Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Tính lịch sự của lời đề nghị và hồi đáp lời đề nghị trong một số tác phẩm văn học việt nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.56 KB, 101 trang )

q

BỘ GIÁO DỤC VÀ TẠO ĐẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
--------

ĐOÀN VN T

TíNH LịCH Sự CủA LờI Đề NGHị Và HồI ĐáP LờI Đề NGHị
TRONG MộT Số TáC PHẩM VĂN HọC VIệT NAM HIệN ĐạI
Chuyờn ngnh: Ngụn ng Vit Nam
Mó s: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS Đặng Thị Hảo Tâm
2. TS. Vũ Tiến Dũng

SƠN LA - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả

Đồn Văn Đạt




Lời cảm ơn
Vi lũng bit n sõu sc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đặng Thị
Hảo Tâm, TS. Vũ Tiến Dũng đã tận tình hướng dẫn và tạo những điều kiện tốt
nhất giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô phản biện đã đọc và có những
nhận xét quý báu cho bản luận văn.
Em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô trong Khoa
Ngữ văn – Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu để hồn thành khố học.
Sơn La, tháng 12 năm 2015
Tác giả

Đoàn Vãn Đạt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
4. Mục đích, nhiệm vụ, ý nghĩa của đề tài ........................................................ 8
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu................................................. 9
6. Cấu trúc của đề tài ....................................................................................... 10
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................. 11
1.1. Lí thuyết hành động ngơn ngữ .............................................................. 11
1.1.1. Lí thuyết hành động ngơn ngữ của Austin ........................................ 13
1.1.2. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ của Searle .................................... 24
1.2. Lí thuyết hội thoại .................................................................................. 26

1.2.1. Khái niệm cuộc thoại ........................................................................ 28
1.2.2. Những đặc điểm khái quát về cuộc hội thoại.................................... 28
1.3. Lí thuyết lịch sự ...................................................................................... 33
1.3.1. Quan điểm lịch sự của R.Lakoff ....................................................... 34
1.3.2. Quan điểm lịch sự của Leech ............................................................ 37
1.3.3. Quan điểm của Brown và Levinson về lịch sự ................................. 39
1.3.4. Quan điểm về lịch sự của các nhà nghiên cứu phương Đông........... 40
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 43
Chƣơng 2: HÀNH ĐỘNG ĐỀ NGHỊ VÀ LỊCH SỰ CỦA HÀNH
ĐỘNG ĐỀ NGHỊ........................................................................................... 45
2.1. Hành động đề nghị ................................................................................. 45
2.1.1. Hành động cầu khiến......................................................................... 45
2.1.2. Hành động đề nghị ............................................................................ 46
2.1.3. Nhận diện lời đề nghị ........................................................................ 49
2.1.4. Các kiểu hành động đề nghị .............................................................. 51


2.2. Lịch sự của một số hành động đề nghị trong giao tiếp tiếng Việt . 55
2.2.1. Văn hóa giao tiếp và lịch sự trong văn hóa giao tiếp ........................ 55
2.2.2. Các cách diễn đạt tình thái cơ bản trong lời đề nghị của tiếng Việt . 57
2.2.3. Các yếu tố ngơn ngữ diễn đạt tính lịch sự của lời đề nghị trong
giao tiếp tiếng Việt ...................................................................................... 58
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 72
Chƣơng 3: HỒI ĐÁP LỜI ĐỀ NGHỊ VỚI TÍNH LỊCH SỰ TRONG
GIAO TIẾP .................................................................................................... 73
3.1. Chấp thuận lời đề nghị .......................................................................... 73
3.1.1. Chấp thuận lời đề nghị bằng cách nói giảm ...................................... 76
3.1.2. Chấp thuận lời đề nghị bằng ngôn ngữ trực tiếp............................... 77
3.2. Từ chối lời đề nghị.................................................................................. 78
3.2.1. Từ chối bằng lời ................................................................................ 81

3.2.2. Từ chối phi lời ................................................................................... 88
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 89
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1:

Phân chia hành động cầu khiến theo lực ngôn trung ................ 46

Bảng 2.2:

Khảo sát từ xưng hô trong lời đề nghị ...................................... 64


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Có thể nói, xã hội ngày nay là một xã hội phát triển và chuyển động
khơng ngừng, với tình hình thực tế đặt ra thách thức cũng như cơ hội đối với
mỗi quốc gia, dân tộc, và bản thân mỗi người chúng ta. Chính vì vậy, quan hệ
ngoại giao, nhu cầu giao tiếp của con người được mở rộng trên nhiều lĩnh
vực. Giao tiếp là hoạt động liên cá nhân nhằm trao đổi thông tin, nhận thức, tư
tưởng, tình cảm giữa các thành viên trong cộng đồng xã hội. Hoạt động giao
tiếp có thể tiến hành bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Tuy
nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng giao tiếp bằng ngôn ngữ là cơ bản và
quan trọng nhất. Vai trị quan trọng của chức năng giao tiếp bằng ngơn ngữ
ngày càng được nhận thức đầy đủ trong giới ngôn ngữ học và các giới nghiên
cứu hữu quan. Bên cạnh đó, việc giảng dạy ngơn ngữ theo quan điểm giao

tiếp đang trở thành một đòi hỏi thực tế ngày càng gia tăng. Do đó việc nghiên
cứu lời nói trong giao tiếp trở thành một nhu cầu hết sức quan trọng, đơi khi
có vai trị quyết định trong các hoạt động.
Lịch sự đã có từ rất lâu đời và được biểu hiện trong nhiều ngơn ngữ, ở
nhiều nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, phải đến năm 1870 với các cơng
trình nghiên cứu của N.Boston và J.C.Lock, thì tính lịch sự (politeness) mới
được xem như là một khái niệm đáng được quan tâm. Từ đó về sau, nó trở
thành đối tượng thu hút sự quan tâm của ngữ dụng học nói riêng và ngơn ngữ
học nói chung.
Lịch sự theo các nhà nghiên cứu phương Tây được hiểu là có tính chiến
lược, tức là trong giao tiếp người ta phải vận dụng đến các chiến lược lịch sự
trong ứng xử ngôn ngữ như tế nhị, khéo léo, tránh xung đột, va chạm hay áp
đặt đối với người đối thoại, đồng thời làm gia tăng sự hài lịng của họ, nhờ đó
mà nâng cao hiệu quả giao tiếp. Lịch sự theo quan niệm của người phương

