Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận về vai trò của giáo dục đào tạo tới mỗi quốc gia.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.57 KB, 14 trang )

Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
A.LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới ngày càng phát triển,kéo theo đó là sự chạy đua về kinh tế, chính trị,
vũ trang…Điều đó giúp các quốc gia trang bị cho mình những chính sách, chiến
lược phù hợp để giúp đất nước phát triển và bám trụ được trên ” chiến trường ”
thời bình. Để đạt được như vậy thì mỗi quốc gia phải có sự đầu tư đúng đắn và cần
thiết về giáo dục. Vì giáo dục là khởi đầu của nền văn minh nhân loại,là nền tảng
của sự phát triển khoa học-kĩ thuật, kinh tế, văn hoá...Bởi vậy việc đầu tư cho giáo
dục là rất quan trọng. Loài người tiến bộ đang khao khát hướng tới một mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đáng kể chất lượng sống cho con người
trong sự kết hợp hài hoà giữa điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần, giữa mức
sống cao và nếp sống đẹp, vừa an toàn, vừa bền vững cho tất cả mọi người, cho thế
hệ ngày nay và muôn đời con cháu mai sau. Nói theo cách của Việt Nam: Thực
hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục nên các nước trên thế giới
rất chú trọng đến việc đầu tư cho giáo dục trong đó có Việt Nam.Do có sự khác
nhau về nhiều mặt như tốc độ phát triển kinh tế,bản sắc văn hoá,trình độ dân
trí...nên sự đầu tư của mỗi quốc gia là khác nhau.Việt Nam ta cũng đang từng bước
cải cách nền giáo dục theo hướng tích cực để nâng cao dân trí và phát triển khoa
học-kỹ thuật.Tuy nhiên sự đầu tư của nước ta so với các quốc gia khác trên thế giới
là chưa cao.


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH

B.NỘI DUNG:
Vậy giáo dục có nghĩa là gì?
Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó
kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ


này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục
thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự
học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ,
cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục
thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học,
giáo dục trung học, và giáo dục đại học. Trong tiếng việt “giáo” có nghĩa là
dạy,”dục” có nghĩa là nuôi;”giáo dục” là dạy dỗ nuôi dưỡng đủ cả trí-dục,đức-dục,
thể-dục.


Sự đầu tư về giáo dục của Mỹ

Con người được vũ trang bằng những tri thức hiện đại sẽ là động lực cơ bản của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy giáo dục, đào tạo giữ vai trò cốt tử đối với
mỗi quốc gia, phát triển giáo dục phải đi trước phát triển kinh tế.Mỗi quốc gia có
sự định hướng,phát triển và đầu tư giáo dục khác nhau. Một trong những quốc gia
có nền giáo dục phát triển đó là Mỹ. Trong quá trình xây dựng và phát triển của
mình, Mỹ đặc biệt quan tâm đến giáo dục. Do đặc thù đa dạng và linh hoạt của
mình, do có những chiến lược đúng đắn cho giáo dục và đào tạo, đội ngũ các nhà
tri thức được đào tạo cơ bản cùng với sự phát triển vượt bậc đi trước của khoa học
công nghệ, hệ thống giáo dục Mỹ có những bước tiến dài và đạt được nhiều thành
tựu rất cao với quy mô lớn. Đầu tư cho giáo dục chiếm một tỷ trọng không nhỏ
trong tổng GDP của Mỹ, hầu như mỗi năm Mỹ đều dành khoản 5- 6% ngân sách
trong tổng GDP để chi tiêu giáo dục, nếu tính ra tiền đó thật sự là con số khủng lồ
bởi vì không phải quốc gia nào cũng chịu đầu tư một khoản tiền quá lớn như vậy
cho giáo dục. Không những thế, sự ước tính đầu tư cho giáo dục Mỹ càng ngày
càng tăng; điều đó chứng tỏ rằng người Mỹ quan tâm giáo dục và mong muốn phát
triển, hoàn thiện nền giáo dục của mình hơn nữa. Giáo dục của Mỹ chủ yếu được



Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
cung cấp bởi khu vực công, có kiểm soát và tài trợ đến từ 3 cấp độ: liên bang, tiểu
bang và địa phương. Giáo dục trẻ em là bắt buộc, đối với người Mỹ trẻ em là đối
tượng rất quan trọng và đặc biệt phải lưu ý nhiều hơn; bởi vì đó là tương lai của
nước Mỹ. Năm 2006-2007, Mỹ dành khoảng $553 tỷ cho tiểu học và trung học, và
nó chiếm khoảng 4.2% trong tổng GDP của cả nước. Đầu tư cho giáo dục không
chỉ là việc tăng chi cho các cấp, ngành học mà phải đảm bảo mức lương dành cho
người lao động hoạt động trong ngành nghề này, có mức lương hợp lý họ sẽ dành
toàn bộ sức mình cho giáo dục. Nhìn vào bảng trên ta có thể ước tính lương cơ bản
của một giáo viên là khoảng trên $3000-5500/ tháng. Bên cạnh đó, Mỹ cũng có
nhiều chương trình hỗ trợ sinh viên như là: chương trình cho vay vốn; sinh viên
vay vốn liên bang sẽ đóng thanh toán hàng tháng bằng 15% thu nhập của họ, để
hoàn trả cho đến khi nào hết nợ, nếu trong vòng 25 năm mà chưa trả hết nợ thì số
dư nợ còn lại sẽ được miễn, áp dụng thi hành từ năm 2014. Như vậy có thể nói, Mỹ
đã đầu tư một cách toàn diện cho nền giáo dục của mình


Sự đầu tư về giáo dục của Nhật Bản

Là quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, để phát triển, Nhật Bản chỉ có thể
người dân. Nhận thức được điều đó, chính phủ Nhật Bản đặc biệt chú trọng tới
giáo dục đào tạo, coi đây là quốc sách hàng đầu. Nhật Bản được biết đến không chỉ
là một nước hùng mạnh về kinh tế vào hàng đầu thế giới mà còn được coi là quốc
gia có hệ thống giáo dục rất đa dạng và chất lượng. Hệ thống giáo dục của Nhật
Bản được đánh giá đứng thứ 3 thế giới (sau Mỹ và Anh). Nền giáo dục của Nhật
Bản kết hợp hài hòa giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những tri thức
phương Tây hiện đại. Ở Nhật Bản gần như không có người mù chữ và hơn 72,5%
số học sinh theo học lên đến bậc đại học, cao đẳng và trung cấp, một con số ngang
hàng với Mỹ và vượt trội một số quốc gia châu Âu. Điều này đã tạo cơ sở cho sự

phát triển kinh tế và công nghiệp Nhật Bản trong thời kỳ hiện đại. Ngay từ những
năm 1950, Nhật Bản đã chú trọng xây dựng một nền giáo dục hiện đại. Hệ thống
giáo dục Nhật Bản được thiết lập ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai vào giữa
những năm 1947 - 1950, lấy hệ thống giáo dục Mỹ làm kiểu mẫu, bao gồm 9 năm
giáo dục bắt buộc (6 năm tiểu học và 3 năm trung học cơ sở), tiếp theo đó là 3 năm
trung học phổ thông (không bắt buộc) và 4 năm đại học. Tỷ lệ học sinh tiếp tục học
lên trung học phổ thông và bậc đại học sau khi đã kết thúc chương trình giáo dục
bắt buộc ngày càng tăng.


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
Hệ thống giáo dục Nhật Bản được sửa đổi liên tục nhằm thực hiện hai ưu tiên:

Thứ nhất, giáo dục bắt buộc nhằm phổ cập hóa hệ thống giáo dục tiểu học; Thứ
hai, thành lập các trường dạy nghề cho thanh niên đồng thời tổ chức đào tạo các
khoá chuyên tu (nông, công, lâm, ngư nghiệp, thủy sản, dệt…) ở cấp trung học cơ
sở. Hai ưu tiên này đã tạo ra những bước đi căn bản trong việc hình thành nguồn
lực đảm bảo kế hoạch phát triển cho công cuộc “hiện đại hoá” nền kinh tế Nhật
Bản.
Chủ trương phát triển giáo dục cấp cao làm đầu tàu cũng được Chính phủ Nhật
Bản quan tâm và hình thành rất sớm:
Đó là hệ thống đại học và sau đại học với các “Trường chuyên môn” (không kể
trường Cao đẳng chuyên môn dành cho học sinh học hết cấp 2). Hệ thống giáo dục
đại học của Nhật Bản được bắt đầu từ 6 trường đại học “hoàng gia” công lập, lần
lượt được thành lập từ năm 1877. Sáu trường đại học đầu tiên của Nhật Bản là:
Tokyo, Kyoto, Kyushu, Tohoku, Hokkaido và Osaka. Bước vào thế kỷ 20, Nhật
Bản cho phép thành lập đại học tư thục (Waseda, Keio, Doshisha…) từ các “trường
chuyên môn”. Cũng như nhiều nước trên thế giới, quá trình phát triển giáo dục
Nhật Bản gắn liền với quá trình phát triển của chế độ chính trị, kinh tế và đời sống

