HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THƠM
§¶NG CéNG S¶N VIÖT NAM
L·NH §¹O PH¸T TRIÓN KINH TÕ HµNG H¶I
Tõ N¡M 1996 §ÕN N¡M 2011
Chuyên ngành
: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số
: 62 22 03 15
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2015
Luận án được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học : 1. PGS. TS Đoàn Ngọc Hải
2. TS. Nguyễn Thành Vinh
Phản biện 1:
………………………………………. .
…………………………………………
Phản biện 2:
………………………………………..
………………………………………..
Phản biện 3:
………………………………………..
………………………………………...
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi……giờ……ngày……tháng…….năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của kinh tế biển, kinh tế hàng hải (KTHH)
trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), củng cố quốc phòng, an
ninh và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
- Từ điều kiện tự nhiên, KT-XH của vùng biển Việt Nam, thực trạng
phát triển ngành Hàng hải Việt Nam (HHVN), từ xu thế chung của các nước
trong khu vực và trên thế giới.
- Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương, tất cả các quốc gia có biển đều
quan tâm đến biển, phát triển kinh tế biển, làm giàu từ biển. Trong đó KTHH
giữ vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế biển.
Nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo phát triển KTHH từ 1996 đến năm
2011, nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với KTHH; đưa ra
những nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn chế trong phát triển KTHH; đúc
rút kinh nghiệm lịch sử, vận dụng vào hiện thực là việc làm cần thiết.
Với ý nghĩa đó nghiên cứu sinh chọn đề tài trên làm Luận án tiến sỹ Lịch
sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo phát triển KTHH từ năm
1996 đến năm 2011; đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào phát triển
KTHH trong thời kỳ mới đạt kết quả cao hơn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo phát triển KTHH từ năm
1996 đến năm 2011.
- Phân tích, luận giải làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát
triển KTHH qua 2 giai đoạn: 1996 - 2001 và 2001 - 2011.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân từ quá trình Đảng lãnh đạo
phát triển KTHH; trên cơ sở đó, đúc rút một số kinh nghiệm để vận dụng vào
phát triển KTHH trong giai đoạn mới.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng về phát triển
KTHH từ năm 1996 đến năm 2011.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát
triển KTHH từ năm 1996 đến năm 2011. Trong khuôn khổ luận án, nghiên
cứu sinh tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về phát triển KTHH trên
ba lĩnh vực chủ yếu: Công nghiệp đóng tàu, vận tải biển, cảng và dịch vụ
cảng biển.
- Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
phát triển KTHH từ năm 1996 đến năm 2011.
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước, tập trung chủ yếu ở
các vùng có KTHH phát triển.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế, tập trung về phát triển
kinh tế biển, KTHH.
4.2. Nguồn tư liệu
- Các văn kiện, nghị quyết, chính sách, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng,
Nhà nước; các văn bản của Bộ Giao thông vận tải, các cơ quan và các đơn vị
liên quan đến hàng hải thuộc Bộ Giao thông vận tải. Các văn bản của các địa
phương về phát triển kinh tế biển, kinh tế hàng hải.
- Các sách chuyên khảo, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học, kỷ yếu hội
thảo khoa học đã công bố có liên quan đến kinh tế biển, KTHH được coi là
nguồn tư liệu tham khảo có giá trị giúp cho việc hoàn thành các nội dung
nghiên cứu của luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, nghiên cứu sinh
sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và kết hợp chặt chẽ hai
phương pháp đó là chủ yếu, đồng thời còn sử dụng một số phương pháp khác
3
như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh nhằm làm sáng tỏ những vấn đề luận
án đặt ra cần phải giải quyết.
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về phát triển KTHH,
qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển KTHH
trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước.
- Rút ra những nhận xét, đánh giá kết quả Đảng lãnh đạo phát triển
KTHH; đúc kết một số kinh nghiệm lịch sử vận dụng vào giai đoạn mới.
