Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Nâng cao vai trò của giáo dục đào tạo trong nền kinh tế tri thức của Việt Nam hiện nay”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.14 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2
V. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 2
Chương 1. TỔNG QUAN NỀN KINH TẾ TRI THỨC 3
1.1. Khái niệm và đặc điểm kinh tế tri thức 3
Bảng. So sánh khái quát các thời đại kinh tế 7
(nguồn: viện nghiên cứu phát triển thành phố HCM) 7
1.2. Bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức 8
1.3. Mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế tri thức 9
Chương 2. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 10
2.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế tri thức 10
2.2. Những mặt hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế tri thức 14
2.3. Thực trạng phát triển kinh tế tri thức Việt Nam xét theo bốn trụ cột 18
Chương 3. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC 22
3.1. Đổi mới mô hình giáo dục đào tạo theo hướng hiện đại 22
3.2. Điều chỉnh cơ cấu giáo dục, đào tạo phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội 24
3.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên 24
3.4. Xây dựng cơ chế chính sách đãi ngộ tốt đối với đội ngũ giáo viên 25
3.5. Nâng cao sự quản lý của Đảng và chủ động hội nhập 26
VI. KẾT LUẬN 28
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
KINH TẾ GIÁO DỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Kinh tế tri thức là một khái niệm mới, về nội hàm, kinh tế tri thức phản ánh một
trình độ rất cao trong các nấc thang phát triển kinh tế của loài người. Hiện nay xu hướng
phát triển kinh tế tri thức đang tác động ngày càng sâu rộng trên mọi khía cạnh, lĩnh vực
của đời sống nhân loại; có thể nói kinh tế tri thức vừa là mục tiêu vừa là xu thế phát triển
tất yếu của xã hội loài người trong tương lai gần. Kinh tế tri thức được xác định chính là


cánh cửa mở ra cho các nền kinh tế đang phát triển tiếp cận và rút ngắn khoảng cách với
các nước phát triển nếu biết đón bắt và tận dụng cơ hội. Ngược lại, kinh tế tri thức cũng
tạo ra thách thức lớn hơn bao giờ hết đối với các nước đang phát triển, đó là nguy cơ tụt
hậu, đó là khoảng cách ngày càng gia tăng về trình độ phát triển với các nước phát
triển.Thời đại đặt ra đối với bất kì quốc gia nào trong nền kinh tế tri thức hiên nay là để
đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế tri thức phải nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo. Vậy thì hiện trạng của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Giáo
dục cần làm gì trước những đòi hỏi của nền kinh tế tri thức? Đó là lý do nhóm đã chọn đề
tài: “Nâng cao vai trò của giáo dục đào tạo trong nền kinh tế tri thức của Việt Nam hiện
nay”.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài này, nhóm kỳ vọng đạt được những mục tiêu sau:
- Hiểu rõ về nền kinh tế tri thức, các đặc trưng của nền kinh tế tri thức.
- Hiểu được vai trò, nhiệm vụ của giáo dục trong nền kinh tế tri thức.
- Giải pháp nâng cao vai trò của giáo dục đào tạo trong nền kinh tế tri thức
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 Đối tượng nghiên cứu
- Thứ nhất, đánh giá nền kinh tế tri thức của Việt Nam đang phát triển ở mức
những mặt nào mạnh cần phát huy và những điểm yếu cần khắc phục
NHÓM 7 – K11403 1
KINH TẾ GIÁO DỤC
- Thứ hai, tìm hiểu về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của kinh tế tri
thức. Giáo dục cần làm gì để đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế tri thức.
 Phạm vi nghiên cứu
- Kinh tế tri thức, vai trò của giáo dục ở Việt Nam
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp định tính và định lượng.
 Phương pháp định tính:
- Quan sát, tìm hiểu thực trạng, từ đó rút ra kết luận về kinh tế tri thức hiện nay.
- Đưa ra những giải pháp phù hợp của giáo dục để phát triển nền kinh tế tri thức

ở Việt Nam.
 Phương pháp định lượng:
Đề tài sử dụng nguồn số liệu thứ cấp từ Tổng cục Thống kê cùng một số trang Web
đề cập đến giáo dục và nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
V. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Nội dung đề tài gồm 3 chương có kết cấu như sau:
Chương 1: Tổng quan nền kinh tế tri thức
Chương 2: Thực trạng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Nâng cao chất lượng giáo dục trong nền kinh tế tri thức
NHÓM 7 – K11403 2
KINH TẾ GIÁO DỤC
Chương 1. TỔNG QUAN NỀN KINH TẾ TRI THỨC
1.1. Khái niệm và đặc điểm kinh tế tri thức
1.1.1. Khái niệm
Từ khi xã hội loài người tiếp nhận hai phát minh vĩ đại là Thuyết Tương đối (Albert
Einstein) và Thuyết Lượng tử (Max Planck) thì khoa học công nghệ phát triển như vũ
bão. Thế kỷ XX bùng nổ cách mạng tri thức và cách mạng thông tin, hệ thống công nghệ
cao ra đời, lực lượng sản xuất phát triển nhảy vọt lên nấc thang mới, xã hội loài người
biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Nền văn minh công nghiệp chuyển sang nền văn minh trí
tuệ, nền kinh tế công nghiệp chuyển sang dựa vào nền kinh tế tri thức, xã hội công nghiệp
chuyển lên xã hội tri thức, xã hội thông tin.
Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960.Trong nhiều
năm qua, kinh tế tri thức được chọn làm chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, cả
những quốc gia phát triển và đang phát triển.
Như vậy, nền kinh tế tri thức là hệ quả tất yếu của ba quá trình: phát triển kinh tế thị
trường, phát triển khoa học công nghệ và toàn cầu hóa. Nói cách khác, đang có sự chuyển
biến nền kinh tế toàn cầu dựa vào bắp thịt và tiền vốn sang dựa vào sức mạnh của trí não,
dựa trên công nghệ cao mà tiêu biểu là công nghệ thông tin. Với sự phát triển của lĩnh
vực này, quy trình khoa học – kỹ thuật đến công nghệ sản xuất ngày càng được rút ngắn,
lực lượng lao động ngày càng chuyên nghiệp hơn, ứng dụng máy móc hiện đại để thay