văn hóa-xã hội. Từ một xã hội phong kiến tập quyền khép kín, kinh tế tiểu nông,
công nghệ lạc hậu, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn..., Nhật Bản đã mở cửa ra thế
giới bên ngoài với những quyết sách cải cách mạnh mẽ của Minh Trị Thiên hoàng
(1872-1912) trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Cùng với việc
thành lập Bộ Giáo dục (1871), Nhật Bản đã sớm có chính sách phát triển hệ thống
giáo dục tiểu học bắt buộc và bình đẳng đối với tất cả trẻ em bắt đầu từ 6 tuổi,
không phân biệt nam nữ, tôn giáo, thành phần xã hội... Chính sách giáo dục bắt
buộc cũng được thực thi và điều chỉnh theo từng giai đoạn thích hợp. Số năm học
bắt buộc được nâng dần từ 3-4 năm (1886) lên 6 năm vào năm 1908. Tỷ lệ nhập
học bậc tiểu học đã đạt 99% (1899). Giáo dục bắt buộc và miễn phí 9 năm (hết
trung học cơ sở) được thực hiện từ năm 1947 với việc ban hành Luật cơ bản về
Giáo dục và Luật giáo dục nhà trường. Nhờ chính sách này mà ngay từ đầu thế kỷ
20, Nhật Bản đã sớm thực hiện thành công phổ cập tiểu học bắt buộc cho trẻ em


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
trong độ tuổi - một thành tựu giáo dục cơ bản mà ở thời đó chưa nhiều nước thực
hiện được.

Điểm nổi bật nhất là Nhật Bản không cải cách giáo dục theo kiểu chắp vá mà
áp dụng mô hình Hà Lan cho tiểu học, mô hình Pháp cho trung học và mô hình Mỹ
cho đại học – những nền giáo dục tốt nhất theo từng cấp học thời bấy giờ. Năm
1961, Nhật Bản thay đổi quy định hệ thống giáo dục dạy nghề trong Luật giáo dục,
cho phép lập “trường cao đẳng chuyên nghiệp” với học trình 5 năm (gồm 3 năm
trung học phổ thông và 2 năm chuyên tu) cùng tồn tại song song với trường dạy
nghề. Năm 1975, để đáp ứng yêu cầu nhân lực, Bộ Giáo dục Nhật Bản cho phép
thành lập trường “chuyên tu kỹ thuật” gọn nhẹ và tập trung đào tạo cán sự kỹ thuật
nhằm bổ sung cho hệ thống “đại học ngắn hạn”(2-3 năm) hay hệ thống đại học
chính quy (4 năm). Mục đích giảm bớt sức ép tranh nhau thi vào cửa hẹp đại học

do nhân khẩu trưởng thành tăng đột biến (“baby boom” – sự tăng vọt trẻ sơ sinh
sau thế chiến thứ hai) và tạo cơ hội cho những học sinh bị rớt trong các kỳ thi
tuyển vào đại học vào trường dạy nghề với thời gian học ngắn hơn. Tỷ lệ người
biết chữ cao nhất trên thế giới được xem là một thành tựu nổi bật của nền giáo dục
Nhật Bản từ sau Thế chiến II. Số người Nhật trẻ tuổi gia nhập vào lực lượng lao
động với trình độ văn hoá cao hơn nhiều so với trước. Năm 1950, hơn 45% học
sinh Nhật Bản tốt nghiệp cấp 2, tức là sau khi hoàn thành chương trình giáo dục
bắt buộc, bắt đầu đi làm việc ở độ tuổi 15, còn 43% học sinh vào trung học phổ
thông để tiếp tục học. Hiện tỷ lệ học tiếp trung học phổ thông của Nhật Bản đã đến
mức 95 – 97%.
Không giống như Mỹ, hệ thống giáo dục công lập Nhật Bản chiếm đa số, hơn
95%-98% ở cấp tiểu học và phổ thông cơ sở. Chương trình giảng dạy cho bậc tiểu
học, cấp 2 cơ sở và phổ thông trung học được ban hành và quản lý chặt chẽ bởi Bộ
Giáo dục. Sau khoảng 10 năm, Bộ Giáo dục lại ban hành giáo trình và sách giáo
khoa theo tiêu chuẩn mới, với nội dung chi tiết hướng dẫn được viết ra cụ thể cho
mỗi môn học tại trường tiểu học và các trường cấp 2 để hướng dẫn cho giáo viên.
Việc chỉnh sửa các chương trình giảng dạy và sách giáo khoa được đề ra bởi các
hội đồng chuyên môn bao gồm các chuyên gia về giáo trình, giáo sư tại các trường
đại học, giáo viên, thành viên của các ban ngành giáo dục tại địa phương và những
bậc lão thành có kinh nghiệm khác trong xã hội. Trường dạy nghề tư nhân chiếm tỷ