- Luận án là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy
Lịch sử Đảng ở các học viện, trường đại học, cao đẳng trong cả nước.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục công trình khoa học
của tác giả liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận án gồm 3 chương, 6 tiết.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Do vị trí và tầm quan trọng của KTHH trong nền kinh tế quốc dân, trong
nhiều năm qua, nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý, các tổ chức, các nhà khoa
học trong và ngoài nước đã quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, được phân thành các nhóm sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu về biển, kinh tế biển
Nghiên cứu về biển, kinh tế biển có những công trình như: “Chính sách,
pháp luật biển của Việt Nam và Chiến lược phát triển bền vững” của Nguyễn
Bá Diến; “Quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo” của
Đặng Xuân Phương, Nguyễn Lê Tuấn; “Công ước Biển 1982 và Chiến lược
biển của Việt Nam” của Nguyễn Hồng Thao, Đỗ Minh Thái, Nguyễn Thị
Như Mai, Nguyễn Thị Hường; “Kinh tế biển Việt Nam: Tiềm năng, cơ hội và
thách thức” của Nguyễn Văn Để; “Nền kinh tế các vùng ven biển của Việt
4
Nam” của Thế Đạt; “Tiềm năng biển Việt Nam và chính sách hợp tác quốc tế
về biển trong thập niên đầu thế kỷ XXI” của Nguyễn Thanh Minh; “Chiến
lược phát triển kinh tế biển Việt Nam trong hội nhập quốc tế” của Phạm
Ngọc Anh; “Phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển, hải đảo gắn với bảo vệ
môi trường và an ninh quốc gia” của Nguyễn Đăng Đạo; “Tiềm năng và vấn
đề đặt ra của kinh tế biển Việt Nam” của Phạm Đức Ngoan; “Việt Nam với
mục tiêu phát triển kinh tế biển, đảo bền vững trong “thế kỷ của đại dương”
của Trương Minh Tuấn; “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 1986 đến năm 2001” Luận văn thạc sĩ và
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ
năm 2001 đến năm 2011” Luận án tiến sĩ của Nguyễn Đức Phương; “Quá trình
triển khai chính sách biển của Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2010” của
Nguyễn Thanh Minh; “Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo phát triển kinh
tế biển từ năm 1996 đến năm 2010” Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Anh.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu của các học giả trong nước, còn có
các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài như: “Sức mạnh biển đối
với lịch sử thời kỳ 1660 - 1783” của Alfred Thayer Mahan, Phạm Nguyên
Trường dịch; “Phân tích về địa lý - chính trị cuộc xung đột và tranh chấp biên
giới Việt - Trung liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển
Nam Trung Hoa” của Peaun Medes Antunes; “Các đảo tranh chấp ở vùng
biển Nam Trung Hoa, Hoàng Sa - Trường Sa - Pratas - Bãi Maccelesfield”,
công trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu các vấn đề châu Á tại Hamburg;
“Quần đảo Trường Sa: Liệu có còn thích hợp khi tranh cãi về vấn đề chủ
quyền”, công trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý
(trường Đại học Tổng hợp Philippin); “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa: Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc” của Từ
Đặng Minh Thu; “Lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền
trên hai hòn đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế” của Đào Văn
Thụy; “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và sự sử dụng luật pháp quốc tế trong
tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa” của Michael Bennett.
Tổng quan các công trình nghiên ở trong nước cũng như nước ngoài về
biển và kinh tế biển cho thấy: Nội dung đề cập tới nhiều vấn đề về chính trị,
5
kinh tế, an ninh, quốc phòng ở trong nước và ở khu vực Biển Đông. Trong
đó, tập trung vào hai vấn đề chính là phát triển kinh tế biển và vấn đề chính
trị ở khu vực Biển Đông, nơi Việt Nam được coi là quốc gia có một phần
diện tích rộng lớn ở khu vực này, với một nguồn lợi mà Biển Đông đem lại
cho Việt Nam là vô cùng to lớn. Do đó, phát triển kinh tế biển cùng với việc
ổn định chính trị ở Biển Đông là một việc hết sức quan trọng, không chỉ đối
với Việt Nam mà đối với tất cả các nước trong khu vực.
1.2. Các công trình nghiên cứu về kinh nghiệm của các quốc gia
phát triển kinh tế biển trên thế giới
Các công trình nghiên cứu liên quan đến kinh nghiệm của các quốc gia
phát triển kinh tế biển trên thế giới như: “Lịch sử kinh tế của các nước đảo
trên thế giới” của Thế Đạt; “Chiến lược phát triển kinh tế ven biển Trung
Quốc” của Đoàn Văn Trường; “Xây dựng hành lang kinh tế biển một trong
những mục tiêu Chiến lược biển của Trung Quốc trong tương lai” và
“Chiến lược kinh tế biển của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ” của Ngọc Hiền;
“Kinh nghiệm của ASEAN trong việc phát triển dịch vụ vận tải biển” của
Nguyễn Tương; “Thẩm quyến thần kỳ - hiện đại hóa - quốc tế hóa” của
Đoàn Văn Trường; “Những kinh nghiệm phát triển cảng biển của Nhật
Bản” Đề án của Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải.
Tổng quan các công trình nghiên cứu về kinh nghiệm của các quốc gia
phát triển kinh tế biển trên thế giới cho thấy: Nội dung chủ yếu tập trung vào
việc giải thích lý do tại sao các quốc gia trên thế giới lại có sự phát triển thần
kỳ về kinh tế biển, nền tảng cũng như yếu tố tự nhiên là những điều kiện cần
thiết giúp các quốc gia trên tận dụng lợi thế của mình để sớm phát triển kinh
tế biển, KTHH. Với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế biển, các quốc gia như
Trung Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản…, đã sớm xây dựng thành công
chiến lược biển cho riêng mình và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Thành
công của các nước trong phát triển kinh tế biển, đang là bài toán khiến Việt
Nam phải tích cực hơn cho con đường phát triển kinh tế biển của đất nước
trong tương lai.