thế cho con người,…từ đó thúc đẩy tang trưởng kinh tế.
Ví dụ, từ năm 1960-1990, tiến bộ công nghệ đã tạo ra 76% tổng tăng trưởng kinh tế
ở Đức, 78% tang trưởng kinh tế ở Nhật, 73% tăng trưởng ở Anh (Nguyễn Văn Hộ, 2001,
Kinh tế học giáo dục, trang 65).
Vậy, thế nào là kinh tế tri thức? Trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
NHÓM 7 – K11403 3
KINH TẾ GIÁO DỤC
Báo cáo kinh tế lấy tri thức làm nền tảng của tổ chức nghiên cứu của Liên hợp quốc
chỉ ra rằng: “Kinh tế tri thức là kinh tế xây dựng dựa trên cơ sở sản xuất, phân phối, sử
dụng tri thức và thông tin”. Tức là, lấy tri thức và khối óc làm yếu tố then chốt để phát
triển kinh tế, và nó tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố lao động và tài nguyên sản xuất
khác.
Năm 1998, Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa: “Một nền kinh
tế dẫn dắt bởi tri thức là một nền kinh tế mà việc sản sinh và khai thác tri thức có vai trò
nổi trội trong quá trình tạo ra của cải”.
GS.VS Đặng Hữu cho rằng: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra,
phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra
của cải nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Từ những định nghĩa trên có thể thấy được, tuy khác nhau về cách diễn giải nhưng
nói chung, họ đều nhất trí rằng, nói một cách đơn giản, kinh tế tri thức là kinh tế chủ yếu
dựa vào tri thức. Các ngành sản xuất và dịch vụ mới do công nghệ cao tạo ra như các
dịch vụ khoa học công nghệ, các dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công nghệ cao,
… được gọi là ngành kinh tế tri thức. Các ngành truyền thống như công nghiệp, nông
nghiệp nếu được cải tạo bằng công nghệ cao mà giá trị do tri thức mới, công nghệ đem lại
chiếm 2/3 tổng giá trị thì những ngành ấy cũng gọi là ngành kinh tế tri thức. Nền kinh tế
phát triển dựa trên các ngành kinh tế tri thức gọi là nền kinh tế tri thức.
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế tri thức
Có nhiều cách miêu tả đặc điểm kinh tế tri thức, nhưng ở đây chú trọng đến các đặc
điểm có liên quan đến đầu tư và phát triển giáo dục.
1.1.2.1. Tài nguyên trong nền kinh tế tri thức

Tài nguyên là tất cả những yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm. Dựa vào nguồn tài
nguyên chủ yếu trong sản xuất, người ta chia ra: nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên
nhiên, nền kinh tế dựa vào vốn, sức lao động,…
NHÓM 7 – K11403 4
KINH TẾ GIÁO DỤC
Nền kinh tế tri thức xuất hiện ba loại tài nguyên mới: thông tin, giáo dục và tri thức.
Trình độ và chất lượng của công cuộc phát triển kinh tế trong nền kinh tế tri thức phụ
thuộc vào mức độ khai thác, phân phối và sử dụng ba loại tài nguyên này. Đây là tiêu chí
quan trọng để so sánh sự khác biêt giữa kinh tế công nghiệp với kinh tế tri thức.
1.1.2.2. Lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở một thời kỳ
nhất định, bao gồm các hệ thống tư liệu sản xuất là tư liệu lao động và đối tượng lao
động.
Trong nền kinh tế tri thức, sự phát triển của kinh tế tri thức tập trung ở hai mặt:
- Sự gia tang hàm lượng khoa học và công nghệ làm xuất hiện sự chuyển hóa
các đặc trưng công cụ sản xuất và đối tượng lao động thành phần mềm.
- Ba tài nguyên mới của nền kinh tế tri thức là giáo dục, thông tin và tri thức sẽ
phát triển rộng khắp và là nhân tố then chốt thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển sang
giai đoạn mới.
1.1.2.3. Giá trị của tri thức trong sản phẩm hàng hóa
Trong nền kinh tế tri thức, cùng với sự phát triển khoa học công nghệ, xét về mặt
chủ thể thì lao động trí óc sẽ chiếm vị trí chủ đạo. Dựa vào hàm lượng khoa học công
nghệ nhiều hay ít, tri thức cao hay thấp có trong hàng hóa mà người ta chia ra: hàng hóa
có tính lao động, hàng hóa có tính kỹ thuật, hàng hóa có tính tri thức. Như vậy, trong nền
kinh tế tri thức, người ta sẽ chú trọng hàm lượng tri thức trong hàng hóa. Điều này sẽ dẫn
đên sự điều chỉnh lớn về quan niệm sản xuất, các hành vi kinh tế, cạnh tranh trên thị
trường.
NHÓM 7 – K11403 5
1.1.2.4. Sự tiêu dùng tri thức
Trong nền kinh tế tri thức, sự tiêu dùng tri thức biểu hiện tập trung ở ba mặt:

- Con người theo đuổi tiêu dùng tri thức một cách tự giác, từ đó có thể trau dồi
và tích lũy tri thức.
- Tiêu dùng tri thức ngày càng mở rộng. Việc sử dụng các phương tiện mang tải
và thu thập tri thức ngày càng gia tang, đơn cử như thị trường máy tính cá nhân.
- Sự tiêu dùng tri thức làm trình độ con người nâng cao, từ đó hình thành các
giá trị lành mạnh, lối sống văn minh, tạo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và tiến bộ xã
hội.
1.1.2.5. Một số đặc trưng cơ bản khác
Ngoài những đặc điểm nêu trên, nền kinh tế tri thức còn có một số đặc trưng sau:
- Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
- Cơ cấu sản xuất ngày càng dựa vào ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ cao
- Cơ cấu lao động trong nền kinh tế tri thức có những biến đổi như: lao động tri
thức chiếm tỷ trọng cao (70-90%), sự sáng tạo, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên
của mọi người, xã hội của nền kinh tế tri thức sẽ trở thành xã hội học tập.
- Trong nền kinh tế tri thức, quyền sở hữu đối với tri thức trở nên quan trọng.
- Mọi hoạt động của kinh tế tri thức đều liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa.
KINH TẾ GIÁO DỤC
Bảng. So sánh khái quát các thời đại kinh tế
(nguồn: viện nghiên cứu phát triển thành phố HCM)
Kinh tế nông
nghiệp
Kinh tế công nghiệp Kinh tế tri thức
Đầu vào của SX Lao động, đất đai,
vốn
Lao động, đất đai,
vốn, công nghệ, thiết
bị
Lao động, đất đai, vốn
công nghệ, thiết bị, trí

thức, thông tin
Các quá trình chủ yếu Trồng trọt, chăn
nuôi
Chế tạo, gia công Thao tác, điều khiển,
kiểm soát
Đầu ra của SX Lương thực Của cải, hàng hoá
tiêu dùng, các xí
nghiệp, nền công
nghiệp
Sản phẩm đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của
cuộc sống, công nghiệp
tri thức, vốn tri thức
Cơ cấu kinh tế Nông nghiệp là
chủ yếu
Công nghiệp và dịch
vụ là chủ yếu
Các ngành kinh tế tri
thức thống trị
Công nghệ chủ yếu
thúc đẩy phát triển
SD súc vật, cơ giới
hoá đơn giản
Cơ giới hoá, hoá học
hoá, điện khí hoá,
chuyên môn hoá
Công nghệ cao, điện tử
hoá, tin học hoá, siêu xa
lộ thông tin, thực ảo….
Cơ cấu xã hội Nông dân Công nhân Công nhân trí thức