1


Đông lại được coi như những chuẩn mực xã hội, chịu áp lực mạnh của những
quy tắc trong tương tác, còn được gọi là “lịch sự lễ độ”. Một số nhà nghiên
cứu lại coi lịch sự là sự dung hợp của các chuẩn mực xã hội và những chiến
lược mang tính cá nhân.
Lời đề nghị tồn tại trong các nền văn hóa khác nhau và ở các ngơn ngữ.
Nó được thực hiện với nhiều mục đích khác nhau như: yêu cầu, nhờ, ra lệnh...
nhưng vấn đề là đề nghị như thế nào, đề nghị ra sao để cho người tiếp nhận
lời đề nghị cảm thấy vui vẻ và nếu người tiếp nhận từ chối thì từ chối như thế
nào cho hợp lí, khơng mất lịng người khác cũng là vấn đề đặt ra. Cách thức
sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp đối với mỗi cộng đồng dân tộc ln có sự
khác nhau, và ngay cả mỗi dân tộc thì từng cá nhân trong giao tiếp cũng có sự
khác nhau do mối quan hệ về lứa tuổi, họ hàng, vị trí xã hội quy định... Điều

đó tạo nên những nét đặc trưng văn hóa ứng xử cũng như các nét bản sắc
riêng của mỗi dân tộc, của mỗi cá nhân. Trong giao tiếp, người Việt cũng có
những nét đặc trưng riêng, tạo nên bản sắc văn hóa trong ứng xử mà khó có
thể bắt gặp ở một cộng đồng ngơn ngữ khác.
Việc nghiên cứu lời đề nghị, và hồi đáp lời đề nghị trong một số tác
phẩm văn học sẽ không chỉ giúp việc giảng dạy một số tác phẩm văn học hiệu
quả hơn mà còn giúp người dạy hiểu rõ hơn về sắc thái trong từng lời đề nghị
và hồi đáp lời đề nghị một cách lịch sự, có văn hóa.
Giới nghiên cứu ngơn ngữ học đã quan tâm nhiều tới giao tiếp lời nói ở
một số hành động ngơn ngữ như: Chào hỏi, mời, xin lỗi, cảm ơn, cầu khiến...
với các mức độ khác nhau và tiếp cận nó ở nhiều phương diện khác nhau. Các
phương diện đó có thể là các hình thức xưng hơ, các hành động ngôn ngữ trực
tiếp và gián tiếp, mối quan hệ giữa giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác với hành
động ngơn ngữ... Tuy nhiên, tính lịch sự của các hành động ngơn ngữ đặc biệt
lịch sự của lời đề nghị và hồi đáp lời đề nghị cũng là một nội dung quan

2


trọng, thể hiện văn hóa giao tiếp của mỗi người cũng chưa được quan tâm
nghiên cứu thích đáng.
Khi mỗi cá nhân đưa ra một lời đề nghị nào đó đối với cá nhân hoặc tổ
chức, tức là người đề nghị đã đặt cá nhân hoặc tổ chức đó có trách nhiệm phải
giải quyết các nội dung nêu ra trong lời đề nghị. Việc đáp ứng hay không đáp
ứng được yêu cầu của người đề nghị còn lệ thuộc vào điều kiện, khả năng và
thái độ của người tiếp nhận lời đề nghị đó. Cách thức đề nghị và cách thức
tiếp nhận lời đề nghị nhằm làm hài lòng cả người người nói và người nghe
trong mỗi cuộc thoại để cuộc giao tiếp đạt được hiệu quả như mong muốn là
vấn đề đặt ra.
Đây chính là một trong những lí do chính yếu giúp chúng tơi mạnh dạn

lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Tính lịch sự của lời đề nghị và hồi đáp lời
đề nghị trong một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại”.
2. Lịch sử vấn đề
Ngôn ngữ và văn hóa có mối liên hệ mật thiết với nhau, khơng ai có thể
phủ nhận những mối quan hệ khăng khít khơng thể tách rời (có thể ví ngơn
ngữ và văn hóa như hai mặt của một tờ giấy, xé mặt này không thể không xé
mặt kia). Mỗi một ngơn ngữ lại mang trong mình những đặc trưng văn hóa
riêng biệt của chính mình và chúng được phản ánh vào ngôn ngữ bằng những
cách khác nhau cả về chất lượng, nội dung và hình thức. Chính vì văn hóa và
ngơn ngữ khơng thể tách rời nhau mà có thể thấy ngôn ngữ vừa là một bộ
phận cấu thành văn hóa, vừa là phương tiện để thể hiện, lưu trữ, và truyền bá
văn hóa.
Định nghĩa về văn hóa đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau. Lúc sinh
thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn về văn hóa một cách khá rõ ràng và đầy đủ,
và theo Người thì: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,

3


khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa” [3].
Có thể thấy ngơn ngữ là một bộ phận của văn hóa và đồng thời cũng
phản ánh văn hóa sâu sắc nhất. Clyne (1994) nhận xét: “Ngôn ngữ là sự thể
hiện sâu sắc nhất một nền văn hóa, hệ thống giá trị bao gồm cả những giá trị
thừa hưởng từ cộng đồng và có một vai trị lớn tác động đến cách thức sử
dụng không chỉ ngôn ngữ thứ nhất mà cả ngôn ngữ được tiếp thụ sau đó”.
Hay nói một cách nơm na thì “Văn hóa qui định cái chúng ta nói, nói với ai
và nói như thế nào…” (Dẫn theo [19]).