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
lệ 80%-90% trong tổng số trường dạy nghề trên cả nước, trong đó ngành công
nghệ thông tin chiếm đa số. Ở các thành phố lớn có các trung tâm đào tạo công
nghệ thông tin và kỹ thuật hoạt động độc lập. Các trung tâm này có chức năng đào
tạo giáo viên giảng dạy, hoàn thiện tài liệu giảng dạy và nghiên cứu phương pháp
giảng dạy. Để sử dụng hiệu quả các nguồn ngân sách của nhà nước, trung tâm đào
tạo ở các thành phố được trang bị các trang thiết bị đắt tiền như các hệ thống máy

vi tính quy mô lớn và các trung tâm cơ khí hiện đại.
Để chuẩn bị bước vào thế kỷ 21, năm 1984 Nhật Bản tiếp tục tiến hành cải cách
giáo dục với tư tưởng chủ đạo là hình thành hệ thống giáo dục suốt đời (life-long
learning), xây dựng xã hội học tập, chuẩn bị một thế hệ trẻ phát triển toàn diện,
năng động, tự chủ, sáng tạo, đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội hiện đại trong
nền kinh tế tri thức với quá trình toàn cầu hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh của
Nhật Bản trên trường quốc tế. Nhờ đa dạng hóa các chương trình giúp Nhật Bản
đạt được các kết quả cao trong các kỳ đánh giá chất lượng giáo dục quốc tế PISA
(Programme for International Student Assesment) trong các năm 2000, năm 2003,
năm 2006 và những năm gần đây. Giáo dục đại học của Nhật Bản được “mở rộng”
bắt đầu từ những năm 1960 - đặc trưng bởi sự phát triển kinh tế nhanh. Hệ thống
giáo dục Nhật Bản bao gồm 3 khu vực: quốc gia, tư thục và nhà nước địa phương
(cấp tỉnh). Năm 2008, Nhật Bản đã có đến 589 trường đại học tư thục, khoảng 86
đại học công lập cấp quốc gia (theo thể chế National University CorporationNUC) và 90 đại học công lập địa phương (với thể chế Public University
Corporation- PUC). Phần lớn chi tiêu quốc gia dành cho giáo dục đại học công lập
NUC (chiếm gần 1,3% GDP), mặc dù phần lớn sinh viên đang theo học ở các đại
học tư thục. Trước năm 1998, sự phân bố các trường đại học phải đáp ứng được
tiêu chí là: Đại học công lập thỏa mãn nhu cầu về nhân lực quốc gia; Đại học địa
phương - thỏa mãn nhu cầu nhân lực cấp tỉnh và huyện; Đại học tư thục – đáp ứng
nhu cầu nhân lực cho thị trường. Tuy nhiên, sự phân bố như vậy càng bị phức tạp
hóa hơn do tác động của “sự phân hóa chức năng” các trường đại học dẫn đến việc
xóa bỏ ranh giới giữa 3 khu vực. Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng ở Nhật Bản ngày càng nhiều, hiện chỉ đứng sau Mỹ (khoảng 50%),Nhật Bản
trở thành một trong những cường quốc giáo dục của thế giới.