6
1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến phát triển
kinh tế hàng hải
Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế hàng
hải, điển hình như: “Quy hoạch cảng biển Việt Nam cần tính khoa học và
đồng bộ” của Nguyễn Ngọc Huệ; “Vinashin và Chiến lược kinh tế biển” của
Nguyễn Đức Ngọc; “Phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam” của Đặng Đình
Đào; “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển dịch vụ phục vụ hoạt động
của các cảng biển trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2010 đến năm
2020” của Trần Văn Hiếu; “Nghiên cứu các giải pháp tăng năng lực cạnh
tranh của ngành Hàng hải Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” của
Đinh Ngọc Viện; “Hoàn thiện hạch toán chi phí, doanh thu và kết quả hoạt
động kinh doanh vận tải biển tại Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam” của
Nguyễn Thị Minh Châm; “Thu hút vốn đầu tư nước ngoài phát triển hệ thống
cảng biển Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” của Trần Đào Diệu Linh;
“Nghiên cứu các giải pháp về vốn để phát triển đội tàu vận tải biển nòng cốt
của Việt Nam” của Vũ Trụ Phi; “Nghiên cứu khai thác nguồn vốn đầu tư để
hiện đại hóa đội tàu biển Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020” đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước của Tổng Công ty HHVN.
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp tới kinh tế
hàng hải cho thấy: Các công trình đã khái quát, làm rõ KTHH bao gồm
nhiều lĩnh vực, trong đó quan trọng nhất là đóng tàu, vận tải biển, cảng và
dịch vụ cảng biển. Các công trình đã làm rõ vị trí, vai trò KTHH, yêu cầu
khách quan phát triển KTHH. Một số công trình có đề cập đến sự lãnh đạo
của Đảng về phát triển KTHH nhưng ở từng lĩnh vực và địa phương cụ thể.
Có một số công trình nghiên cứu đề xuất chủ trương, giải pháp phát triển
KTHH, đảm bảo cho KTHH phát triển mạnh, đủ sức hội nhập với ngành
Hàng hải thế giới.
2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án cho
thấy, các công trình nghiên cứu ở cả trong nước và ngoài nước, dưới nhiều
góc độ khác nhau, đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến đề tài luận án.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng, cho đến nay, chưa có một
7
công trình nào nghiên cứu đầy đủ, hệ thống về quá trình Đảng lãnh đạo phát
triển KTHH từ năm 1996 đến năm 2011. Đây chính là những vấn đề nghiên
cứu sinh lựa chọn, tập trung nghiên cứu trong luận án.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT
- Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo phát triển KTHH (1996 - 2011).
- Phân tích và luận giải làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo phát triển
KTHH của Đảng (1996 - 2011) nhằm tập trung vào ba lĩnh vực chủ yếu:
Công nghiệp đóng tàu, vận tải biển, cảng và dịch vụ cảng biển.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo phát
triển KTHH trên một số lĩnh vực chủ yếu từ năm 1996 đến năm 2011.
- Đúc kết những kinh nghiệm lịch sử để vận dụng vào hiện thực.
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HẢI
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2001
1.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HÀNG HẢI (1996 - 2001)
1.1.1. Vị trí, vai trò kinh tế biển, kinh tế hàng hải
- Kinh tế biển có vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển KT-XH của
đất nước, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển. Biển góp phần giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên
biển; tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước.
- Hiện nay, KTHH đứng vị trí thứ hai trong các ngành kinh tế biển (sau
khai thác chế biến dầu khí), nhưng theo dự báo đến sau năm 2020, KTHH sẽ
vươn lên đứng vị trí thứ nhất, đây sẽ là ngành kinh tế mũi nhọn thúc đẩy sự
phát triển KT-XH nói chung, kinh tế biển nói riêng. KTHH phát triển góp
phần mở rộng quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước trong khu vực và
trên thế giới; nâng cao vị thế kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần
củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia
trên biển, giữ vững độc lập toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
8
1.1.2. Biển, đảo và bờ biển Việt Nam tác động đến phát triển kinh tế
hàng hải
Việt Nam giáp với Biển Đông ở cả ba phía: Đông, Nam và Tây Nam.