Con người sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ suy nghĩ, mong muốn của mình
tới người nghe. Qua đó, chúng ta khơng chỉ thu nhận được thơng tin đơn
thuần mà cịn biết được tâm tư, tình cảm của người nói. Ngơn ngữ với chức
năng giao tiếp của mình cịn có vai trị trong hình thành và duy trì mối quan
hệ giữa con người với con người trong xã hội. Ngược lại văn hóa “in đậm”
vào ngơn ngữ, nó chi phối cách sinh hoạt, ứng xử, giao tiếp của mỗi người
trong cộng đồng. Bởi vậy không thể tách rời ngôn ngữ và văn hóa.
Ngày nay, lịch sự được nhiều người quan tâm và có một vị trí rõ nét
trong giao tiếp. Do vậy nó có mối quan hệ qua lại mật thiết với ngơn ngữ và
văn hóa và là cái đích chúng ta cần hướng tới. Nhờ lịch sự trong giao tiếp,
chúng ta có thể đạt được những điều chúng ta mong muốn một cách tốt nhất.
Vấn đề lịch sự trong giao tiếp từ lâu đã được các nhà nghiên cứu trong và
ngồi nước đề cập đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu về ngữ dụng học.
Xuất phát từ những nguồn cứ liệu khác nhau thuộc các dân tộc khác
nhau, ngày nay trên thế giới đang tồn tại ba khuynh hướng chính nghiên cứu
về lịch sự:

4


Khuynh hướng thứ nhất coi lịch sự là một phổ niệm, tức là một khái
niệm có tính phổ qt và là chiến lược lựa chọn của các cá nhân trong tương
tác xã hội. Những người đại diện và bảo vệ cho khuynh hướng này là các nhà
nghiên cứu Âu-Mĩ, tiêu biểu là R.Lakoff, G.N.Leech, Brown và Levinson,
J.Thomas, G.M.Green...
R.Lakoff (1973) cho rằng “Lịch sự là một thiết bị được sử dụng để
giảm bớt trở ngại trong sự tương tác giữa các cá thể” (Dẫn theo [14]).
R.Lakoff đề xuất ba quy tắc lịch sự gắn với từng bối cảnh giao tiếp cụ thể để
người nói có thể lựa chọn và sử dụng sao cho phù hợp. Lakoff đã chỉ ra được
phương thức chung nhất để đạt được tính lịch sự trong giao tiếp. Nhưng

những cách thức chung nhất đó chưa được cụ thể hoá bằng những chiến lược
cụ thể. So với các quy tắc của Lakoff, mơ hình lịch sự của Leech chi tiết hơn.
Lí thuyết lịch sự của Leech dựa trên khái niệm “thiệt” (sost) và “lợi” (benefit)
giữa người nói và người nghe do ngôn từ gây nên. Leech cho rằng lịch sự là
sự bù đắp cho những hao tổn, thiệt thịi do hành động nói năng của người nói
gây ra cho người đối thoại. Để có một phát ngơn lịch sự, cần phải điều chỉnh
mức lợi - thiệt nhằm đảm bảo sự cân bằng trong tương tác liên nhân. Nói cách
khác, lịch sự là sự bảo toàn sự cân bằng xã hội và tình thân giữa người nói và
người nghe. Leech đã cụ thể hóa nguyên tắc lịch sự của mình trong sáu
phương châm. Leech khẳng định rằng, trong hoạt động giao tiếp, một hành
động được coi là lịch sự hay không lịch sự là tùy thuộc vào phát ngôn cụ thể
gắn với một tình huống giao tiếp cụ thể nào đó. Mặt khác, cũng theo Leech,
có những hành động ngơn ngữ có bản chất khơng lịch sự như hành động sai
bảo, ra lệnh và đồng thời có những hành động có bản chất lịch sự như khen
tặng. Mơ hình của Leech đã được đề xuất được đo mức lợi - thiệt, đo mức
gián tiếp và đo khoảng cách xã hội cho phương châm khéo léo nhưng lại chưa
có thang độ xác định cho các phương châm còn lại, đây là một khoảng trống
cần được tiếp tục nghiên cứu.

5


Brown và Levinson (1978/1987) lại lấy điểm tựa là khái niệm “thể
diện” (face) làm cơ sở để xây dựng lí thuyết về lịch sự với cách hiểu “thể diện
là hình ảnh của bản thân trước công chúng” (pubic self image). Trong nghiên
cứu về lịch sự với điểm tựa là khái niệm “thể diện”, Brown và Levinson đã
đưa ra một cặp lưỡng phân quan trọng, xuyên suốt toàn bộ các kết quả nghiên
cứu. Đó là sự đối lập và thống nhất giữa thể diện dương tính (positive face) và
thể diện âm tính (negative face). Trong tương tác bằng ngơn ngữ, hầu hết các
hành động ngôn ngữ đều tiềm tàng khả năng gây tổn hại đến thể diện của