Sự đầu tư về giáo dục của Philippines


Tên: Hoàng Thị Sáu

Lớp: 13CTXH
Dù là một nước đang phát triển, nhưng nền giáo dục Philippines từng là một
nền GD tiên tiến của Châu Á, với hệ thống GD tiểu học, cơ sở, trung học và đại
học uy tín. Tuy nhiên, theo bảng xếp hạng các trường Đại học và cao đẳng trên
toàn cầu của tổ chức Quacquarelli Symonds có trụ sở tại London, hiện không có
một trường Đại học hàng đầu nào của Philippines được lọt vào top 300. Trong
“Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2011” do Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố
mới đây, Philippines cũng chịu cảnh tụt hạng tương tự. Trong số 138 nền kinh tế,
hệ thống giáo dục Philippines được xếp ở vị trí 68. Còn trong khối ASEAN,
Philippines đứng sau Singapore, Brunei, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Việt
Nam. Hệ thống giáo dục Philippines đang suy giảm dần theo từng thập kỷ – hậu
quả từ sự thất bại của các chính quyền trong việc đầu tư một cách kém hiệu quả
vào lĩnh vực này.
Quản lí giáo dục hạn chế, thiếu đầu tư của nhà nước, chất lượng giáo dục thấp
không đủ tạo nên những bộ não bắt kịp thời đại… – giáo dục Philippines đang
đứng trước sức ép cải cách và thật khó để bắt đầu từ đâu khi mà vấn đề ngân sách
vẫn là bài toán không lời giải. Giáo dục Philippines đang có vô vàng khó khăn.
Năm 2010 nước này thiếu 57.930 phòng học, 7,8 triệu cuốn sách giáo khoa và
20.874 giáo viên. . Hệ thống 45.000 trường công từ tiểu học đến cao đẳng của
Philippines hiện đang thiếu ít nhất 2,5 triệu ghế ngồi và khoảng 60.000 phòng học.
Chỉ 6 trong số 1.000 học sinh tốt nghiệp lớp 6 sẵn sàng tâm thế vào học trung học;
chỉ 2 trong số 100 học sinh trung học học tiếp lên được cao đẳng; chỉ 19 trong số
100 giáo viên trường công tự tin và có năng lực dạy tiếng Anh; xếp hạng quốc tế,
học sinh Philippine đứng thứ 41 về kiến thức khoa học và thứ 42 về toán trong 45
nước nghiên cứu…Ngân sách giáo dục tính bình quân cho mỗi học sinh chỉ đạt 150
USD/năm, một con số nhỏ nhoi so với nước lân cận Thái Lan đầu tư trung bình
950 USD cho mỗi HS/năm. Chưa kể là tổng số học sinh tăng bình quân hàng năm
2,8% trong khi ngân sách cho giáo dục dậm chân tại chỗ. Ngân sách giáo dục năm
2005 có tăng 2,5 tỉ P (đơn vị tiền Philippine) so với năm 2004 nhưng thực chất xét
tỉ lệ với tổng ngân sách quốc dân thì “miếng bánh” cho giáo dục giảm từ 13,65%

năm 2004 xuống 12,35% năm 2005.
Ngân sách dành cho Bộ Giáo dục của nước này trong năm 2012 sẽ được tăng
thêm 12,5% lên 238,8 tỷ peso (5,5 tỷ USD), so với 207,3 tỷ peso của năm 2011.
Điều đó cũng nói lên rằng nhu cầu về GD là rất lớn.Chất lượng giáo dục Philippine


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
đang suy giảm liên tục, giáo dục tiểu học và trung học thất bại trong việc tạo nên
một thế hệ công dân có trách nhiệm, ham muốn lao động và có ước nguyện. Những
lí do hàng đầu cho sự suy giảm này bởi trước tiên nước này không đầu tư đủ cho
hệ thống giáo dục và thứ hai là tổ chức giáo dục được quản lí một cách yếu kém.

Sức ép cải cách đang đặt lên vai các quan chức giáo dục Philippine và họ cũng khó
mà làm thay đổi bộ mặt giáo dục một cách tức thời, đây là một vấn đề mang tính
lâu dài và phụ thuộc vào quan điểm ưu tiên giáo dục của chính phủ. Bộ Giáo dục
Philippine đang đề xuất một khung chi tiêu ngân sách 5 năm cho giáo dục cơ bản
để có thể thực hiện một chiến lược dài hạn xây đủ phòng học và cung ứng đủ trang
thiết bị giáo dục khác. Bộ Giáo dục ước tính sẽ cần tăng 8 đến 9% ngân sách hàng
năm trong 5 năm tới để thực hiện có hiệu quả các cải cách giáo dục.


Sự đầu tư về giáo dục của Việt Nam

Là một nước đang phát triển,Việt Nam đang từng bước tiến lên công nghiệp
hoá,hiện đại hoá đất nước.Theo đó nền giáo dục của nước ta cũng đang từng bước
thay đổi.H ơn nửa thế kỷ qua nền giáo dục Việt nam nói chung và giáo dục đại học
nói riêng đã đạt được nhiều thành tích to lớn trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng
và phát triển đất nước. Giáo dục đại học đã đào tạo bài bản và cung cấp cho đất
nước một đội ngũ cán bộ đông đảo có trình độ đại học, trên đại học đáp ứng yêu

