiếu sót về kinh nghiệm làm đề tài nên trong quá trình
làm không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy để lần sau
được hoàn thiện hơn.

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 2



BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG NỀN GIÁO DỤC
VIỆT NAM
1. Khái niệm chung:

Giáo dục là hoạt động đặc trưng của xã hội nhằm hình thành và phát triển
nhân cách của con người theo những yêu cầu của xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất
định, thuật ngữ giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Trong nghĩa rộng, bao gồm cả việc dạy lẫn việc học cùng với hệ thống các tác
động sư phạm khác diễn ra ở trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà trường cũng như
trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là quá trình hình thành nhân cách con người, được
tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan
hệ giữa người giáo dục và được giáo dục nhằm bồi dưỡng cho con người những
phẩm chất đạo đức, phát triển trí tuệ, thể lực và tình cảm lao động, thẩm mĩ, chuẩn bị
cho con người tham gia tích cực vào đời sống.
Theo nghĩa hẹp đó là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt đạo đức, tư
tưởng hành vi…nhằm hình thành lên những nhân cách này đến những nhân cách
khác tác động của giáo dục đến người được giáo dục vơi nhau.
2. Vai trò của giáo dục

Đảng và Nhà Nước ta luôn luôn quan tâm đến sự nghiệp chăm sóc và phát
huy yếu tố con người. Điều đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc những giá trị lớn lao
và ý nghĩa quyết định của yếu tố con người, chủ thể của tất cả những sáng tạo,
những nguồn của cải vật chất và văn hóa, những nền văn minh của các quốc gia.
xây dựng và phát triển con người có trí tuệ cao, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực đồng thời cũng là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội. Để đạt dược điều đó, giáo dục - đào tạo có vai trò quyết định


NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 3


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
Giáo dục - đào tạo là môi trường để phát triển và bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Loài người đang bước sang thế kỉ XXI, thế kỉ mà trí tuệ đóng vai trò quyết
định. Vì vậy hơn bao giờ hết các quốc gia đang dành nguồn nhân lực tối đa cho
phát triển, nâng cao chất lượng của giáo dục quốc dân
3. Nhiệm vụ của giáo dục
-

Nâng cấp đội ngũ giáo

-

Đổi mới cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo:

-

Đổi mới giáo trình, giáo án:

-

Tăng cường kỷ cương thi cử:
4. Mục tiêu

Mục tiêu giáo dục là những kết quả giáo dục mà Nhà trường và những nhà

giáo dục mong muốn tất cả các học sinh của mình sẽ đạt được sau khi hoàn thành
chương trình học tại trường. Những kết quả giáo dục này tạo ra một mục đích
chung cho:
Những nhà quản lý trường trong việc xây dựng và lựa chọn cơ chế quản lý
và môi trường trường học phục vụ một cách tốt nhất cho những mục tiêu đã đặt ra
Những chuyên gia giáo dục trong việc chọn lọc và xây dựng Nội dung
chương trình và Phương pháp Dạy – học
Những giáo viên và nhân viên của trường trong việc thực hiện từng công việc
cụ thể trong Chương trình giáo dục
Các bậc cha mẹ để cùng chia sẻ với Nhà trường trong việc giáo dục con cái
thông qua việc kết hợp cùng thực hiện mục tiêu chung
Chính bản thân các em học sinh - khi hiểu kết quả mà mình muốn hướng tới
các em sẽ có mục tiêu, động lực để cố gắng, nỗ lực trong từng hoạt động của
mình.

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 4


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA NỀN GIÁO DỤC
1. Tổng quan về nền giáo dục Việt Nam
1.1 Phân Loại:

Giáo dục phổ thông là việc trang bị những kiến thức, hiểu biết cơ bản, chủ
yếu cho lứa tuổi vị thành niên trước khi bước vào tham gia quá trình giáo dục
chuyên nghiệp, bao gồm những kiến thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội

và đạo đức.
Giáo dục chuyên nghiệp ( còn gọi là lĩnh vực đào tạo ) là lĩnh vực trang bị
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo và hình thành nghề nghiệp chuyên môn cho con người
trong tương lai.
Trong lĩnh vực đào tạo, người ta phân ra rất nhiều loại khác nhau tùy vào
nội dung. mức độ và hình thức đào tạo.
Theo nội dung đào tạo, đào tạo được phân ra thành đào tạo mới, đào tạo lại,
đào tạo tiếp tục ( hay bồi dưỡng ).
Theo trình độ ( hay mức độ ) đào tạo, đào tạo dược phân ra thành đào tạo
nghề, đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, đào tạo đại học và sau đại học.
Theo hình thức đào tạo có thể phân ra thành đào tạo chính quy, đào tạo tại
chức, đào tạo từ xa...
1.2 Các chính sách của Nhà nước đối với giáo dục Việt Nam.
Nhà nước coi giáo dục là một bậc học cần thiết và bắt buộc phải có trong hệ
thống giáo dục. Từ chỉ thị 53/CP của Hội Đồng Bộ Trưởng ngày 12 tháng 8 năm
1966 đã xác định mục tiêu của giáo dục mần non “ giáo dục mần non tốt sẽ mở
đầu cho nền giáo dục tốt
Quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu,

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 5


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015
Ngày 24/3, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2014/NĐ-CP về phổ cập
giáo dục, xóa mù chữ.
Căn cứ Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của

Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001
-2010
2. Những thành tựu của giáo dục trong những năm gần đây:

Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học ở mọi
vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến trường ở các
cấp ngày một tăng. Năm học 2004 - 2005, đã có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên
theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục - đào tạo.
Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô đào tạo,
cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần dần được đổi
mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam một mặt đã đáp ứng xu hướng thế giới là tiến
tới phổ cập giáo dục đại học, mặt khác vẫn giữ nền tảng giáo dục tinh hoa
Trong những năm qua, để thúc đẩy giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng
dạy và học, Nhà nước đã thực hiện xã hội hóa để huy động tiềm năng của các
thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo
dục và đào tạo đã tăng từ 15% năm 2000 lên 18% năm 2005 với cơ cấu tăng chi
cho những nhiệm vụ trọng tâm của ngành như đổi mới chương trình, bồi dưỡng
giáo viên, tăng cường giáo dục miền núi.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách công bằng trong tiếp
cận giáo dục, đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng khó khăn. Trước hết
là ưu tiên đầu tư theo mục tiêu cho các địa bàn có nhiều khó khăn, phát hành công
trái giáo dục để hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, vùng khó khăn xây dựng trường học
kiên cố, đạt chuẩn chất lượng và thực hiện xoá đói giảm nghèo, thông qua đó tạo
NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 6


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
nhiều cơ hội cho trẻ tiếp cận nhiều hơn với dịch vụ giáo dục. Hệ thống các trường

phổ thông nội trú và bán trú được củng cố và mở rộng với 13 trường trung ương,
50 trường tỉnh, 266 trường huyện và 519 trường bán trú xã, cụm xã.
Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu
học. Từ năm học 2002-2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi 15-24 đã
đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3 năm. Việc dạy
chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu
số mù chữ giảm mạnh
Ngành giáo dục và đào tạo đã đạt và vượt các chỉ tiêu cơ bản mà Chiến
lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2005 trong năm học 2003-2004. Phổ cập
giáo dục tiểu học đã đạt được thành tích đáng kể ở tất cả các vùng miền trong cả
nước. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so với phần lớn các nước
có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc phục những sự chênh lệch về
giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi.
Tất cả những con số nói trên cho thấy Việt Nam đã tạo được sự công bằng
trong tiếp cận học tập cho tất cả trẻ em gái, trai của các dân tộc, ở các vùng, miền
và đặc biệt quan tâm tới những trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Không chỉ quan tâm tới việc phổ cập tiểu học mà Nhà nước còn có sự quan
tâm đặc biệt tới giáo dục mầm non, bậc học tiền đề cho giáo dục tiểu học. Bậc học
này hiện đã được khôi phục sau một thời gian dài gặp khó khăn ở nhiều địa
phương. Hiện nay, cả nước chỉ còn 4 xã mới tách chưa có lớp học mầm non.
Những thay đổi trong chính sách đãi ngộ đối với giáo viên đã tạo nên sự phát triển
mạnh mẽ của bậc học này trong mấy năm gần đây.
Các trường lớp của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu
chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng tương đương
với các nước khác trong khu vực. Hiện tại, cả nước đã có gần 500 trường mầm
non, gần 3.200 trường tiểu học, trên 400 trường trung học cơ sở và phổ thông
trung học đạt trường chuẩn quốc gia.
NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 7



BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
Việc đầu tư cho đội ngũ giáo viên nói chung được chú trọng đặc biệt. Mạng
lưới trường sư phạm rộng khắp cả nước với 10 trường đại học sư phạm, 11 trường
đại học đa ngành được nâng cấp từ cao đẳng sư phạm (trong đó chủ yếu là đào tạo
sư phạm), trên 80 trường cao đẳng tham gia đào tạo giáo viên.
Trong vòng 5 năm qua, mạng lưới đào tạo này đã cung cấp thêm gần 250.000
giáo viên từ mầm non tới phổ thông trung học. Hiện có gần 1 triệu giáo viên,
giảng viên, trong đó có 700 giáo viên tiểu học có trình độ cao đẳng sư phạm trong
lĩnh vực dạy trẻ khuyết tật và gần 9.000 giáo viên mầm non, tiểu học được tập
huấn đào tạo về giáo dục hòa nhập.
3 .Những vấn đề còn tồn tại của giáo dục Việt Nam
Nền giáo dục chúng ta có thể xem như đang mắc bệnh mà không chữa trị,
đua nhau nhồi nhét học thuộc lòng theo sách vở để có điểm cao mà sách chưa
chuẩn, năm nào thi cử cũng gian lận, đề thi sai, trẻ con thì bị bỏ mặc lang thang
trên đường phố, ma túy trong học đường, ý thức công dân rất kém. Càng nói càng
thấy nguy cơ, nhưng không thấy xã hội thật sự quản ngại vì bao nhiêu năm rồi
chưa thấy biện pháp giải quyết, chỉ nghe được những hứa hẹn cải cách. Giáo dục
Việt Nam muốn phát triển phải giải phẫu đúng bệnh. Bệnh chẩn đoán đúng nhưng
không chịu giải phẫu làm sao chữa trị? Thực tế, các cơ quan chức năng đều nhận
thấy hết căn bệnh giáo dục nước nhà. Trong các cuộc hội thảo, hầu như mỗi vấn đề
đều đã được phân tích, đã chỉ ra cái đúng cái sai nhưng điều lạ lùng là nó không
được đúc kết để đưa vào thực hiện thực tế. Tình trạng “nói” nhưng không “làm” là
căn bệnh nan giải nhất của hầu hết nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội chứ
không phải của riêng ngành giáo dục Việt Nam.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển,
có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng
thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập:


NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 8


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục;
chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất
lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa
thực sự là quốc sách hàng đầu
Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới,
chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp;
chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo
đức, lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy
“nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc,
tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống…
Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mất
cân đối.
Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới,
là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục
chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh
vực khác của đất nước.
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và
năng lực của một bộ phận còn thấp.
Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định
hướng liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa
xác định rõ phương châm.

Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành
cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu
những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành
rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một
số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận
của xã hội
NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 9


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
4 Nguyên nhân
• . Về phía người dạy
Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một
nâng cao nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, làm
người học tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang năng lý thuyết,
thiếu cập nhật thực tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp. Mặt khác,
việc sử dụng các phương tiện phục vụ cho giảng dạy chưa nhiều do vậy mà không
thể truyền tải hết lượng thông tin cần cung cấp cho người học, số thời gian của
giảng viên dành cho lên lớp tại các trường quá lớn, cho nên hạn chế thời gian
nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế. Đời sống của ngưới Thầy còn nhiều
khó khăn : Hiện nay giáo viên đang được hưởng mức lương thuộc nhóm cao,
nhưng thực tế xã hội ta hiện nay không sống bằng lương , các ngành khác lương
thấp nhưng cuộc sống thoải mái hơn nhiều. Đây là vấn đề cần phải xem lại chính
sách lương bổng của chúng ta đối với thầy cô giáo.

Về phía người học
Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo đại học quá thấp, thấp đến mức
không thể thấp hơn được nữa, chủ yếu tập trung vào các trường xét tuyển, tính chủ

động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên nhìn chung chưa cao,
thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo phong trào, học cho qua
“học theo hội chứng bằng cấp” , do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến thức để đáp
ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ. Chỉ số chất lượng
đào tạo so với các nước trong khu vực đứng hạng 10 trên 12 nước.