chính người nói và của người nhận. Do vậy, để giữ thể diện cho cả người
nhận và người nói, người nói ln phải tìm cách làm dịu nguy cơ đe dọa thể
diện rằng các hành động giữ thể diện. Theo Brown và Levinson, hành động
lịch sự là hành động thể hiện ý thức về thể diện của người khác và thể diện
của cả chính mình. Nói cách khác, lịch sự là chiến lược nhằm sửa đổi, giảm
thiểu mức độ mất thể diện đã hoặc sẽ xảy ra trong hoạt động giao tiếp của con
người. Quan điểm lịch sự của hai tác giả này được xem là nhất quán, có ảnh
hưởng rộng rãi nhất, có hiệu quả nhất đối với việc nghiên cứu về phép lịch sự.
Các nhà nghiên cứu khác như K.Orecchioni, J.Thomas, G.M.Green,
G.Yule... cũng đồng quan điểm cho rằng lịch sự là một khái niệm mang tính phổ
quát, mang tính chiến lược, là sự lựa chọn của cá nhân trong tương tác xã hội.
Khuynh hướng thứ hai xuất phát từ nền văn hóa phương Đơng thì cho
rằng lịch sự mang tính chuẩn mực xã hội. Gu, Matsumoto... cho rằng quan
niệm về lịch sự của người phương Tây, nhất là khái niệm về thể diện và lịch sự
của Brown và Levinson không phản ánh đúng quan niệm về thể diện và lịch sự
với các nước thuộc nền văn hóa phương Đơng như Trung Quốc, Nhật Bản.
Theo các tác giả này, lịch sự phải gắn với các giá trị thuộc về chuẩn mực giao
tiếp của cộng đồng xã hội, bị chi phối bởi các chuẩn mực ấy hơn là những ý
muốn về tự do lựa chọn chiến lược của cá nhân trong giao tiếp. Lịch sự theo

6


tiêu chuẩn này được gọi là lịch sự chuẩn mực, tức là những quy tắc ứng xử
ngôn ngữ phù hợp với chuẩn mực xã hội của các cá nhân trong giao tiếp.
Khuynh hướng thứ ba quan niệm lịch sự là sự kết hợp hài hòa của cả
hai khuynh hướng trên, tức là coi lịch sự vừa mang tính chiến lược, lại vừa
chịu áp lực của chuẩn mực xã hội. Đại diện cho khuynh hướng này là hai tác
giả lớn Hill và Kasper.
Ở Việt Nam, các tác giả Nguyễn Văn Khang (1966), Bùi Minh Yến

(1966), Vũ Thị Thanh Hương (1999), Nguyễn Thị Thanh Bình (2000), Vũ
Tiến Dũng (2003)... cũng đều cho rằng có sự khác biệt nhất định trong việc
ứng xử lịch sự. Những khác biệt này được làm rõ thông qua các hành động
giao tiếp cụ thể. Bên cạnh đó, hai tác giả Vũ Thị Thanh Hương và Vũ Tiến
Dũng còn đưa ra được những kết luận về nội dung của lịch sự theo quan niệm
của người Việt, đó là quan niệm coi lịch sự vừa là chiến lược của cá nhân,
vừa là chuẩn mực xã hội trong tương tác.
Văn học chính là bức tranh phản ánh hiện thực, hiện thực cuộc sống
luôn đặt con người vào mối quan hệ qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó,
lời đề nghị luôn là một phần trong hoạt động giao tiếp, và lời đề nghị cũng
xuất hiện khá thường xuyên trong các lời đối thoại của các nhân vật trong các
tác phẩm văn chương. Lời đề nghị và hồi đáp lời đề nghị trong giao tiếp nói
chung và trong các tác phẩm văn học nói riêng mới được một số tác giả đề
cập đến. Đặc biệt, hành động đề nghị và cách thức tiếp nhận lời đề nghị trong
một số tác phẩm văn học thì hầu như chưa có tác giả nào đề cập. Đây chính là
một "khoảng trống" trong khoa học để giúp chúng tơi có thể tiến hành nghiên
cứu đề tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là tính lịch sự của lời đề nghị
và hồi đáp lời đề nghị trong một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại.

7


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu chỉ hạn chế trong các số liệu
thống kê về tính lịch sự của lời đề nghị và hồi đáp lời đề nghị trong lời thoại
của các nhân vật trong một số tác phẩm văn chương. Bên cạnh đó, luận văn
cũng tập trung phân biệt các hành động ngơn ngữ có nội dung ý nghĩa gần gũi

với hành động đề nghị, và tập trung làm rõ trong các hồn cảnh, vị trí xã hội,
các vai xã hội ... sử dụng lời đề nghị như thế nào trong tương tác xã hội.
Nguồn ngữ liệu trong luận văn chủ yếu tập trung vào lời đề nghị và
cách thức hồi đáp lời đề nghị trong một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện
đại.
4. Mục đích, nhiệm vụ, ý nghĩa của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được tìm hiểu lí thuyết, xây dựng tiêu chí về hành động đề
nghị, tìm hiểu các yếu tố ngơn ngữ (và có thể bao gồm cả yếu tố kèm lời) diễn
đạt tính lịch sự của hành động đề nghị, cách thức tiếp nhận hành động đề nghị
trong một số tác phẩm văn học.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt tới mục đích như đã trình bày, luận văn hướng tới những
nhiệm vụ cụ thể sau:
Giới thiệu một số quan điểm khác nhau về lịch sự của các nhà nghiên
cứu về lịch sự trên thế giới và ở Việt Nam, và cách nhìn về tính lịch sự riêng
trong tiếng Việt, nghiên cứu lí thuyết hội thoại, nghiên cứu lí thuyết về hành
động ngơn ngữ.
Nghiên cứu lời đề nghị và hồi đáp lời đề nghị trong một số tác phẩm
văn học.
Tìm hiểu lí thuyết lịch sự và phân tích lời đề nghị trong mối quan hệ
với lịch sự trong tương tác.