cầu thực tiễn của đất nước, cũng như yêu cầu của sự hội nhập khu vực và thế giới
trên mọi lãnh vực. Với quan điểm “Đầu tư cho giáo dục là quốc sách”, Đảng và
Nhà nước đã đưa ra nhiều nghị quyết về phát triển giáo dục, đào tạo khoa học và
công nghệ khẳng định tầm quan trọng, định hướng cũng như xác định mục tiêu,
nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Thực hiện nghị quyết của
Đảng, Chính phủ và Bộ giáo dục đào tạo đã đưa ra nhiều mô hình đào tạo đại học.
Do vậy, tốc độ tăng của giáo dục và đào tạo đại học tăng nhanh. Hiện trên cả nước
có khỏang gần 90 cơ sở đào tạo đại học bao gồm các trường đại học quốc gia, đại
học vùng, các trường đại học công lập, bán công, dân lập và các học viện. Tới đây
sẽ có thêm một số trường đại học tư thục ra đời. Lực lượng giảng viên không
ngừng nâng cao về chất lượng và quy mô, số lượng sinh viên tăng đáng kể (tăng
khoảng 15 lần so với 20 năm trước) và do đó làm cho trình độ dân trí tăng lên rõ
rệt. Thành tích trên là đáng trân trọng và tôn vinh. Tuy nhiên, dù có phát triển như


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
thế nào đi nữa thì chất lượng giáo dục, đào tạo vẫn luôn là vấn đề quan trọng cốt
tư..̉ Thực tế hiện nay có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau thậm chí trái ngược
nhau khi đánh giá về chất lượng giáo dục đào tạo đại học của Việt Nam so với
nhu cầu xã hội và trình độ thế giới.

Nhận ra nều giáo dục Việt Nam còn tồn tại một số điểm sau:
1.Về phía người dạy:
Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một nâng
cao nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, làm người
học tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang năng lý thuyết, thiếu cập
nhật thực tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp. Mặt khác, việc sử
dụng các phương tiện phục vụ cho giảng dạy chưa nhiều do vậy mà không thể
truyền tải hết lượng thông tin cần cung cấp cho người học, số thời gian của giảng

viên dành cho lên lớp tại các trường quá lớn, cho nên hạn chế thời gian nghiên cứu
khoa học và nghiên cứu thực tế.
2.Về phía người học:


Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo đại học quá thấp, thấp đến mức
không thể thấp hơn được nữa, chủ yếu tập trung vào các trường xét tuyển, tính chủ
động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên nhìn chung chưa cao,
thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo phong trào, học cho qua
“học theo hội chứng bằng cấp” , do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến thức để đáp
ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ. Chỉ số chất lượng
đào tạo so với các nước trong khu vực đứng hạng 10 trên 12 nước.
3.Về chương trình đào tạo:
Chương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới,,̀ thiếu tính cập nhật, lý thuyết chưa
gắn với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý, dẫn tới
sinh viên Việt Nam học quá nhiều nhưng kiến thức lại chưa phù hợp với thực tiễn.
4. cho giáo dục còn quá yếu kém và lạc hậu, thiếu đồng bộ, thiếu đầu tư nâng
cấp:
Những tồn tại trên đã làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục đào tạo đại
học mà nguyên nhân chính vẫn là tư duy của người dạy, người học và cơ chế quản


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
lý chưa phù hợp đã tạo những “Sản phẩm” chất lượng kém vừa thiếu kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, phương pháp làm việc vừa kém về năng lực nhận thức, tư duy
và phương pháp nghiên cứu khoa học, xã hội không thừa nhận và rồi “Sản phẩm”
của giáo dục đào tạo đại học không có chỗ đứng trên thị trường, người học xong
đại học khó hoặc không tìm được việc làm...



ĐÁNH GIÁ VỀ NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM.

Tích cực:
- Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu học tập của xã hội
- Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có tiến bộ.
- Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn quốc gia về
xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
- Công tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục đã đạt
được những kết quả bước đầu.
- Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện
- Công tác quản lý giáo dục đã có nhiều chuyển biến
Tiêu cực:
- Mặc dù đã có nhiều chính sách,chỉ thị đổi mới nhưng nền giáo dục của nước ta
vẫn còn mắc phải nhiều lỗi lớn,vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém...
- Đội ngũ giáo viên chưa thật sự đáp ứng được nhiệm vụ giáo dục trong thời kì đổi
mới.
- Có những chính sách chưa phú hợp với nền giáo dục nước nhà.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn yếu kém lạc hậu.
- Chất lượng giáo dục còn thấp so với nhu cầu xã hội và thế giới


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
- Hệ thống giáo dục từ mầm non đến trung học phổ thông còn nhiều bất
cập;chương trình giáo dục đại học chậm đổi mới chưa đáp ứng được nguồn nhân
lực thật sự chất lượng cho xã hội.
- Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ,thiếu tính liên thông giữa các
cấp học và trình độ đáo tạo.Trong đó chưa quan tâm đúng mức giáo dục đào tạo

nghề...