Đầu tư cho R&D <0,3% GDP 1-2% GDP >3%GDP
Tỷ lệ đóng góp của
KHCN cho tăng
trưởng kinh tế
<10% >30% >80%
Đầu tư cho giáo dục <1% GDP 2 – 4% GDP 6 – 8% GDP
Tầm quan trọng của
giáo dục
Nhỏ Lớn Rất lớn
Trình độ văn hoá
trung bình
Tỷ lệ mù chữ cao Trung học Sau trung học
Vai trò của truyền
thông
Không lớn Lớn Rất lớn
NHÓM 7 – K11403 7
1.2. Bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức
Theo nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB), một quốc gia muốn chuyển sang
nền kinh tế tri thức cần hình thành bốn trụ cột chính: đó là giáo dục; mạng lưới trung tâm
nghiên cứu; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông; hệ thống thể chế các
chính sách kinh tế.
- Giáo dục: Có thể nói giáo dục đào tạo là nhân tố quan trọng nhất trong bốn trụ
cột chính của nền kinh tế tri thức. Bởi, từ trong quá trình đào tạo, con người sẽ nhận thức
và đổi mới tư duy để tiếp nhận những tri thức của xã hội loài người, từ đó có thể xây
dựng nên những thể chế, chính sách phù hợp cho đất nước trong quá trình phát triển; có
đầy đủ tri thức để tìm hiểu, phát minh sáng chế; đồng thời tiếp thu phát triển hệ thống cơ
sở hạ tầng thông tin, đó chính là ba trụ cột còn lại để hình thành nên nền kinh tế tri thức.
- Mạng lưới các trung tâm nghiên cứu: Việc hình thành nên một mạng lưới các
trung tâm nghiên cứu là rất cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn cầu vẫn đang
không ngừng mở rộng. Đồng thời, từ đó sẽ truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu

của đất nước, sáng tạo ra những tri thức mới, hay nói cụ thể hơn là các phát minh sáng
chế giúp phát triển đất nước, và rộng ra là phát triển toàn nhân loại.
- Cơ sở hạ tầng thông tin: Giúp kết nối mọi người lại với nhau, giúp tiếp cận tri
thức toàn cầu dễ dàng hơn mà ngày nay nhờ công nghệ thông tin, người ta biết rằng “thế
giới phẳng”. Một cơ sở hạ tầng thông tin hoàn thiện là nhân tố không thể thiếu trong quá
trình phát triển đất nước, vươn lên tầm tri thức mới.
- Hệ thống thể chế: Một quốc gia muốn phát triển thì các thể chế chính sách
phải phù hợp. Có thể nói, đây chính là cái khung pháp lý mà dựa vào đó, quốc gia có thể
phát triển hay thụt lùi phụ thuộc vào hệ thống thể chế có đáp ứng được trong từng thời
đại.
1.3. Mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế tri thức
Giáo dục luôn là một vấn đề quan trọng, đáng quan tâm hàng đầu của mỗi quốc
gia.Và trong nền kinh tế tri thức, giáo dục càng có vai trò to lớn hơn nữa, như trên đã nói,
đó là một trong bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đưa thế giới bước vào kỷ nguyên thông tin,
kỷ nguyên tri thức. Khoảng cách giữa việc phát minh khoa học công nghệ và việc ứng
dụng chúng vào thực tiễn ngày càng thu hẹp lại. Nền kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi người
lao động luôn không ngừng học tập, trau dồi khả năng để có thể tạo ra nhiều sản phẩm tri
thức cao và bắt kịp thời đại. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi giáo dục phát huy tối đa vai trò
của mình trong việc giảng dạy và đào tạo. Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia vừa phải
trang bị những tri thức và kỹ năng mới, vừa phải thay đổi công nghệ và cách làm, giúp
con người hoạt động sáng tạo, phát huy trình độ chuyên môn, thái độ lao động và lương
tâm nghề nghiệp, giáo dục phải làm được những điều như thế.
Giáo dục đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, phát
triển nhân tài, nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm đối với bản thân và cộng
đồng, đặt nền tảng cho sự đổi mới và phát triển khoa học công nghệ cho đất nước.
Như vậy, có thể nói, giữa giáo dục và nền kinh tế tri thức có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Trước những đòi hỏi của nền kinh tế tri thức, buộc giáo dục luôn phải đổi mới
và phù hợp, giáo dục phải tạo ra được những nhân lực chất lượng cao. Ngược lại, nếu nền
kinh tế phát triển không dựa vào tri thức, thì việc giáo dục cũng chẳng phát huy được vai

trò của mình, và mãi cứ đi theo lối mòn, khép kín.
Chương 2. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế tri thức
Đánh giá theo những đặc trưng của nền kinh tế tri thức, trong hơn 25 năm đổi mới
(1986-2014) vừa qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả, thể hiện chủ yếu như sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Liên tục trong nhiều năm, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và
ổn định, đạt trung bình khoảng hơn 8% hàng năm trong giai đoạn 1990 – 2000 và hơn 7%
trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay. GDP thực tế trên đầu người đạt trung bình hàng
năm khoảng 5,9% trong giai đoạn 2010 – 20013. Tăng trưởng nhanh và ổn định đã có
những tác động lan toả tích cực đến các khía cạnh khác của đời sống kinh tế- xã hội.
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của nước ta trong những năm vừa
qua đã có sự chuyển dịch, với tỷ trọng các lĩnh vực kinh tế có giá trị gia tăng cao, trong
đó có những lĩnh vực dựa nhiều vào tri thức, ngày càng tăng, tỷ trọng nông- lâm- ngư
nghiệp trong GDP đã giảm đều đặn và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng và dịch vụ đã tăng
lên tương ứng ( bảng 2.1). Một số lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghệ cao, các
lĩnh vữc dựa vào xử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát
triển công nghệ… đã dần dần hình thành và có bước phát triển đáng kể. Những lĩnh vực
này được chờ đợi trở thành đầu tàu thúc đẩy phát triển, đổi mới toàn bộ nền kinh tế.
Bảng 1.1 Tỷ trọng các ngành trong GDP (%)