Các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam là một phần Biển Đông trải dọc
theo bờ biển dài khoảng 3.260km, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, với nhiều
bãi biển đẹp như: Trà Cổ, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cam Ranh, Vũng
Tàu…, cứ 100km2 lãnh thổ đất liền, có 1km bờ biển, tỷ lệ này cao gấp 6 lần
tỷ lệ trung bình của thế giới (600km 2 đất liền có 1km bờ biển). Biển Việt
Nam rất giàu tiềm năng, có vị trí địa kinh tế - chính trị - quân sự vô cùng
quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của Việt Nam, mà còn đối với cả
khu vực và thế giới. Xét trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, an ninh,
quốc phòng, biển còn có vị trí, vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh
tế biển, KTHH, góp phần thúc đẩy sự phát triển KT-XH của đất nước, giữ
vững chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển.
1.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế hàng hải Việt
Nam trước năm 1996
Năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 239/HĐBT về việc
thành lập Cục Hàng hải Việt Nam (Cục HHVN). Cục HHVN ra đời với trọng
trách thay mặt Nhà nước quản lý về mặt nhà nước chuyên ngành hàng hải
trên phạm vi cả nước.
Năm 1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 03/NQ-TW về một số nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt. Tháng 8/1993, Thủ tướng
Chính phủ ra Chỉ thị số 399/TTg về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
trong những năm trước mắt. Trong đó chỉ rõ: Vị trí và đặc điểm địa lý của
Việt Nam, cùng với bối cảnh phức tạp trong vùng vừa tạo điều kiện, vừa đòi
hỏi Việt Nam phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả
năng bảo vệ chủ quyền và môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một
nước mạnh về biển”, việc nhấn mạnh trở thành một nước mạnh về kinh tế biển
là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Từ chủ trương và sự chỉ đạo
đúng đắn của Đảng, trong những năm (1993 - 1996). Ngành HHVN đã có
những bước chuyển biến vượt bậc, và đạt được nhiều kết quả trong phát triển
9
KTHH trên một số lĩnh vực chủ yếu: Công nghiệp đóng tàu, vận tải biển, cảng
và dịch vụ cảng biển. Qua đó, khẳng định vị trí và tầm quan trọng của KTHH
trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước. Nhưng cho đến nay, kinh tế
biển, KTHH phát triển chưa thực sự xứng tầm với vị thế của một quốc gia có
thế mạnh về biển như Việt Nam.
1.1.4. Yêu cầu mới về phát triển kinh tế hàng hải trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996 - 2001)
Sau 10 năm tiến hành đổi mới, kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển
biến tích cực trong đó có ngành Hàng hải như: Việt Nam đã chú trọng khai
thác các tiềm năng và thế mạnh sẵn có từ biển để phục vụ cho công cuộc phát
triển KT-XH; khai thác dầu khí, thuỷ sản, du lịch, đóng tàu, vận tải biển…
đã trở thành những ngành kinh tế quan trọng, có sức tăng trưởng mạnh.
Ngành HHVN đã có những bước chuyển đổi cơ bản, tích luỹ được kinh
nghiệm và tạo ra cơ sở vật chất ban đầu tạo tiền đề cho sự phát triển lâu dài
và hợp tác quốc tế thành công giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Để đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH)
đất nước, đòi hỏi ngành HHVN phải có sự đổi mới mạnh mẽ để theo kịp với
xu thế hội nhập quốc tế. Yêu cầu hiện đại hoá, chuyên dùng hoá đội tàu biển;
tập trung xây dựng các cụm cảng chiến lược; phát triển công nghiệp cơ khí
sửa chữa và đóng mới tàu biển, container, dàn khoan; tổ chức, sắp xếp lại các
cơ sở dịch vụ hàng hải và triển khai các hoạt động quản lý nhà nước chuyên
ngành thích hợp là những yêu cầu cấp thiết, góp phần đưa Việt Nam trở
thành một quốc gia phát triển mạnh về kinh tế biển.
1.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HÀNG HẢI (1996 - 2001)
1.2.1. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế hàng hải
Sau khi Nghị quyết 03/NQ-TW (1993) của Bộ Chính trị ra đời. Ngày
22/9/1997, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 20-CT/TW về kinh tế biển, đẩy mạnh phát
triển khoa học và công nghệ biển..., các văn kiện trên đã làm rõ chủ trương
của Đảng về phát triển KTHH bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1.2.1.1. Quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế hàng hải
- Quy hoạch phát triển đội tàu quốc gia hoàn chỉnh có đủ số lượng và
10
chất lượng cạnh tranh với đội tàu các nước trên thế giới.
- Xây dựng hệ thống cảng biển trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển hệ
thống cảng biển Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Công nghiệp đóng tàu chỉ nên tập trung vào các cụm công nghiệp
đóng tàu nơi có lợi thế, chấm dứt sự đầu tư tràn lan.