8


4.3. Ý nghĩa luận văn
4.3.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn sơ bộ tổng kết một cách có hệ thống những thành tựu đã đạt
được trong nghiên cứu về tính lịch sự của một số hành động ngôn ngữ và lịch

sự trong giao tiếp tiếng Việt.
Xác định mối quan hệ giữa tính lịch sự của lời đề nghị và cách thức hồi
đáp lời đề nghị trong một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại.
4.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn, nếu có tính khả chấp sẽ góp
một phần giúp cho những người dạy và học tiếng Việt có thêm những tư liệu
về phân tích lời đề nghị trong một số tác phẩm văn chương, thấy được các sắc
thái biểu cảm qua ngôn từ của những lời đề nghị đó. Bên cạnh đó, luận văn
cịn góp phần bổ sung thêm một số cách thức tiếp nhận lời đề nghị trong một
số tác phẩm văn học, để từ đó khai thác có hiệu quả các yếu tố ngơn ngữ diễn
đạt tính lịch sự về hồi đáp lời đề nghị trong một số tác phẩm văn chương và
trong giao tiếp tiếng Việt. Luận văn cịn góp phần tạo dựng mối quan tâm
chung trong nghiên cứu giao tiếp lời nói tiếng Việt.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên một số phương pháp như: phương
pháp mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu... các nhận định, đánh giá
được rút ra trong luận văn chủ yếu là từ việc phân tích số liệu thống kê (qua
câu hỏi khảo sát) và nguồn tư liệu bản thân người viết thu
thập được trong thực tế giao tiếp và văn học.
Phương pháp chủ đạo được sử dụng trong luận văn là phương pháp mơ
tả, phân tích. Đây là phương pháp được thực hiện trong sự mơ tả, phân tích lí

9


thuyết đã có, đặc biệt quan trọng là phân tích nguồn ngữ liệu thu thập được và
từ đó đưa ra các đánh giá, kết luận.
Ngoài phương pháp chủ đạo là phương pháp mơ tả, phân tích, tác giả
luận văn cịn sử dụng một số phương pháp tiếp cận khác là: phương pháp

thống kê, phương pháp tổng hợp. Phương pháp thống kê được thực hiện trên
cơ sở thống kê các câu hỏi khảo sát, đây là căn cứ thực tiễn giúp đề tài mang
tính khách quan và thuyết phục. Phương pháp miêu tả được thực hiện để miêu
tả các cách thức, các chiến lược đề nghị trong và tiếp nhận lời đề nghị để có
thể đi đến những kết luận có giá trị khoa học vững chắc.
5.2. Nguồn ngữ liệu
Để có cơ sở cho việc nghiên cứu, luận văn sử dụng các ngữ liệu sau:
Các số liệu đã được thu thập và phân tích từ hệ thống câu hỏi khảo sát.
Tư liệu được thu thập từ sự quan sát và ghi chép của cá nhân về cách thức đề
nghị và tiếp nhận lời đề nghị trong một số tác phẩm văn chương Việt Nam
hiện đại. Trong thực tế, lời thoại trong các tác phẩm văn học đã được gọt giũa
so với lời thoại tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày theo ý đồ của nhà văn
nhưng chúng vẫn không mất đi các chức năng (giao tiếp lí trí, cảm xúc) và các
đặc trưng (tính cá thể, tính cụ thể, tính cảm xúc) của phong cách sinh hoạt
hằng ngày dưới cách nhìn của phong cách chức năng. Do đó, các lời thoại của
ngôn ngữ tự nhiên và các lời thoại trong các tác phẩm văn học được sử dụng
phân tích đều đáng tin cậy về mặt khoa học.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3
chương, cụ thể như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết
Chƣơng 2: Hành động đề nghị và lịch sự của hành động đề nghị
Chƣơng 3: Hồi đáp lời đề nghị với tính lịch sự trong giao tiếp

10


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Trong xã hội ngày nay, lịch sự đã trở thành mối quan tâm lớn và

thường xuyên của ngữ dụng học. Nhiều nhà nghiên cứu Âu - Mĩ đã xây dựng
một số quan điểm tương đối hoàn chỉnh về lịch sự, nâng những vấn đề thực
tiễn trong giao tiếp lịch sự lên thành “lí thuyết lịch sự” (theory of politeness)
theo đúng nghĩa của tên gọi này.
Nói năng là một dạng hoạt động mà phương tiện là ngôn ngữ. Do đó nó
cũng chịu sự chi phối của những quy tắc chung trong hoạt động. Có hai kiểu
hoạt động bằng phương tiện ngôn ngữ:
- Hoạt động đơn phương là hoạt động một mình, cá thể. Nói một mình
là hoạt động đơn phương (độc thoại);
- Hoạt động xã hội là hoạt động địi hỏi có sự cộng tác của người khác.
Nói năng với người khác, đó là hội thoại.
J. L Austin – một nhà triết học người Anh là một trong những người
khởi xướng quan điểm về hành động ngôn ngữ (speech act). Khi nói năng,
con người thực hiện hành động bằng phương tiện ngơn ngữ. Nói một mình
như tự than thở là hành động đơn phương, cịn nói với người khác trong cuộc
hội thoại là hành động xã hội.
1.1. Lí thuyết hành động ngơn ngữ
Hành động (hay cịn gọi là hành vi) là tồn bộ nói chung các phản ứng,
cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể, xác
định [26].
Trong cuộc sống hàng ngày, dưới sự điều khiển của tư duy, con người
có hai loại hành động dễ thấy là nói (Speak) và làm (Do). Thông thường,
người ta hay đối lập giữa nói và làm, thậm chí người Việt chúng ta cịn quan