Ngành
1990 1995 2000 2003 2013
Nông- lâm- ngư
nghiệp
38,74 28,17 24,30 21,80 38,31
Công nghiệp –
xây dựng
22,67 28,76 36,61 40,00 18,38

Dịch vụ 38,59 44,06 39,09 38,20 43,31

Nguồn: Tổng cục thống kê
Thứ hai, xây dựng thể chế kinh tế thị trường, tạo điểu kiện thuận lợi cho sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân:
Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc xây dựng hệ thống pháp
luật kinh tế thị trường, cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước, tăng cường năng
lực, tính năng động và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức chú trọng hỗ
trợ doanh nghiệp mới và tạo cuộc sống tốt hơn cho người dân, cơ cấu lao động thay đổi
với sự từng bước gia tăng của lực lượng lao động xử lý thông tin, làm dịch vụ, di chuyển
sản phẩm, làm văn phòng,… (còn gọi là lao động tri thức)
Đặc biệt, trong những năm gần đây, với sự ra đời của Luật doanh nghiệp, khu vực
kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển mạnh. Trong giai đoạn 2010- 2013, trung
bình hằng năm có khoảng 20.000 doanh nghiệp dân doanh thành lập mới, với số vốn
đăng ký đầu tư hơn 40.000 tỷ đồng và giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Các
doanh nghiệp dân doanh đã tham gia vào hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế,
với tổ chức sản xuất- kinh doanh linh hoạt, nỗ lực cải tiến công nghệ, tăng năng suất,
thâm nhập thị trường. Tình hình đó càng đòi hỏi phát triển thị trường hàng hoá và thị
trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công
nghệ, góp phần làm tăng phạm vi, quy mô và mức độ thị trường hoá nền kinh tế nước ta.
Thứ ba, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
Các quan hệ kinh tế song phương và đa phương của Việt Nam không ngừng được
mở rộng thông qua việc ký kết và tham gia vào các hiệp định và diễn đàn như: ký Hiệp
định khung với Liên minh Châu Âu (EU) (1992); tham gia Khu vực Thương mại Tự do
ASEAN (AFTA) (1996); tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (
APEC) (1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ ( 2000). Hiện nay Việt
Nam đã bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và toàn diện hơn bao giờ hết.
Tính đến năm 2011, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 179 quốc gia, có quan hệ kinh
tế, thương mại, đầu tư với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước

từ cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm
1998) lên đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã đảm nhận thành công vị trí Ủy viên không
thường trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc, nhiệm kỳ
2008 - 2009. Việt Nam cũng đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm
ASEAN 2010. Chặng đường hơn 25 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là một quá trình nỗ
lực bền bỉ của đất nước
Kết quả là cho đến nay, lần đầu tiên nước ta đã thiết lập được mối quan hệ bình
thường với tất cả các nước lớn, các nhóm nước và trung tâm kinh tế, tài chính lớn trên thế
giới. Điều này đã đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế, như: tiếp nhận một khối lượng
lớn vốn FDI, ODA: tiếp nhận chuyển giao công nghệ, tăng năng suất lao động; có nguồn
vốn để xoá đói giảm nghèo; mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng kim ngạch xuất khẩu; tăng
vị thế nước ta trên thị trường quốc tế… Nước ta đang từng bước trở thành một mắt khâu
trong mạng lưới sản xuất- kinh doanh toàn cầu, trong đó có những hoạt động liên quan
đến sự sản sinh truyền bá và sử dụng tri thức.
Thứ tư, từng bước hình thành kết cấu hạ tầng then chốt cho kinh tế tri thức:
Mạng thông tin được đánh giá là một trong những kết cầu hạ tầng quan trọng nhất
của xã hội và nền kinh tế tri thức. Trong những năm qua, nhờ những nỗ lực thực hiện
chương trình quốc gia về công nghệ thông tin ( từ năm 1995) và chiến lược đẩy nhanh
phát triển lĩnh vực truyền thông, mạng thông tin ở nước ta đã hình thành và mở rộng
nhanh chóng, và viễn thông được đánh là một trong những lĩnh vực có tốc độ phát triển
và đuổi kịp nhanh nhất của nền kinh tế. Hiện nay, mạng lưới viễn thông của Việt Nam đã
được tự động hoá hoàn toàn với 100% các hệ thống chuyển mạch số và truyền dẫn số trải
rộng trên toàn quốc và kết nối với thế giới. Một loạt các dịch vụ bưu chính, viễn thông và
internet đã được tạo lập và mở rộng để để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, phục vụ các
hoạt động sản xuất- kinh doanh, quản lý nhà nước, giáo dục, y tế, nghiên cứu, giải trí,
giao tiếp…
Nhiều doanh nghiệp đã nhận thấy cơ hội tốt của thương mại điện tử và đã bắt đầu
áp dụng phương thức kinh doanh mới này, như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Internet, các doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ và du lịch, các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, các doanh nghiêp có nhu cầu thông tin nhanh, kịp thời về thị trường thế giới, và các

doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ sản phẩm công nghệ cao như tin học, điện tử viễn
thông, tư vấn, thị trường, giá cả… Nhiều cơ quan nhà nước cũng từng bước nghiên cứu
áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý trong một số lĩnh vực, điển hình là
đăng kí kinh doanh.
Kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận qua gần 30 năm đổi
mới, bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng. Đổi mới được ghi nhận như là một đột phá tư duy
ngoạn mục chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, mở ra hướng đi mới cho nền
kinh tế Việt Nam theo kịp thời đại, tạo đà cho nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng, các
năng lực sản xuất được giải phóng, khu vực tư nhân phát triển, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài (FDI) được đưa vào nhiều… nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong những năm
đầu thập kỷ 90, tiếp đó vượt qua tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu
vực, tiếp tục tăng trưởng khá trong thập niên đầu thế kỷ XXI… Giữa thập kỷ 90, báo chí
nước ngoài ca ngợi sự phát triển mới của Việt Nam và có nhiều dự báo Việt Nam sẽ cất
cánh trước khi bước vào thiên niên kỷ mới. Thế nhưng đà phát triển của Việt Nam sau đó
bắt đầu chững lại, nhiều vấn đề mới nảy sinh khi chuyển hẳn sang kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế sâu rộng mà tư duy và thể chế quản lý chưa theo kịp, Đổi mới mất
dần động lực, không còn những phát triển đột phá nữa và từ năm 2007 đến nay, nền kinh
tế suy giảm tăng trưởng, đứng trước những khó khăn gay gắt chưa từng có sau đổi mới.
2.2. Những mặt hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế tri thức
Đánh giá theo những đặc trưng chủ yếu của kinh tế tri thức, trong những năm qua,
có những việc chúng ta có thể làm, hoặc có thể làm tốt hơn, nhưng chưa làm được thể
hiện chủ yếu như:
Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp và chưa được cải thiện nhiều:
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao thể hiện ở chỗ hiệu quả nền kinh tế còn
thấp, năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế còn yếu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn
chậm và chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư có xu hướng gia tăng. Môi
trường đầu tư không ổn định và năng lực yếu kém của bộ máy hành chính đã làm tăng
đáng kể chi phí giao dịch và chi phí đầu vào sản xuất- kinh doanh. Việc phân biệt đối xử
trong thực tế giữa các thành phần kinh tế, chậm cải cách và tiếp tục bao cấp cho doanh
nghiệp Nhà nước, duy trì nhiều độc quyền và bảo hộ không có thời hạn và mục tiêu cụ