Sau đây là nhận xét của một nhà báo nước ngoài về giáo dục Việt Nam:
Dù thu nhập trung bình của người Việt Nam chỉ dừng ở mức 1.400 USD, năm
ngoái vẫn có hơn 30.000 người Việt theo học ở các trường của nước ngoài. Việt
Nam xếp thứ 5 về số du học sinh ở Australia và thứ 8 ở Mỹ, trên cả Mexico, Brazil
và Pháp.
Số lượng du học sinh Việt Nam tại Mỹ đã tăng gấp 7 lần kể từ con số 2.000 học
sinh trong thập kỷ vừa qua. Hầu hết trong số gần 15.000 học sinh theo học ở Mỹ
năm ngoái không đi theo diện học bổng của các trường danh tiếng, mà thay vào đó
là ghi tên vào các trường cao đẳng cộng đồng với học phí do gia đình chi trả, theo
Viện Giáo dục Quốc tế ở New York.Không giống những trường đại học ở nước
láng giềng Trung Quốc, nơi các nhà lãnh đạo đã đi vào cải cách sâu rộng từ những
năm 1980, các trường đại học ở Việt Nam vẫn chưa thể bắt kịp tốc độ với một thế
giới đang toàn cầu hóa không ngừng, các chuyên gia nhận xét. Thay vào đó, giáo
dục ở Việt Nam vẫn duy trì một hệ thống quản lý tập trung kém hiệu quả và thiếu
tư duy phê phán.
Hình mẫu giáo dục Việt Nam là “một cho tất cả” và vì thế các nhà lãnh đạo
“cần hành động nhiều hơn để biến giáo dục trở thành một trong những tài sản của
quốc gia. Dù Việt Nam đã đầu tư nhiều hơn vào giáo dục, tương đương một phần
trăm trong tổng sản phẩm quốc nội, hơn so với nhiều nước khác trong khu vực
châu Á-Thái Bình dương, vấn đề cốt lõi nằm ở quản lý kém chứ không do thiếu
đầu tư.
Một vấn đề khác là thực trạng các bậc phụ huynh hối lộ cho giáo viên để con
em được điểm cao và khiến bằng cấp trở nên tầm thường. Trong một báo cáo năm
2010, Tổ chức Minh bạch Quốc tế có trụ sở tại Berlin đã kết luận rằng giáo dục là


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH

ngành tham nhũng thứ hai, sau ngành hành pháp, ở Việt Nam. “Nhiều trường đại
học chỉ quan tâm đến chuyện làm sao để tuyển dụng được nhiều sinh viên nhất”,
đại biểu quốc hội Mỹ Hương cho biết. “Rồi các cử nhân sẽ đi về đâu? Liệu họ có
thể tìm được công ăn việc làm không?”.
Tầng lớp trung lưu ở Việt Nam vẫn đang loay hoay nghĩ xem làm thế nào để
giúp con em họ học tập tốt trong một hệ thống trường lớp lạc hậu như thế. Một
trong những giải pháp phổ biến là đăng ký vào các lớp học thêm ban đêm do các
giáo viên trường công, những người có mức lương khoảng 5 triệu đồng/tháng (250
USD), giảng dạy. Không giống các quan chức cấp cao, hầu hết các gia đình ở Việt
Nam không đủ tiền cho con em theo học ở các trường tư và đi du học...
Vậy để giải quyết các bất cập trong giáo dục thì ta cần có những biện pháp
hiệu quả nào?
Những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo đại học:
1. Đổi mới chế độ tiền lương cho ngành giáo dục nói chung và cho các cơ sở
đào tạo đại học nói riêng, trên cơ sở người Thầy sống được bằng chính tiền lương
của mình, có như vậy Thầy mới toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp đào tạo.
2. Chuẩn hóa, đánh giá xếp hạng thực sự nghiêm túc về các cơ sở đào tạo đại
học (các trường) và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để người học
lựa chọn .
3.Thực hiện triệt để những quy định về định mức giờ giảng cho giảng viên để
giảng viên có thời gian tham gia nghiên cứu khoa học và tiếp cận với thực tế, có
như vậy chất lượng bài giảng mới sâu sắc về lý luận và có tính thực tiễn cao. Trong
mối quan hệ đó, trong từng năm học, giảng viên phải có kết quả nghiên cứu khoa
học cụ thể, đó là các đề tài khoa học được nghiệm thu, các kết quả nghiên cứu
đăng tải trên các tạp chí khoa học, các bài tham luận hội thảo khoa học,…
4. Đào tạo đội ngũ giảng viên về phương pháp giảng dạy, thực hiện triệt để đổi
mới phương pháp đạy và học từ dạy và học thụ động sang phương pháp dạy và học
chủ động, thay truyền đạt kiến thức sang dạy phương pháp tiếp cận kiến thức, thay
tiếp nhận kiến thức bằng tìm hiểu kiến thức, có như vậy mới làm thay đổi dần tư
duy cố hữu của cách dạy và học như hiện nay.



Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
5. Thay đổi và đa dạng hóa phương pháp tuyển sinh của các trường đại học
cũng như phương pháp đánh giá kết quả học tập của sinh viên để công tác tuyển
sinh và đánh giá kết quả học tập của sinh viên không quá nặng nề, căng thẳng như
hiện nay.
6. Mở rộng liên kết đào tạo giữa các trường, cơ sở đào tạo trong và ngoài nước
nhằm tận dụng lợi thế của các trường và tạo ra sức cạnh tranh lành mạnh giữa đội
ngũ giảng viên của các trường buộc giảng viên phải không ngừng trao dồi kiến
thức không ngừng vươn lên.
7. Liên kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng nhân lực bằng
cách thường xuyên mởi hội thảo khoa học đển nắm được nhu cầu của các đơn vị sử
dụng nhân lực trên cơ sở đó xây dựng những chương trình đào tạo phù hợp đáp
ứng với thực tiễn.
8. Chính phủ xây dựng chương trình quy họach tổng thể đào tạo đại học, xác
định cơ cấu đào tạo giữa các ngành, vùng lãnh thổ, địa phương trên cơ sở đó xây
dựng chi tiêu tuyển sinh cho từng trường tránh tình trạng đào tạo tràn lan mất cân
đối “thầy nhiều hơn thợ” như hiện nay.
9. Tăng đầu tư cơ sở vật chất cho các trường đào tạo đại học xây dựng thư viện
điện tử tạo điều kiện cho sinh viên học tập nghiên cứu, góp phần thay đổi từ
phương pháp học thụ động sang phương pháp học chủ động của sinh viên...

C.KẾT LUẬN:
Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược con
người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “Nguồn tài nguyên và sự
giàu có của một quốc gia không phải nằm trong lòng đất mà chính là nằm trong
bản thân con người, trí tuệ con người”. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá thắng lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo dục- đào tạo vì giáo dục đào tạo có vai

trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội cũng như xây dựng nền văn
hoá . Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, hàm
lượng trí tuệ khoa học kết tinh trong sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng;
tài năng trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con người, không
phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự phát, mà phải trải qua quá trình đào luyện
công phu có hệ thống. Vì vậy giáo dục hiện nay được nhìn nhận không phải là


Tên: Hoàng Thị Sáu
Lớp: 13CTXH
yếu tố phi sản xuất mà là yếu tố bên trong cấu thành của nền sản xuất xã
hội. Thực tiễn cho thấy rằng không có quốc gia nào muốn phát triển mà ít đầu tư
cho giáo dục.
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội thì phát triển trí tuệ đã trở thành yếu tố
hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của một quốc gia, các nước trên thế giới
đều ý thức được rằng giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn bẩy
quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Các nước chậm tiến muốn phát
triển nhanh phải hết sức quan tâm đến giáo dục và đầu tư cho giáo dục chính là đầu
tư cho phát triển. Chỉ có một chiến lược phát triển con người đúng đắn mới giúp
các nước thuộc thế giới thứ ba thoát khỏi sự nô lệ mới về kinh tế và công nghệ.
Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng đã nói nhân dịp khai giảng năm học 1995 - 1996: “Con
người là nguồn lực quý báu nhất, đồng thời là mục tiêu cao cả nhất. Tất cả do con
người và vì hạnh phúc của con người, trong đó trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất
của quốc gia. Vì vậy, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài là vấn đề
có tầm chiến lược, là yếu tố quyết định tương lai của đất nước”. Do vậy, giáo dục,
đào tạo giữ vai trò cốt tử đối với mỗi quốc gia.




×