1.2.1.2. Phương hướng phát triển kinh tế hàng hải
1. Xây dựng và phát triển KTHH với tốc độ nhanh, đồng bộ và có bước
nhảy vọt nhằm đưa KTHH phát triển lớn mạnh, đủ khả năng thỏa mãn vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển. 2. Ứng dụng khoa học, công nghệ hiện
đại trong ngành Hàng hải. 3. Phát triển, đổi mới cơ cấu đội tàu theo hướng
hiện đại hóa, trẻ hóa, chuyên dụng hóa phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thế giới. 4. Cải tạo, nâng cấp hệ thống cảng biển hiện có,
đồng thời tập trung xây dựng một số cảng mới đảm bảo cho các tàu có trọng
tải lớn, tàu chuyên dụng ra vào thuận lợi.
1.2.1.3. Nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế hàng hải
- Về phát triển hệ thống cảng biển. Tập trung xây dựng các cụm cảng ở
ba khu vực: Bắc, Trung, Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của KTHH.
- Về phát triển vận tải biển. Phát triển đội tàu biển quốc gia mạnh và
hiện đại, có cơ cấu phù hợp, đủ năng lực vận chuyển hàng hóa xuất, nhập
khẩu, đáp ứng nhu cầu vận chuyển trong nước.
- Về sửa chữa, đóng mới tàu biển. Hình thành các cụm đóng tàu ở khu vực
miền Bắc, miền Nam, miền Trung. Đảm bảo đến năm 2000, có khả năng sửa
chữa các loại tàu biển, đóng mới các loại tàu chở hàng dời, hàng lỏng, container.
1.2.2. Quá trình chỉ đạo và kết quả phát triển kinh tế hàng hải của
Đảng (1996 - 2001)
1.2.2.1. Chỉ đạo xây dựng hệ thống tổ chức quản lý nhà nước trong
lĩnh vực hàng hải
Tháng 4/1995, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 250/QĐ-TTg tách
Cục Hàng hải Việt Nam thành ba tổ chức độc lập gồm:
+ Cục hàng hải Việt Nam quản lý Nhà nước về hàng hải.
+ Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam - Vinalines có chức năng kinh
doanh phát triển đội tàu biển.
11
+ Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam - Vinashin làm nhiệm
vụ sửa chữa, đóng mới tàu biển.
1.2.2.2. Chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp đóng tàu
1.2.2.3. Chỉ đạo phát triển ngành vận tải biển
1.2.2.4. Chỉ đạo phát triển ngành cảng và dịch vụ cảng biển
Trong những năm 1996 - 2001, KTHH Việt Nam có sự phát triển mạnh
mẽ, đồng đều trên cả ba lĩnh vực: Đóng tàu, vận tải biển, cảng và dịch vụ
cảng biển. Các lĩnh vực trên đều tăng về số lượng, nâng cao chất lượng phục
vụ ngày càng đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, vận
chuyển hàng hóa trong nước. KTHH thời kỳ này, góp phần quan trọng thúc
đẩy sự phát triển KT-XH của đất nước nói chung, kinh tế biển nói riêng. Do
đó, ngày càng có vị trí quan trọng trong các ngành kinh tế biển Việt Nam, là
ngành kinh tế mũi nhọn của kinh tế biển Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Việt Nam là một quốc gia có vị trí đặc biệt thuân lợi cho việc phát triển
kinh tế biển, KTHH. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã từng bước hình thành quan điểm, phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ và đề ra các giải pháp có tính khả thi để phát triển KTHH
(1996 - 2001) nhằm tập trung vào ba lĩnh vực chủ yếu: Công nghiệp đóng
tàu, vận tải biển, cảng và dịch vụ cảng biển. Nhờ đó, KTHH ngày càng phát
triển, giành được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển
KT-XH của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, KTHH cũng còn một số
thiếu sót trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện. Điều đó làm ảnh hưởng tới
chủ trương phát triển KTHH của Đảng. Những thiếu sót đó đã được Đảng
sớm nhận rõ, từng bước điều chỉnh chủ trương, sự chỉ đạo khắc phục để
KTHH tiếp tục phát triển trong những năm tiếp theo.
12
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HẢI
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HÀNG HẢI TRONG THẬP NIÊN ĐẦU CỦA THẾ KỶ XXI
2.1.1. Bối cảnh quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, với nhịp
độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột
phá, có ảnh hưởng lớn tới mọi mặt đời sống KT-XH của đất nước. Từ đó,
đòi hỏi con người ngày càng phải nâng cao trình độ khoa học và công
nghệ, toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế làm cho các nước ngày càng xích lại
gần nhau, phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn. Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại
dương, tất cả các nước có biển hay không có biển đều hướng ra biển trong
đó có Việt Nam.