thể dẫn tới sử dụng không hiệu quả các nguồn lực, giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế, tăng trưởng không bền vững, tạo điều kiện và sơ hở cho tệ nạn tham nhũng và những
tiêu cực khác. Việc tiếp tục theo đuổi phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào lợi thế so
sánh tĩnh tăng vốn đầu tư trong nhiều năm qua khó có thể đảm bảo mức tăng trưởng cao
trong dài hạn, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường thể chế kinh tế thị trường còn non yếu, thiếu sót và
nhiều méo mó
Hệ thống thể chế kinh tế thị trường ở nước ta nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chưa theo
kịp diễn biến thực tế của hoạt động kinh tế, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, mâu thuẫn,
chồng chéo, không minh bạch, và nhất là năng lực thực thi pháp luật còn yếu. Cải cách
hành chính diễn ra chậm chạp, khiến cho năng lực hỗ trợ của nền hành chính cho phát
triển kinh tế bị hạn chế nghiêm trọng, thậm chí trong nhiều trường hợp các thủ tục hành
chính lạc hậu, rườm rà còn gây cản trở cho công cuộc phát triển.
Một số thị trường rất quan trọng mới chỉ được hình thành rất sơ khai mà đã nhiều
méo mó, trong đó có thị trường khoa học và công nghệ. Hàng hoá trên thị trường khoa
học và công nghệ còn nghèo nàn, lượng giao dịch trên thị trường còn ít và đơn điệu. Các
yếu tố cấu thành của thị trường, đặc biệt là hàng hoá, các chủ thể cung, cầu và các dịch
vụ hỗ trợ thị trường đều yếu. Thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam chưa trở thành
môi trường cần thiết để khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới.
Thứ ba, quá trình chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế chưa mạnh và chưa đồng đều
Qúa trình phát triển nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế còn chậm
trong các cấp, các ngành, thiếu sự thống nhất và quyết tâm cao từ trên xuống dưới. Việc
chỉ đạo và phối hợp thực hiện giữa các ngành, các cấp nhiều khi còn chệch choạc, thiếu
nhất quán; đặc biệt, nước ta chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập
kinh tế quốc tế cũng như chưa có lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc tế, do đó
chưa gắn kết được một cách hài hoà các lộ trình hội nhập ở các cấp độ và quy mô khác
nhau: song phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu.
Tính chủ động của nhiều cấp, nhiều ngành cũng như của doanh nghiệp trong hội
nhập kinh tế quốc tế chưa cao, thậm chí còn khá bị động trong nhiều lĩnh vực, mong
muốn tiếp nhận được sự bảo hộ từ phía Nhà nước. Sự bảo hộ này đã hạn chế cạnh tranh,

tăng thêm sức ì và gánh nặng đối với nền kinh tế, đồng thời tác động bất lơi đến quá trình
hoạch định chính sách.
Thứ tư, các lĩnh vực biểu hiện đặc trưng của kinh tế tri thức chưa phát triển
Các ngành mới, đại điện cho kinh tế tri thức ( hay còn gọi là các ngành công nghệ
cao) hoặc chưa hình thành hoặc mới ở trình độ phát triển rất sơ khai. Số doanh nghiệp
đầu tư mạo hiểm, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm tạo ra công nghệ mới
là không đáng kể. Đây chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn Việt
Nam chỉ có một số doanh nghiệp nhà nước lớn có sơ sở hoạt động và nghiên cứu phát
triển công nghệ, nhưng lượng vốn đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp này chỉ đạt
khoảng 0,2% doanh thu, quá thấp so với tỹ trọng 5-10% của doanh nghiệp tại các nước
phát triển. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước hầu như chưa tham
gia hoạt động R&D. Tri thức chưa thực sự trở thành nguồn vốn quý, ý thức xã hội và thể
chế pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ còn quá kém, những người có khả năng tạo ra tri thức
chưa hình thành được thói quen đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm khoa
học và công nghệ của mình.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống kinh tế- xã hội còn rất hạn chế. Mạng
thông tin đa phương tiện tuy đã và đang được mở rộng khá nhanh, nhưng chưa bao phủ
được khắp toàn quốc, chưa kết nối được đến hầu hết các tổ chức và các hộ gia đình. Bên
cạnh đó, sự tiếp cận với mạng thông tin còn gặp phải nhiều ràng buộc liên quan đến các
khía cạnh về cơ sở vật chật kĩ thuật, các thủ tục hành chính, pháp lý, giá cược… Điều này
ảnh hưởng lớn đến sự tiếp cận của các thành viên trong xã hội với những thông tin cần
thiết. Các phương thức kinh doanh mới như thương mại điện tử, thị trưởng ảo, tổ chức
ảo, doanh nghiệp ảo, làm việc từ xa… còn ở trình độ manh nha, thậm chí mới có trong
mong muốn, trong lời nói, trong bài viết, chưa có trong thực tế.
Nền kinh tế cho đến nay vẫn đi theo lối mòn với nhiều dấu ấn của mô hình công
nghiệp hóa kiểu cũ. Tuy đã chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, thu hút
nhiều FDI, gia nhập WTO, tự do hóa thương mại, nhưng không có tiến bộ nhiều về
năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Hiệu quả đầu tư có thể lấy hệ số ICOR
để đánh giá, ICOR chung của nền kinh tế từ khoảng 4,5 thời kỳ 2000-2006 tăng lên đến
trên 8 (giai đoạn 2007-2012), trong khi các nước trong khu vực chỉ ở mức 3-4. Năng suất