11


niệm giữa nói và làm là hai phạm trù khác hẳn nhau. Làm là một phạm trù
thực tế cịn nói chỉ dùng ngôn ngữ để biểu hiện diễn tả thông báo cái gì đó.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nói cũng là một hoạt động. Hoạt động lời nói là

một phần một dạng trong hoạt động sống của con người. Tư tưởng này đã
được Hegel đề cập tới từ lâu. Ông viết: "Lời nói thực chất là những hoạt động
diễn ra giữa những con người, cho nên nó khơng phải là trống rỗng" (Dẫn
theo [17]).
Tuy nhiên, phải đợi mãi tới năm 1955, tại Trường Đại học Tổng hợp
Harvard, J.L.Austin - một nhà triết học người Anh đã trình bày 12 chuyên đề,
những chuyên đề này vào năm 1962 được tập hợp lại xuất bản thành sách với
nhan đề: How to do things with words (tạm dịch là: Người ta hành động như
thế nào bằng lời nói) để kỉ niệm hai năm ngày mất của ông. Trong cuốn sách
này, J.L.Austin đề cập tới nhiều vấn đề trong đó có lý thuyết về hành động
ngôn ngữ (Speech act theory). Hiện nay ở Việt Nam, cụm từ: speech act có
khá nhiều cách dịch khác nhau như: Hành động ngơn ngữ, hành động nói,
hành động ngôn từ, hành động phát ngôn... Chúng tôi chỉ nêu ra các cách
dịch của các nhà nghiên cứu, chứ khơng bình luận. Bắt đầu từ tư tưởng của
J.L.Austin và sau này được hoàn chỉnh bởi J.Searle (1969) đã đi sâu nghiên
cứu lí thuyết hành động ngơn ngữ, một lí thuyết làm xương sống cho ngành
ngữ dụng học. Hai ông cho rằng ngôn ngữ không chỉ được dùng để thông báo,
miêu tả cái gì đó mà nó thường được dùng để làm một cái gì đó, để thể hiện
các hành động. Hành động ngơn ngữ chính là ý định và chức năng của một
phát ngôn trong hoạt động giao tiếp của con người.
Khái niệm về hành động ngôn ngữ được hiểu khi chúng ta nói năng tức
là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một hành động đặc biệt mà phương
tiện ngơn ngữ. Đó là hành động ngơn ngữ.
Như chúng ta đã biết nói năng là hành động. Hành động nói là hành

12


động được thực hiện bằng lời nói khi nói. Khi gặp một người quen, ta nói:
chào anh, chào chị, tức là chúng ta thực hiện hành động chào. Khi ta cảm ơn,

xin lỗi, sai khiến là chúng thực hiện hành động cảm ơn, xin lỗi, sai khiến...
Trong đời sống giao tiếp, chúng ta có thể nói (hoặc viết) nhằm những đích
nhất định: khuyên, hỏi, trần thuật, sai khiến, xin, hứa, mời, chào, xin lỗi, cảm
ơn, giải thích, phàn nàn...
1.1.1. Lí thuyết hành động ngơn ngữ của Austin
J.L.Austin cho rằng có ba loại hành động ngôn ngữ lớn: hành động tạo
lời (Locutinonary act), hành động tại lời (Illocutionary act) và hành động
mượn lời (Perlocutionary act).
Hiện nay ở Việt Nam, chúng ta thấy có một số cách dịch khác nhau.
Đáng chú ý là các cách dịch cụm từ: Locutinonary act (hành động tạo lời,
hành động tại lời, hành động tạo ngôn); Illocutionary act (hành động ngoài
lời, hành động ở lời, hành động trong lời, hành động tại lời, hành động ngôn
trung); Perlocutionary act (hành động mượn lời, hành động sau lời, hành động
xuyên ngôn).
1.1.1.1. Hành động tại lời
Hành động tại lời (hành động ngơn trung) là hành động mà đích của nó
nằm ngay trong việc tạo nên phát ngơn được nói (viết) ra. Chính cái đích này
phân biệt các hành động tại lời với nhau. Đó là những hành động người nói
thực hiện ngay khi nói năng. Hành động tại lời được thực hiện nhờ hiệu lực
giao tiếp của phát ngôn. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngơn
ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở
người nhận. Chẳng hạn, khi ta hỏi có đích là bày tỏ mong muốn được giải đáp
điều mà ta chưa biết hoặc cịn hồi nghi và mong được người nghe trả lời; khi
ta chào thì người nghe sẽ có hành động tương ứng là chào...Thơng thường, nó
lập thành một cặp thoại tương ứng: Chào - chào, hỏi - trả lời, cầu khiến -

13


chấp thuận (hoặc từ chối)... Cịn khi người nói cam kết với ai một điều gì đó

tức là người nói đã tự ràng buộc mình vào một hành động sẽ được thực hiện
trong tương lai.
Đích của hành động tại lời được gọi là đích tại lời và nếu đích đó được
thoả mãn thì ta có hiệu quả tại lời. Dấu hiệu của hiệu quả tại lời là lời hồi đáp
của người tiếp nhận hành động tại lời, tức người nghe.
Ví dụ:
(1) Sp1: Cậu đã học bài chưa?
Sp2: Rồi.
Hiệu quả của hành động tại lời trong ví dụ (1) thể hiện ở phát ngôn trả
lời của Sp2: Rồi.
Đặc điểm của hành động tại lời nói là có ý định (đích), có tính quy ước,
có thể chế mặc dù quy ước và thể chế không được diễn đạt hiển ngôn nhưng
mọi người trong cộng đồng ngôn ngữ vẫn tuân thủ một cách không tự giác.
Chẳng hạn, người Việt hỏi là thể hiện sự quan tâm và dần dần một số câu hỏi
được ước định trở thành lời chào giữa những người đã quen biết nhau. Ví như
khi ta gặp một người quen, ta biết họ đang trên đường đi chợ về, mang theo
rau, thịt, cá..., ta vẫn hỏi:
Ví dụ:
(2) - Đi chợ về đấy à? hoặc: Mua nhiều đồ ăn vậy?
Hình thức các phát ngơn ở ví dụ (2) là câu hỏi nhưng đích của các phát
ngơn (2) là lời chào. Tùy thuộc vào hồn cảnh giao tiếp, có một số lời mời
mang tính xã giao của người Việt nhưng đích của các lời mời xã giao đó trong
một hồn cảnh giao tiếp cụ thể có thể là lời chào. Chẳng hạn, ta đến nhà một
người bạn quen nào đó và gia đình họ đang ăn cơm, chủ nhà mời khách:
(3) Mời bác ăn cơm với gia đình.
thì đây chính là lời chào của chủ nhà khi có khách tới chơi. Việc nhận ra ý