2.1.2. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi phát triển mạnh
mẽ kinh tế hàng hải
Sau 15 năm đổi mới đất nước (1986 - 2001), Việt Nam bước vào thế
kỷ XXI khi tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi, cơ hội
lớn đan xen với nhiều khó khăn, thách thức. Thế và lực của Việt Nam
mạnh hơn nhiều. Trong nước, chính trị, xã hội ổn định; quan hệ sản xuất
được đổi mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; thể chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN bước đầu hình
thành và vận hành có hiệu quả; hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách
từng bước được cải thiện; quan hệ kinh tế, ngoại giao được mở rộng trên
trường quốc tế đã tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự phát triển mới
của đất nước.
Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra cho phát triển kinh tế biển, KTHH là một
tất yếu, nhằm tạo nên nguồn lực to lớn, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát
triển nhanh, đúng với vai trò, vị trí của biển và kinh tế biển Việt Nam.
13
2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐẨY MẠNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HÀNG HẢI THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA, CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.2.1. Chủ trương của Đảng đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hải
trong thời kỳ mới
Trong giai đoạn 2001 - 2011, những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong
phát triển KTHH từng bước được khẳng định, về cơ bản luôn được quán triệt
và nhận thức ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, do tình hình thế giới và khu vực
tiếp tục có những biến động; Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp, cùng
với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt
Nam phải có những bước đổi mới trong tư duy chiến lược về biển, kinh tế
biển của mình.
Từ những vấn đề trên, tháng 2/2007, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ tư (khoá X) ra Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020, xác định ba quan điểm chỉ đạo: Thứ nhất, Việt Nam phải
trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi
tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu
phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả với
tầm nhìn dài hạn. Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với bảo
đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp
chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng
nội địa theo hướng CNH,HĐH. Thứ ba, thu hút mọi nguồn lực để phát
triển KT-XH, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở
cửa. Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các nguồn lực bên trong, tranh thủ hợp
tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của đất nước.
Từ quan điểm đó, Đảng từng bước xác định phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển KTHH phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
xu thế phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, làm
rõ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển ngành công
nghiệp đóng tàu, vận tải biển, cảng và dịch vụ cảng biển từ năm 2001 đến
năm 2011.
2.2.2. Quá trình chỉ đạo và kết quả phát triển kinh tế hàng hải của
14
Đảng (2001 - 2011)
Trong những năm 2001 - 2011, Đảng, Nhà nước tập trung chỉ đạo phát
triển KTHH trên các lĩnh vực chủ yếu như sau:
- Chỉ đạo hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý nhà nước trong lĩnh vực
hàng hải
- Chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp đóng tàu
- Chỉ đạo phát triển ngành vận tải biển
- Chỉ đạo phát triển ngành cảng, dịch vụ cảng
- Chỉ đạo xây dựng phát triển nguồn nhân lực ngành Hàng hải
- Chỉ đạo mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hàng hải
Nhờ có chủ trương đúng đắn, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời, trong những năm
2001 - 2011, KTHH đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Ngành đóng tàu đã sửa
chữa được các loại tàu biển, đóng mới được nhiều tàu có trọng tải lớn, tàu
chuyên dùng, tàu chở dầu, chở hàng dời, chở container.
Ngành vận tải biển, đã xây dựng được đội tàu đáp ứng yêu cầu vận tải
hàng hóa xuất, nhập khẩu. Đến năm 2011, đội tàu có 1.691 chiếc với tổng
dung tích 4.494.551 GT, tổng trọng tải 7.464.269 DWT. Đội tàu Việt Nam
xếp thứ 60/152 quốc gia có tàu, xếp thứ 4 trong 10 nước ASEAN. Đến năm
2011, Việt Nam đã đầu tư nguồn vốn lớn để nâng cấp, cải tạo xây dựng hệ
thống cảng ở cả ba miền theo hướng hiện đại. Hệ thống cảng biển Việt Nam
đã đón nhận 130.000 lượt tàu Việt Nam và nước ngoài ra vào, hàng hóa
thông qua cảng biển đạt 286 triệu tấn. Việt Nam đã đào tạo được đội ngũ sỹ
quan, thủy thủ, thuyền viên đáp ứng yêu cầu của Ngành và có khả năng xuất
khẩu nguồn nhân lực ngành Hàng hải. Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực hàng hải
không ngừng phát triển. Vị thế, uy tín ngành HHVN được nâng cao trên
trường quốc tế.