các yếu tố tổng hợp (TFP) ngày càng giảm, từ 22,62% năm 2000 xuống còn 6,44% (Bùi
Trinh). Tiêu hao vật chất, năng lượng trên 1 đơn vị GDP ngày càng tăng cao, các chỉ số
phát triển công nghệ, chỉ số về năng lực cạnh tranh đều thua xa các nước xung quanh.
Nền kinh tế về cơ bản vẫn là kinh tế gia công, bán tài nguyên, nhập công nghệ mà phần
lớn là công nghệ cũ từ nước ngoài, chưa phát huy được năng lực KH&CN của quốc
gia. Khối lượng xuất nhập khẩu gia tăng nhanh, thu hút nhiều FDI nhưng không có tác
dụng gì về nâng cao nền tảng tri thức: trong tổng giá trị xuất khẩu, tỷ lệ sản phẩm công
nghệ cao chiếm chưa đến 5%; trong FDI, công nghệ mới cũng chỉ chiếm khoảng 5%. Thế
giới coi FDI là kênh chuyển giao tri thức, nhưng ở ta thì chuyển giao tri thức rất ít, mà
chủ yếu là thuê đất đai, nhân công rẻ, sử dụng cơ sở hạ tầng và các dịch vụ với nhiều ưu
đãi. Nền kinh tế không dựa vào nguồn lực trí tuệ, không được quản trị tốt đã dẫn đến
những bất ổn và suy giảm kinh tế nghiêm trọng hiện nay.
Kết quả nghiên cứu bước đầu còn cho thấy, FDI dù có làm tăng GDP nhưng lại làm
cho chỉ số quan trọng hơn là GNI có xu hướng ngày càng giảm. So sánh GNI và GDP
cho thấy, năm 2000 tỷ lệ GNI/GDP là 98,6%, đến năm 2012 giảm xuống còn 95%, dẫn
tới tỷ lệ tiết kiệm (nguồn để đầu tư) từ nền kinh tế giảm nhanh từ 2006 đến nay (từ
36% xuống còn 29%). Tiết kiệm của nội bộ nền kinh tế - nguồn cơ bản để đầu tư giảm rất
mạnh, từ 87% trong tổng vốn đầu tư năm 2006 xuống 67% năm 2009. Tỷ trọng giá
trị gia tăng của khu vực FDI trong GDP năm 2000 khoảng 13%, đến năm 2011 tỷ lệ
này tăng đến khoảng 20% GDP. Nhưng lượng tiền chi trả sở hữu thuần ra nước ngoài
(chi trả sở hữu trừ thu từ sở hữu) của năm 2012 theo giá hiện hành tăng gần 26 lần so với
năm 2000, nếu loại trừ yếu tố giá cũng xấp xỉ 9 lần! Một ví dụ điển hình là: do được bao
cấp về giá điện (chỉ bằng 70% giá thế giới), các doanh nghiệp FDI ồ ạt nhảy vào Việt
Nam làm xi măng, sắt thép để kiếm lời. Tạo ra được GDP nhưng làm suy giảm tổng tài
sản quốc gia, tích lũy thuần (genuine saving) không được bao nhiêu, thậm chí có thể có
giá trị âm. Nếu cứ tiếp tục mô hình tăng trưởng này thì đất nước sẽ ngày càng suy kiệt.
Có thể nói, để đạt được những thành tựu trong gần 30 năm qua chúng ta đã phải trả giá
quá đắt!
Nếu xét theo ba giai đoạn phát triển của các nền kinh tế (M. Porter): giai đoạn đầu
phát triển dựa vào các yếu tố, giai đoạn 2 dựa vào hiệu quả, giai đoạn 3 dựa vào sáng tạo

và kinh doanh tinh vi thì Việt Nam vẫn là nước đang giẫm chân tại chỗ trong giai đoạn 1;
trong khi đó Philippin đang chuyển tiếp từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2; Indonesia, Thái
Lan, Malaysia, Trung Quốc đang ở giai đoạn 2. Năm 2012, xếp hạng theo chỉ số cạnh
tranh (Global Competitiveness Index - GCI), Việt Nam đứng thứ 75/144; năm 2013
vươn lên vị trí thứ 70. Tuy thăng 5 hạng, nhưng Việt Nam vẫn bị đánh giá là có năng lực
cạnh tranh kém hơn so với nhiều quốc gia trong cùng khu vực Đông Nam Á được
xếp hạng, như Singapore (xếp thứ 2), Malaysia (24), Brunei (26), Thái Lan (37),
Indonesia (38) và Philippines (59).
Theo báo cáo về Chỉ số đổi mới toàn cầu (The Global Innovation Index - GII), do
WIPO, Đại học Cornell (Mỹ) và Viện INSEAD hợp tác thực hiện hàng năm từ năm
2009, năm 2011 Việt Nam đứng thứ 51/125 nước; đến năm 2012 tụt sâu xuống thứ
76/141 nước. Năm 2013, Việt Nam vẫn chỉ giữ nguyên vị trí thứ 76 và xếp thứ 5 trong
khối các nước ASEAN. Đó chỉ là nói về năng lực KH&CN, chưa xem xét tác động của
nó đến kinh tế.
So với các nước và vùng lãnh thổ như: Hàn Quốc, Đài Loan qua 25 năm (1970-
1995) đã trở thành nước công nghiệp hóa mới; còn ta cũng 25 năm tính từ 1987 đến
2012, giai đoạn này lại có điều kiện thuận lợi hơn, thì công nghiệp hóa chưa đi được nửa
đường; tình hình diễn biến ngược lại với định hướng phát triển kinh tế tri thức đề ra gần
15 năm nay. Trung Quốc đổi mới từ năm 1978, nhờ chính sách của Đặng Tiểu Bình
chấm dứt tranh luận “họ tư hay họ xã”, mạnh dạn phát triển kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế sâu rộng, chấn hưng đất nước bằng KH&CN, giáo dục và đào tạo, theo bước đi
của các nước phát triển nhất, sau 30 năm đã trở thành nước công nghiệp, nền kinh tế lớn
thứ hai thế giới. Với sức mạnh kinh tế hùng hậu ấy họ càng hung hăng thực hiện mưu đồ
bành trướng, bá chủ toàn cầu. Đó là thách thức lớn đối với nước ta, nếu ta không quyết
tâm đổi mới và hoàn thiện thể chế, thực hiện đại đoàn kết toàn dân, để nền kinh tế tiếp
tục tụt hậu thì nguy cơ lệ thuộc là khó tránh khỏi.
2.3. Thực trạng phát triển kinh tế tri thức Việt Nam xét theo bốn trụ cột
Như đã biết, bốn trụ cột chính cần hình thành để một quốc gia chuyển sang nền kinh
tế tri thức là: giáo dục, mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, cơ sở hạ tầng thông tin và hệ
thống thể chế chính sách.