Về chương trình đào tạo

Chương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới,̀ thiếu tính cập nhật, lý thuyết
chưa gắn với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý,
dẫn tới sinh viên Việt Nam học quá nhiều nhưng kiến thức lại chưa phù hợp với
thực tiễn. Giáo dục còn quá yếu kém và lạc hậu, thiếu đồng bộ, thiếu đầu tư nâng
cấp
Nội dung chương trình và sách giáo khoa chưa phù hợp: Hiện nay đang từng
bước thực hiện thay sách giáo khoa, đổi mới chương trình, có định hướng giáo dục
NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 10


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
toàn diện cho học sinh, khắc phục những thiếu sót trước đây chủ yếu dạy kiến thức,
nặng về lý thuyết, chưa quan tâm đến giáo dục tình cảm và hành động cho học
sinh .
Ngành giáo dục chậm đổi mới để theo kịp nhu cầu đất nước : Sự phát triển
kinh tế của đất nước tạo điều kiện cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam
phát triển , hiện nay chúng ta có một xã hội học tập, người người đi học, gần 30
triệu học sinh các cấp là một con số khổng lồ, qua các kỳ thi đại học ta thấy có sự
chen chúc nhau quá mức, các trung tâm luyện thi, các thầy giáo dạy thêm, học

thêm, học sinh cố học để tìm kiếm một trường học thích ứng. Khi một đất nước
có tốc độ phát triển khá cao và đều đặn như hiện nay, các nhà quản lý giáo dục
phải có biện pháp đón đường , dự kiến những nhu cầu của ngành, của nhân dân,
của học sinh để có những biện pháp thích hợp.
Cơ chế quản lý đối với ngành giáo dục chưa phù hợp : Hiện nay ngành
giáo dục các địa phương chịu sự tác động hàng ngang của địa phương nhiều hơn là
chịu tác động hàng dọc của Bộ giáo dục – đào tạo. Các trường phổ thông dạy học,
thi cử đúng như quy chế của Bộ giáo dục – đào tạo, nhưng nếu học sinh thi rớt
nhiều, lưu ban nhiều thì địa phương sẽ có ý kiến , thậm chí có những ý kiến chỉ
đạo, “bệnh thành tích”có cơ hội để phát triển trong cơ chế quản lý giáo dục hiện
nay .

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 11


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN

CHƯƠNG III
BIỆN PHÁP THÁO GỠ TỒN TẠI CỦA GIÁO DỤC
VIỆT NAM
1. Xu hướng phát triển giáo dục của một số nước trên thế giới

Hiện nay, những nước có nền kinh tế phát triển luôn quan tâm đến giáo dục là
mối quan tâm hàng đầu
Nền giáo dục của Nhật Bản kết hợp hài hòa giữa bản sắc văn hóa lâu đời
phương Đông với những tri thức phương Tây hiện đại. Ở Nhật Bản gần như không
có người mù chữ và hơn 72,5% số học sinh theo học lên đến bậc đại học, cao đẳng
và trung cấp, một con số ngang hàng với Mỹ và vượt trội một số quốc gia châu

Âu. Điều này đã tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế và công nghiệp Nhật Bản trong
thời kỳ hiện đại. Giáo dục bắt buộc nhằm phổ cập hóa hệ thống giáo dục tiểu
học; Thứ hai, thành lập các trường dạy nghề cho thanh niên đồng thời tổ chức đào
tạo các khoá chuyên tu (nông, công, lâm, ngư nghiệp, thủy sản, dệt…) ở cấp trung
học cơ sở. Hai ưu tiên này đã tạo ra những bước đi căn bản trong việc hình thành
nguồn lực đảm bảo kế hoạch phát triển cho công cuộc “hiện đại hoá” nền kinh tế
Nhật Bản. Cũng như nhiều nước trên thế giới, quá trình phát triển giáo dục Nhật
Bản gắn liền với quá trình phát triển của chế độ chính trị, kinh tế và đời sống văn
hóa-xã hội. Từ một xã hội phong kiến tập quyền khép kín, kinh tế tiểu nông, công
nghệ lạc hậu, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn... Không giống như Mỹ, hệ thống
giáo dục công lập Nhật Bản chiếm đa số, hơn 95%-98% ở cấp tiểu học và phổ
thông cơ sở. Chương trình giảng dạy cho bậc tiểu học, cấp 2 cơ sở và phổ thông
trung học được ban hành và quản lý chặt chẽ bởi Bộ Giáo dục. Sau khoảng 10
năm, Bộ Giáo dục lại ban hành giáo trình và sách giáo khoa theo tiêu chuẩn mới,
với nội dung chi tiết hướng dẫn được viết ra cụ thể cho mỗi môn học tại trường
NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 12