Tiểu kết chương 2
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều diễn
biến nhanh chóng, phức tạp đã tác động đến Việt Nam, đến sự phát triển kinh
tế nói chung, phát triển kinh tế biển trong đó có KTHH nói riêng. Nhưng với
tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng, đã đặt ra yêu cầu phải
nhanh chóng phát triển KTHH trong điều kiện mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, KTHH trong 10 năm đầu của thế kỷ XXI
15
(2001 - 2011) đã có những bước phát triển vượt bậc, đã xây dựng Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Bên cạnh đó, các quy
hoạch tổng thể và chi tiết phát triển các ngành trong lĩnh vực hàng hải đã từng
bước được thực hiện. Những kết quả trên, đã góp phần đưa đất nước phát triển
vững bước tiến lên, hội nhập với khu vực và thế giới thành công.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát
triển KTHH cũng còn một số những thiếu sót, bất cập trong việc lập quy
hoạch, phân bổ nguồn lực, nguồn vốn…Tuy nhiên, những kết quả mà ngành
HHVN đạt được từ năm 2001 đến năm 2011 là rất đáng ghi nhận, bước góp
phần đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển và
tiến tới trở thành một trung tâm KTHH mạnh của khu vực và thế giới trong
tương lai.
Chương 3
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1. NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH
TẾ HÀNG HẢI TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2011
3.1.1. Ưu điểm, nguyên nhân
* Ưu điểm
- Về hoạch định chủ trương:
Trên cơ sở bám sát thực tiễn Việt Nam, nhất là thực trạng KTHH Việt
Nam, Đảng đã đánh giá đúng tình hình, chủ động hoạch định chủ trương,
phương hướng phát triển KTHH.
Nằm ở bờ Tây của Biển Đông, biển Việt Nam trở thành “lá chắn sườn”
trong hệ thống phòng thủ quan trọng bảo vệ đất nước. Do đó, từ rất sớm, nhất
là trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò kinh tế biển, KTHH, từng bước
hình thành đường lối, chủ trương phát triển kinh tế biển, KTHH. Chủ trương
đó bao gồm hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp phát triển KTHH. Đó là nhân tố quyết định đảm bảo cho KTHH Việt
Nam phát triển đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
16
Lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chủ trương, phương hướng của Đảng,
các cơ quan chức năng từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều
kiện cho ngành Hàng hải phát triển vững chắc.
Bên cạnh các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
ngày càng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhất là bổ sung những văn bản
pháp luật có liên quan đến quản lý nhà nước trong lĩnh vực hàng hải. Quốc hội
Việt Nam đã thông qua Bộ Luật HHVN, khẳng định sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước đối với một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù, với những tiềm năng rất
lớn về biển của đất nước, được coi là bước ngoặt quan trọng trong nhận thức tư
duy lý luận của Đảng và Nhà nước về chiến lược biển, kinh tế biển nói chung
và KTHH nói riêng. Đồng thời, đây cũng là bước ngoặt mở ra triển vọng phát
triển mới của ngành HHVN.
- Về chỉ đạo thực tiễn
Sự trưởng thành trong tư duy lý luận đã giúp cho Đảng và Nhà nước có
những nhận thức mới và sâu sắc về chủ trương phát triển kinh tế biển nói
chung, KTHH nói riêng. Đồng thời, Đảng rất quan tâm chỉ đạo các cấp, các
ngành tích cực triển khai thực hiện. Những kết quả đạt được trong công tác
khảo sát, thăm dò, nghiên cứu khoa học biển ngày càng được quan tâm, làm
cơ sở cho việc phát triển các ngành kinh tế trong lĩnh vực hàng hải, các vùng
kinh tế biển, cũng như việc hoạch định các chính sách quản lý tài nguyên
môi trường biển của đất nước. Cơ cấu ngành, nghề biển từng bước được điều
chỉnh ngày càng hợp lý hơn, những ngành khai thác và sử dụng lợi thế của
biển như: Vận tải biển, dịch vụ hàng hải, đóng tàu, du lịch, nuôi trồng thủy
sản và đánh bắt xa bờ…, đang được đẩy mạnh và đem lại giá trị kinh tế cao.
- Kết quả về phát triển kinh tế hàng hải
Về công nghiệp đóng tàu: Nếu như trong những năm 1996 - 2000, ngành
Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (CNTT) chủ yếu tập trung vào hoạt động
của một số doanh nghiệp đóng tàu chủ đạo, trong đó có Tổng Công ty
CNTT Việt Nam - Vinashin với 27 đơn vị thành viên hoạt động trên phạm
vi cả nước từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Phú Thọ, Hải Dương, Hà Nội, Nam
Định, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh đến Cần
Thơ. Theo chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Giao thông vận tải, đến năm 2011,
17
Vinashin thực hiện chủ trương tái cơ cấu kinh tế ngành, thành Tập đoàn
CNTT Việt Nam với 7 nhà máy lớn, tập trung. Điều đó cho thấy, đây là
một chủ trương đúng hướng để kích cầu ngành công nghiệp đóng tàu trong
nước phát triển.