Căn cứ vào các chỉ số bình quân từ dữ liệu của 4 trụ cột này, WB đã đưa ra chỉ số
về kinh tế tri thức KEI ( Knowledge Economy Index) nhằm đánh giá sự chuẩn bị của một
đất nước để chuyển sang nền kinh tế tri thức. Tổng cộng có 81 tiêu chí được đưa ra so
sánh tương quan 132 quốc gia, với điểm số kém nhất là 0 điểm đến điểm số cao nhất là
10 điểm. Theo WB xếp hạng về chỉ số KEI, năm 2012 Việt Nam xếp thứ 104/146 nước
và vùng lãnh thổ, trong giai đoạn 2000-2012 tăng được 9 bậc so với năm 2000
(113/146), thuộc nhóm trung bình thấp (KEI 2-4). So với các nước tương đương trong
vùng, kinh tế tri thức của VN thấp nhất (Indonesia hạng 103, Philippines hạng 89, Thái
Lan 63, Malaysia 48 và Singapore hạng 19). Việt Nam thậm chí còn ở thứ hạng thấp hơn
cả bán đảo Fiji (hạng 86). Đây là bảng xếp hạng trong tình hình Philippines đã giảm 16
bậc, Indonesia giảm 2 và Thái Lan giảm 9 bậc.
Về giáo dục: nền giáo dục, đào tạo của nước ta đang chứa đựng nhiều vấn đề bức
xúc, bộc lộ những yếu kém dai dẳng trong nhiều năm chưa khắc phục được. Sự chậm đổi
mới trong phương pháp dạy và học, nội dung chương trình, các hiện tượng chạy theo
thành tích, dạy thêm học thêm tràn lan đã được bàn bạc, đề cập nhiều, nhưng chưa có
giải pháp hữu hiệu. Công tác xã hội hoá giáo dục diễn ra chậm, sự phân biệt đối với các
cơ sở giáo dục ngoài công lập góp phần kìm hãm sự phát triển giáo dục. Thực tế đó đã
ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực của Việt Nam, một nguồn nhân lực dồi dào về số
lượng lao động nhưng lại thiếu trầm trọng nguồn lao động có chất lượng. Trên thị trường
lao động Việt Nam đang rất thiếu các chuyên gia về quản trị kinh doanh, các lập trình
viên, kĩ thuật viên, các nhà quản lý trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu
cầu cơ bản về tiếng Anh, những công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi. Với thực trạng
yếu kém như vậy, rất khó có thể hình thành được ở Việt Nam một xã hội học tập và một
đội ngũ đông đảo các lao động tri thức.
Về mạng lưới trung tâm nghiên cứu, phát minh sáng chế: cho dù đã được cải thiện
nhưng Việt Nam vẫn có rất ít các phát minh sáng chế. Theo ý kiến của nhiều nhà khoa
học, năm 1973, 3 nước là Thái Lan, Singapore, Việt Nam có điểm xuất phát gần như
nhau, nhưng đến năm 2000, số công trình được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế
của Việt Nam chỉ bằng của Thái Lan và Singapore vào thời điểm năm 1980. Còn hiện
nay, Thái Lan nhiều hơn VN đến 5 lần, Singapore nhiều hơn 12,5 lần trong khi số lượng

các nhà khoa học ít hơn. Nếu để ý rằng Việt Nam có một đội ngũ hùng hậu với gần 2
triệu người làm khoa học công nghệ, hàng vạn thạc sĩ, tiến sĩ, gần 2000 giáo sư, gần 6000
phó giáo sư và hàng triệu cử nhân, kỹ sư thì mới thấy lĩnh vực phát minh sáng chế của
Việt Nam còn thua xa ngay cả so với các nước trong khu vực ASEAN.
Về công nghệ thông tin: một trong những chỉ số tăng mạnh nhất của Việt Nam trong
4 trụ cột của nền kinh tế tri thức là công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông, đạt 3,49
điểm (so sánh với điểm bình quân của thế giới là 6,0 điểm, Malaysia 7,3 điểm, Singapore
là 9,19 điểm). Tuy nhiên, vấn đề là lực lượng lao động CNTT của Việt Nam còn ít, chưa
có kinh nghiệm. Trong 40 triệu công nhân Việ Nam, chỉ có 20.000 lao động trong lĩnh
vực CNTT, trong khi chỉ có 3.500-4000 sinh viên tốt nghiệp với các bằng cấp CNTT
hàng năm. Ngoài ra, khu vực CNTT và truyền thông Việt Nam (ICT) tiếp tục phát triển
chậm nhất khu vực, chỉ số ICT của Việt Nam chỉ đạt 3,49 điểm so với 7,04 điểm của
Châu Á- Thái Bình Dương. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, mặc dù tốc độ phát
triển của CNTT và truyền thông của Việt Nam từ năm 2000 đến nay đều tăng ở mức 2
con số nhưng do điểm xuất phát thấp nên vị trí của Việt Nam trên bản đồ kinh tế tri thức
thế giới vẫn còn ở mức trung bình thấp, thậm chí có chỉ tiêu như sự sẵn sàng cho nền
kinh tế điện tử còn xếp gần cuối bảng trong số nhiều nước xếp hạng.
Về thể chế: Đại hội VI đề ra yêu cầu phải đổi mới đồng bộ, toàn diện, đổi mới kinh
tế trước, chính trị sau. Thế nhưng hệ thống chính trị rất chậm đổi mới (lẽ ra phải từ giữa
thập kỷ 90), quyền làm chủ của nhân dân còn bị hạn chế, khối đại đoàn kết toàn dân
chưa được phát huy, còn nhiều rào cản đối với các năng lực sản xuất và các quá trình đổi
mới sáng tạo. Đội ngũ trí thức nước ta đầy tâm huyết muốn được cống hiến góp phần đổi
mới đất nước theo kịp thời đại thì chưa được phát huy mạnh mẽ, tiềm năng trí tuệ dân tộc
bị lãng phí đáng kể.
Trong 4 trụ cột thì ở Việt Nam, thể chế và môi trường kinh doanh là kém nhất, đạt
2,8 điểm, đứng thứ 108/146 năm 2012; công nghệ thông tin khá nhất, từ 3,82 điểm, xếp
thứ 113/146 năm 2000 tăng lên 5,05 điểm, thứ 75/146 năm 2012. Như vậy, chỉ số KEI
của Việt Nam tăng là nhờ vào chỉ số về công nghệ thông tin.
Như vậy có thể thấy, trong những năm qua, Việt Nam đã rất cố gắng trong quá trình
phát triển kinh tế tri thức, tuy nhiên vẫn chưa thể ngang hàng với bạn bè quốc tế, trước