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
tiểu học và các trường cấp 2 để hướng dẫn cho giáo viên. Việc chỉnh sửa các
chương trình giảng dạy và sách giáo khoa được đề ra bởi các hội đồng chuyên
môn bao gồm các chuyên gia về giáo trình, giáo sư tại các trường đại học, giáo
viên, thành viên của các ban ngành giáo dục tại địa phương và những bậc lão
thành có kinh nghiệm khác trong xã hội
Giáo dục Singapore đặt mục tiêu cao nhất cho việc phát huy khả năng của học
sinh, sinh viên. Ngay từ cấp tiểu học, sau khi hoàn thành lớp 3, học sinh đã bắt đầu
phân cấp theo khả năng học tập, các em có kết quả học tập cao hơn có thể lựa
chọn vào học chương trình khó hơn. Sau đó, khi lên trình độ trung học cơ sở, học

sinh được phân học theo tiến trình 4 năm hoặc 5 năm tuỳ theo trình độ. Ở giai
đoạn trung học cơ sở này, học sinh đã được chọn nhóm ngành học phù hợp nhất
với khả năng và sở thích của mình thay vì phải học dàn trải tất cả các môn học như
một số quốc gia khác. Điều này giúp học sinh đi sâu phát triển khả năng nổi trội
của bản thân. Kết thúc giai đoạn trung học cơ sở, sau khi thi lấy chứng chỉ O-level,
học sinh sẽ lựa chọn một trong 3 hướng tuỳ theo trình độ và sở thích. Đó là học 3
năm chương trình cao đẳng thực hành tại các trường công nghệ bách khoa
Singapore hoặc học 2 năm bằng cao đẳng nghề để đi làm. Hướng thứ 3 dành cho
những học sinh có khả năng cao hơn theo học chương trình chứng chỉ A-level (hai
năm) tại các trường Junior College sau đó học lên bậc đại học (nếu đủ yêu cầu đầu
vào) tại các trường đại học công lập của Singapore . Sự phân cấp nhưng cũng linh
hoạt trong hệ thống giáo dục Singapore giúp sinh viên dễ dàng hơn trong việc định
hướng kế hoạch học tập cho bản thân. Học sinh, sinh viên hoàn toàn chủ động
trong việc định hướng con đường học tập và tương lai nghề nghiệp của mình dựa
trên khả năng của bản thân. Hàng năm, Chính phủ Singapore dành 20% tổng ngân
sách quốc gia cho việc đầu tư vào giáo dục - chiếm tỷ trọng đầu tư lớn nhất trong
tất cả các ngành. Hệ thống các trường tư đào tạo bậc đại học và sau đại học tại
Singapore được định hướng theo chủ trương "đi tắt đón đầu". Điều này có nghĩa là
họ không tự cấp bằng đại học và sau đại học mà tìm kiếm, liên kết đào tạo với các
đại học đối tác nước ngoài - những trường đã có kinh nghiệm đào tạo lâu năm và
NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 13


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
đã được thế giới công nhận về chất lượng đào tạo. Bằng cấp sẽ do các trường đại
học đối tác cấp cho sinh viên khi các em hoàn thành chương trình học tại
Singapore, cho phép sinh viên được học các chương trình tiên tiến của các quốc
gia phát triển hơn với một mức chi phí vừa phải.

2. Biện pháp
• Để giải quyết những tồn tại của giáo dục hiện nay Nhà nước ta nên thực hiện một

số giải pháp sau:
- Tăng cường nguồn lực cho giáo dục đào tạo: Trên thế giới và trong khu vực
hiện nay tỷ trọng ngân sách giành cho giáo dục – đào tạo rất cao, chúng ta do
điều kiện đất nước còn nghèo , nguồn cung cấp ngân sách cho giáo dục- đào tạo
còn hạn chế, đang phấn đấu để đạt con số 15 % và sau đó cần phải tăng hơn
nữa . Ngoài ngân sách nhà nước hiện nay chúng ta đang huy động các nguồn lực
ngoài ngân sách, xã hội hoá giaó dục để tăng nguồn lực cho giáo dục đào tạo .
Hiện nay có nhiều nước trên thế giới coi giáo dục là một ngành kinh doanh, kinh
doanh công nghệ dạy học, chúng ta nên tạo điều kiện kêu gọi họ tham gia xây
dựng cơ sở vật chất và nội dung chương trình giáo dục cho ta. Ngoài ra ta nên có
chủ trương cho các trường chuyên nghiệp, dạy nghề lập cơ sở sản xuất và dịch vụ
khoa học đúng với ngành nghề đào tạo.
- Tăng lương giáo viên
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục: Từng bước đổi mới nội dung
sách giáo khoa, loại bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ sung những nội
dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến bộ khoa
học, công nghệ, tăng nội dung công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật
tổng hợp và năng lực thực hành. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh, coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn ,
nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc, địa lý và văn hoá Việt Nam. Tổ chức cho sinh
viên, học sinh tham gia công tác xã hội, tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao
phù hợp với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học, đưa Tin học vào quản lý và
đổi mới phương pháp : Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị cho các
NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 14



BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
trường phổ thông, trường dạy nghề, trường đại học. Tích cực đưa Tin học vào
giảng dạy, thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Hiện nay trên
thế giới đang thực hiện những phương tiện dạy học hiện đại như: học với
máy tính, với đèn chiếu overhead, với giáo án điện tử …… Chúng ta từng
bước tiếp cận, nhân rộng, từng bước đưa vào sử dụng để thay đổi phương pháp
-

dạy học .
Đổi mới công tác quản lý giáo dục : Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và
việc làm. Tăng cường sắp xếp lại hệ thống các trường phổ thông và đại học, hệ
thống trường công, trường tư, trường bán công, trường dân lập. Gắn các trường
đại học và trung học chuyên nghiệp với các viện nghiên cứu để tận dụng tối
ưu năng lực của đội ngũ và cơ sở vẫt chất hiện có. Hoàn thiện thể chế quản lý
nhà nước về giáo dục trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính giáo
dục. Thống nhất một đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục; quản lý theo pháp
quyền trên cơ sở một hệ thống pháp luật giáo dục đồng bộ với sự phối hợp chặt
chẽ giữa các Bộ, ngành, địa phương và triệt để phân cấp quản lý giáo dục; tăng
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục, nhất là các cơ sở
giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Tăng hiệu lực quản lý nhà nước về
giáo dục trong toàn ngành ở tất cả các cấp quản lý nhà nước phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường
công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục; chuyển dần quản lý nhà nước về giáo dục
nặng về hành chính sang quản lý chất lượng và từ quản lý nhà nước theo cách
kiểm soát sang giám sát mọi hoạt động giáo dục. Nâng cao vai trò các tổ chức
xã hội nghề nghiệp giáo dục như Hội Giáo chức, Hội Khuyến học, liên hiệp hội


-

các trường ngoài công lập… trong phát triển giáo dục
Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học :
Nguồn lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là vốn quý nhất, là
động lực, là nhân tố đảm bảo cho lợi thế giáo dục nước ta phát triển và cạnh
tranh được với các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Nhà

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 15


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
giáo và cán bộ quản lý giáo dục giỏi là chìa khóa, là nhân tố trung tâm cho sự
nghiệp giáo dục phát triển.
3. . Ý kiến đề xuất:
-

-

Các cơ quan giáo dục nên quan tâm chỉ đạo việc đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác quản lí và giảng dạy. Mở các lớp tập huấn bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và công tác phổ cập cho toàn bộ CBQL và đội
ngũ giáo viên thường xuyên trong năm học .
Tăng tính tự học cho học sinh tìm tòi nghiên cứu không nên phụ thuộc
nhiều vào sách giáo khoa
Cho học sinh tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa, vui chơi giải trí, thể thao
lành mạnh
Đưa vào chương trình dạy học các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình.


KẾT LUẬN

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 16


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN
Để cho nền giáo dục được phát triển và hoàn thiện hơn nữa thì chúng ta phải có
cái nhìn tổng quát về thực trạng của nền giáo dục Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, có
những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Qua bài viết này mong muốn
rằng mọi người sẽ có cái nhìn khách quan hơn về nền giáo dục nước nhà, từ đó mỗi cá
nhân sẽ tự vạch ra những con đường riêng, hướng đi riêng, cũng như những giải pháp cho
phù hợp với vai trò của mình. Có được như vậy thì tôi tin chắc rằng trong một tương lai
không xa Việt Nam của chúng ta sẽ được bè bạn quốc tế biết đến như là một đất nước có
nền giáo dục tiến bộ và có chất lượng. “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu được hay không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các em" trích “ thư gửi
các em học sinh nhân dịp năm học của Bác Hồ”

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 17


BÀI GIÁO DỤC HỌC-BÙI VĂN VÂN

Tài liệu tham khảo

www.vinhunikids.edu.vn.
www.tinmoi.vn
www.nhandan.com
www.edu.vn
www.tuoitre.vn
www.violet.vn

NGÔ THỊ BÍCH VÂN – 13CTXH

Trang 18



×