14



định của người nói phụ thuộc vào từng tình huống giao tiếp, và có những tình
huống giao tiếp "độc nhất vơ nhị" thì cịn phụ thuộc vào sự trải nghiệm sống,
sự nhạy cảm của những người tham gia giao tiếp nữa. Có thể minh chứng
thêm qua ví dụ sau:
Khi chúng ta nghe câu nói:
(4) Tơi vừa mới pha một ấm trà ngon.
là để tạo ra một phán đoán hoặc là để mời chào hoặc là để giải thích hay vì
một mục đích giao tiếp nào đó. Những ý định như vậy chỉ có những người
tham gia trực tiếp vào cuộc giao tiếp đó mới xác định được một cách chính
xác mà thơi.
Giả sử một người nói:
(5) Ở đây nóng q.
Đây là một hành động xác tín (miêu tả) nhưng ý định của người nói có
thể là một hành động đề nghị như hãy bật quạt, bật điều hoà lên hoặc mở cửa
ra cho mát. Người nghe phát ngơn này có thể đứng dậy bật quạt, bật điều hoà
hoặc mở cửa sổ. Hiệu quả này thuộc về hành động mượn lời và là đích tại lời
của ví dụ (5).
Trong giao tiếp tiếng Anh, lời thỉnh cầu lịch sự (polite request) thường
được diễn đạt dưới dạng câu hỏi. Đó là quy ước về phép lịch sự của người
Anh - hành động ngôn ngữ gián tiếp đồng biến với lịch sự. Tiếng Việt và một
số ngơn ngữ khác khơng hồn tồn như vậy. Có thể nhận thấy điều này qua
các dẫn dụ sau:
(6) Would you mind closing the door? (Phiền anh đóng hộ cái cửa lại ạ.)
(7) Would you like a cup of tea? (Mời anh dùng trà ạ.)
Từ những phân tích như trên, chúng ta có thể suy ra rằng nắm được một
ngơn ngữ, khơng chỉ có nghĩa là nắm được âm, từ ngữ, câu... của ngơn ngữ đó
mà cịn phải nắm được những quy tắc điều khiển các hành động tại lời của

15



ngơn ngữ đó. Chẳng hạn, chúng ta phải biết hỏi, biết yêu cầu, thỉnh cầu, biết
xin lỗi, cảm ơn... đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với ngữ cảnh, mới là biết sử
dụng ngơn ngữ đó.
1.1.1.2. Hành động tạo lời
Hiểu một cách đơn giản, hành động tạo ra lời nói bằng những âm (hay
con chữ) theo những quy tắc ngữ pháp của một ngôn ngữ được gọi là hành
động tạo lời. Nói một cách rõ hơn, hành động tạo lời là hành động sử dụng
các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ theo một quan hệ cú
pháp thích hợp thành các câu... để tạo ra một phát ngơn có nghĩa phù hợp về
hình thức và nội dung của một cộng đồng ngơn ngữ nào đó. Như vậy, với
hành động tạo lời, chúng ta hình thành nên các biểu thức ngơn ngữ có nghĩa.
Hiểu theo hướng này, nếu gặp khó khăn trong việc phát âm các từ ngữ nào đó
(chẳng hạn người nói là người nước ngồi hoặc người nói bị ngắn lưỡi) hoặc
khơng tìm ra từ thích hợp, hoặc khơng nắm vững các quan hệ cú pháp để tổ
hợp từ ngữ thành câu mà nói rộng ra là tạo thành văn bản, thành diễn ngôn thì
người nói khơng hồn thành hành động tạo lời, khơng tạo ra các biểu thức có
nghĩa để phục vụ cho hoạt động giao tiếp mà người nói có ý định đặt ra. Ví
dụ, có một người nước ngồi nói tiếng Việt:
(8) Xin chao cac ban.
thì như vậy chưa được coi là thực hiện xong hành động tạo lời (vì phát
âm không đúng hệ thống ngữ âm tiêu chuẩn tiếng Việt) mà người nói hồn
thành hành động tạo lời phải nói là:
(9) Xin chào các bạn.!
Giả định có một sinh viên người Việt nói tiếng Pháp:
(10) Je être étudiant. (Tơi là sinh viên - nam sinh viên)
thì anh ta chưa hồn thành hành động tạo lời. Hành động tạo lời phải là:
(11) Je suis étudiant.
hoặc giả định có một sinh viên người Việt nói tiếng Anh


16


(12) I be a student.
thì anh ta cũng chưa hồn thành hành động tạo lời. Hành động tạo lời phải là:
(13) I am a student.
Sản phẩm của hành động tạo lời là đối tượng nghiên cứu của cú pháp
tiền dụng học.
1.1.1.3. Hành động mượn lời
Khi nói về nội dung của diễn ngơn, chúng ta đã nói đến đích tác động
của hoạt động giao tiếp. Hành động ngôn ngữ liên quan tới đích tác động của
diễn ngơn là hành động mượn lời (hành động xuyên ngôn). Hành động mượn
lời là những hành động mượn phương tiện ngơn ngữ, nói đúng hơn là mượn
các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngồi ngơn ngữ nào đó như biến đổi
trong nhận thức, trong tâm lí, trong hành động vật lí có thể quan sát được ở
người nghe, người nhận hoặc ở chính người nói.
Ví dụ:
(14) Sp1: Đóng cửa lại!
Sp2: Đứng dậy đóng cửa, khó chịu, bực tức, càu nhàu, gắt gỏng.
Chức năng hành động của giao tiếp được thực hiện nhờ các hiệu quả
mượn lời của phát ngơn. Có những hiệu quả mượn lời là đích của một hành
động tại lời. Hành động vật lí: đóng cửa là hiệu quả mượn lời của hành động
tại lời mệnh lệnh: Đóng cửa lại nhưng có những hiệu quả khơng thuộc đích
của hành động tại lời như khó chịu, bực tức, càu nhàu, gắt gỏng khi nghe
mệnh lệnh. Đây cũng là hiệu quả thuộc về hành động mượn lời. Chẳng hạn,
khi chủ tọa nói :
(15) Tôi tuyên bố khai mạc hội thi giáo viên dạy giỏi tỉnh Lai Châu
năm học 2014-2015.
thì hành động tại lời là hành động khai mạc hội thi. Mọi người tham dự hội