hết là trong khu vực Đông Nam Á. Vậy, làm thế nào để phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam? Câu trả lời là cần hoàn thiện bốn trụ cột cần có của một nền kinh tế tri thức, trong
đó, phải kể đến giáo dục như là một nhân tố hàng đầu. Chương 3 sẽ nêu rõ những giải
pháp để nâng cao chất lượng giáo dục trong nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Chương 3. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRONG NỀN KINH TẾ
TRI THỨC
Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta không có nghĩa là chuyển sang các ngành công
nghệ cao để đạt được cơ cấu kinh tế như các nước đã phát triển mà là thực thi phát triển
dựa vào tri thức, là vận dụng tri thức vào tất cả các ngành kinh tế, làm gia tăng nhanh giá
trị của các sản phẩm, dịch chuyển nhanh kinh tế theo hướng hiện đại hóa. ếu tố then chốt
cho sự thành công này là phát huy năng lực sáng tạo và đổi mới hệ thống. Để phát triển
kinh tế tri thức ở nước ta, phải tiến hành đồng thời và lồng ghép 2 quá trình: quá trình
chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và quá trình chuyển từ nền
kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Trong khi đối với các nước đi trước đây là
2 quá trình liên tiếp nhau thì đối với nước ta phải kết hợp các bước đi tuần tự và nhảy vọt.
Một mặt tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới
để phát triển sản xuất tạo việc làm, tăng thu nhập. Mặc khác, đi thẳng hiện đại vào các
khâu, những lĩnh vực, những ngành có lợi thế, phát triển các ngành, các vùng kinh tế có
mũi nhọn tạo thành đoàn tàu có sức lôi kéo cả nền kinh tế đi lên. Do đó, để thực hiện tốt
các nhiệm vụ trên, cần đánh giá và xác định đúng vai trò của giáo dục đối với phát triển
nền kinh tế tri thức để từ đó, nhóm chúng tôi xây dựng các giải pháp sau:
3.1. Đổi mới mô hình giáo dục đào tạo theo hướng hiện đại
3.1.1. Mục tiêu giáo dục
Đầu tiên, chúng ta cần phải đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của
chương trình giáo dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo hướng phát triển
phẩm chất và năng lực người học hơn nữa. Nội dung giáo dục đổi mới theo hướng tinh
giản, cơ bản, hiện đại, giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành, vận dụng kiến thức và kỹ
năng vào thực tiễn. Đa dạng hóa nội dung giáo dục nghề nghiệp theo hướng tích hợp kiến
thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học. Đổi mới nội dung
giáo dục đại học theo hướng cơ bản, tích hợp các lĩnh vực kiến thức, kỹ năng và hiểu biết

xã hội, tiếp cận thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến trên thế giới. Dạy học ngoại ngữ
và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng thực tế của người
học. Phát triển đa dạng nội dung, tài liệu học tập đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của
mọi người.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng khắc phục
lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo, vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học, tập trung dạy cách học, cách nghĩ và tự
học, theo phương châm “giảng ít, học nhiều”. Chuyển quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo. Bồi dưỡng khát vọng học tập suốt đời.
Thứ ba, chuyển từ chủ yếu thực hiện chương trình giáo dục trên lớp học sang tổ
chức đa dạng các hình thức thực hiện chương trình giáo dục, tăng cường các hoạt động
xã hội, nghiên cứu khoa học của người học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học, tăng cường áp dụng hình thức giáo dục từ xa có chất
lượng cao.
3.1.2. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả
Bên cạnh việc chuyển hướng mục tiêu giáo dục, cần phải đổi mới hình thức và
phương pháp kiểm tra, thi và đánh giá chất lượng giáo dục, bảo đảm trung thực, khách
quan, chính xác, theo yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất người học.
Nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục cần phải chú trọng
đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các vấn đề trong học
tập và thực tiễn. Hạn chế yêu cầu ghi nhớ máy móc, “học tủ”. Đánh giá đồng thời được
sự tiến bộ về phẩm chất và cả năng lực của người học.
Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng
kiểm tra năng lực học sinh, thiết thực, hiệu quả, tin cậy, sử dụng được kết quả công nhận
tốt nghiệp trung học phổ thông làm căn cứ cho tuyển sinh của nhiều cơ sở giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học.
Ngoài việc đánh giá kết quả học tập của người học, cần tiến hành các hình thức
đánh giá chất lượng giáo dục cả nước, từng địa phương, từng cơ sở giáo dục. Thực hiện
các kỳ đánh giá quốc gia chất lượng giáo dục phổ thông và tham gia đánh giá quốc tế để
làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục.

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục của Nhà nước, của xã
hội. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và các chương trình đào
tạo, công khai kết quả kiểm định trước xã hội.
3.2. Điều chỉnh cơ cấu giáo dục, đào tạo phù hợp với sự phát triển kinh tế xã
hội
Ngày nay với sự phát triển của kinh tế nước ta, tình trạng đào tạo giáo dục của các
trường cao đẳng, đại học, chỉ chạy theo lợi nhuận của mình, mở hàng loạt các ngành
nghề, lĩnh vực đào tạo, làm mất cân đối giữa các ngành nghề, các cấp đào tạo cũng như
ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng giáo dục. Vì thế nhà nước cần có chính sách điều chỉnh
giáo dục, đào tạo hợp lý để khắc phục tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, thay thế quan
niệm đào tạo theo nhu cầu người học bằng đào tạo theo nhu cầu xã hội. Xây dựng các mô
hình dự báo nhu cầu nghề nghiệp của xã hội trong tương lai để có kế hoạch đào tạo sao
cho phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, tránh gây tình trạng dư thừa nguồn
lực lãng phí.
Chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng rèn luyện
phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, thích nghi sự
phát triển. Chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống sang mô hình giáo dục mới: hệ
thống học tập suốt đời, phát triển nghề nghiệp liên tục, theo đó nhà trường đào tạo những
kĩ năng cơ bản để người học ra trường vừa học tập vừa lao động suốt đời. Phát triển hệ
thống học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
bồi dưỡng nhân lực cho công nghiêp hóa, hiện đại hóa rút ngắn dựa vào tri thức. Xã hội
hóa học tập và xã hội hóa thông tin là tiền đề cho nền kinh tế tri thức.
3.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên theo hướng khắc phục tình trạng
phân tán, hình thành các trường sư phạm khu vực. Các trường sư phạm chỉ làm nhiệm vụ
đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và nghiên cứu khoa học. Không
giao nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đối với một số cơ sở đào tạo sư phạm hiện
nay nếu xét thấy không còn phù hợp. Tập trung xây dựng một số trường sư phạm, sư

×