17


nghị lập tức trật tự, chờ đợi nghi thức tiếp theo của hội nghị. Cái giá trị này
thuộc về hiệu quả của hành động mượn lời.
Cũng vậy, một bản tin báo bão trên ti vi cũng có thể tạo ra những phản
ứng khác nhau trong tâm lí của khán giả xem truyền hình. Những cư dân ở
khu vực mà bão đổ bộ vào sẽ rất lo lắng phòng chống bão; cịn nhiều cư dân ở
ngồi khu vực bão khơng đổ bộ vào, thường có thái độ thờ ơ với bản tin báo
bão. Hiệu quả của hành động mượn lời phụ thuộc tâm lí, điều kiện hồn cảnh
sống của người tiếp nhận, khơng có những quy tắc chung để nhận biết.
Có thể tìm hiểu thêm ví dụ sau để thấy được tính chất phức tạp của
hành động mượn lời. Trong một hội nghị ở cơ quan Y có một vị quan chức X
tun bố: Tơi sẽ tham gia đồn thanh tra vụ việc tiêu cực ở cơ quan chúng ta.
Sau khi vị quan chức X tuyên bố như vậy, cán bộ viên chức ở cơ quan Y có
những tâm trạng rất khác nhau:
Có một bộ phận tỏ ra bình thường khi nghe vị quan chức X nói như vậy
vì họ khơng quan tâm tới mọi diễn biến xảy ra ở cơ quan. Đây là dạng cán bộ
mà ngày nay, chúng ta vẫn thường hay nói tới: "Sáng cắp ơ đi, tối cắp ơ về".
Có một bộ phận có thể ngạc nhiên vì họ khơng thể ngờ rằng cơ quan họ lại có
vụ việc tiêu cực. Bộ phận đấu tranh chống tiêu cực rất phấn khởi vì có đồn
thanh tra đến, những vụ việc tiêu cực sẽ được phanh phui và những kẻ tiêu
cực, có những việc làm khuất tất sẽ bị pháp luật trừng phạt. Còn những kẻ vi
phạm pháp luật sẽ rất lo lắng khi những việc làm sai trái của họ sẽ bị đưa ra
ánh sáng và pháp luật sẽ không dung thứ cho họ. Chúng ta đang bàn ở đây là
hình ảnh vị quan chức X là cơng bộc của dân. Cịn nếu hình ảnh vị quan chức
ấy là vị "quan tham", cùng phe cánh với những kẻ tiêu cực trong cơ quan Y
thì tâm trạng của những kẻ tiêu cực sẽ rất phấn khởi vì đã có "ô che". Những
người đấu tranh chống tiêu cực sẽ rất thất vọng vì họ mất niềm tin về sự tranh
đấu đúng đắn của họ.


18


Cũng có trường hợp và chắc khơng phải là ngoại lệ, khi vị quan chức X
nói như vậy thì những kẻ tiêu cực trong cơ quan Y sẽ nảy sinh suy nghĩ: Hay
là vị quan chức này "bật đèn xanh" để cho họ lo lót chạy tội?...
Như vậy, hiệu quả mượn lời của phát ngơn là những hiệu quả ngồi
ngơn ngữ (đúng hơn là ngồi diễn ngơn), rất phân tán, khơng có tính quy
ước và khó tìm ra cơ chế chung nên người nói khơng thể tính tốn, kiểm sốt
hết được.
1.1.1.4. Phát ngôn ngôn hành và biểu thức ngôn hành
Phát ngôn ngôn hành là phát ngôn - sản phẩm của một hành động tại lời
nào đó khi hành động này được thực hiện một cách trực tiếp chân thực. Nói
một cách ngắn gọn nói là hành động bằng lời. Để làm rõ cho cách hiểu này,
người ta thường xuất phát từ những phát ngôn tiêu biểu, đại thể như:
(16) Tôi đánh cuộc với anh là đội Man đỏ sẽ thắng Man xanh trong
trận này.
(17) Em cảm ơn thầy ạ.
(18) Anh khuyên em nên bỏ hút thuốc đi để đỡ hại cho sức khoẻ.
Trong những ví dụ trên, hành động tại lời ví dụ (16) là hành động đánh
cuộc, ví dụ (17) là cảm ơn, ví dụ (18) là khuyên. Những phát ngôn như thế
được gọi là những phát ngôn ngôn hành. Phát ngôn ngôn hành là phát ngôn sản phẩm của một hành động tại lời nào đó khi hành động này được thực hiện
một cách trực tiếp, chân thực.
Có thể phân biệt biểu thức ngôn hành và phát ngôn ngơn hành. Biểu
thức ngơn hành là thể thức nói năng cốt lõi do các phương tiện chỉ dẫn hiệu
lực tại lời kết hợp với (hoặc khơng có) nội dung mệnh đề đặc trưng cho một
hành động tại lời nào đó. Biểu thức ngơn hành (cịn gọi là biểu thức ngữ vi,
biểu thức ngôn trung ...) vừa là phương tiện vừa là sản phẩm tại lời. Phát ngôn
ngôn hành là sự hiện thực hố một biểu thức ngơn hành trong giao tiếp gắn

với từng ngữ cảnh giao tiếp cụ thể.

19


×