Về vận tải biển: Với chủ trương nâng cao thị phần vận chuyển hàng hóa
xuất, nhập khẩu. Từ năm 2001 đến năm 2011, tổng sản lượng vận tải biển
trên toàn quốc đạt 152.379.954 tấn, trong đó vận tải nước ngoài đạt
94.818.588 tấn, vận tải trong nước đạt 57.561.366 tấn (Báo cáo của Cục
HHVN năm 2011). Những kết quả hoạt động của ngành vận tải biển Việt
Nam trong những năm 2001 - 2011, đã tăng gấp 7,1 lần so với những năm
1996 - 2000. Điều đó cho thấy, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển
trong nước phần nào đã đáp ứng được về cơ sở hạ tầng, cơ chế, chính sách
nhằm nâng cao thị phần vận tải trong nước và hướng tới đáp ứng yêu cầu của
thị trường vận tải nước ngoài.
Về cảng và dịch vụ cảng biển: Ngày 12/10/1999, Thủ tướng Chính phủ
ra Quyết định số 202/1999/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 nhằm tập trung vào 8 nhóm cảng biển chính, như vậy là quá nhiều,
trong khi đó vẫn có một số bến cảng chuyên dụng còn nhỏ bé và nằm đan
xen với các bến tổng hợp container cho tàu trọng tải lớn trong cùng một khu
chức năng, vừa gây lãng phí tài nguyên đường bờ làm cảng, vừa gây khó
khăn phức tạp trong quản lý khai thác. Tuy nhiên, đến năm 2008, bước đột
phá trong quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam được thể hiện
thông qua Quyết định số 16/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030. Đây là sự điều chỉnh hợp lý của Đảng trong việc thực
hiện chiến lược kinh tế biển, từ 8 nhóm cảng biển trước đây đến nay chỉ còn
6 nhóm cảng chính.
Với việc điều chỉnh trên, số lượng cảng biển liên tục tăng qua các năm,
năm 2011, tăng gấp 1,7 lần so với năm 2005 và 3,1 lần so với năm 1990.
Điều đó cho thấy, quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xây dựng kết cấu hạ
tầng đã tạo ra những sự thay đổi lớn cho phát triển KT-XH, trong đó có kết
18
cấu hạ tầng cảng biển là nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt của Đảng trong
quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
* Nguyên nhân của ưu điểm
Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong phát triển KTHH từ năm
1996 đến năm 2011, xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Một là, Đảng có đường lối, chủ trương, phương hướng phát triển kinh
tế hàng hải đúng đắn.
Trên cơ sở đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhanh nhạy đổi mới tư duy lãnh đạo để đề ra đường lối, chủ trương
phát triển KTHH đúng đắn, sát thực tiễn Việt Nam, phù hợp với xu thế chung
của khu vực và thế giới. Đó là hệ thống các quan điểm, chủ trương, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp phát triển KTHH. Đây là nguyên nhân cơ bản, có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển KTHH.
Hai là, có sự đầu tư của Nhà nước và các ngành
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, ngành HHVN đã luôn nhận
được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng
bằng những hành động thiết thực. Nhiều văn kiện của Đảng đã quan tâm đến
vấn đề củng cố và phát triển ngành Hàng hải. Nhiều ý kiến đề nghị của lãnh
đạo ngành được Đảng, Nhà nước, Bộ Giao thông vận tải, các bộ, ngành ủng
hộ và tạo điều kiện cho ngành HHVN phát triển. Mối quan hệ giữa ngành
Hàng hải với các ngành kinh tế, quốc phòng, an ninh cùng hoạt động trên
biển ngày càng chặt chẽ, tạo điều kiện hỗ trợ nhau cùng phát triển. Theo
đúng đường lối lãnh đạo của Đảng, ngành Hàng hải đã và đang hợp tác chặt
chẽ với các ngành hướng vào mục tiêu xây dựng nước Việt Nam thành một
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.
3.1.2. Hạn chế, nguyên nhân
* Hạn chế
- Về hoạch định chủ trương
Quá trình hoạch định đường lối lãnh đạo của Đảng đối với các ngành
kinh tế, trong đó có kinh tế biển và KTHH, điểm hạn chế mà chúng ta
thường hay mắc phải là trong nhận thức và tư duy lý luận, làm giảm đi kết
quả mong đợi.
19
Trước thời kỳ đổi mới, do vừa trải qua chiến tranh, cơ sở vật chất, kỹ
thuật bị tàn phá nặng nề, trong đó có cơ sở vật chất của ngành Hàng hải,
nên khi bắt tay vào công cuộc khôi phục đất nước, Đảng ta đã mắc phải tư
tưởng duy ý chí, chủ quan, nóng vội khi tiến hành công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mặc dù đã khắc phục phần
nào những điểm hạn chế trong nhận thức và tư duy lý luận, nhưng trong cách
thức thực hiện vẫn chưa được thể hiện rõ ràng.
Hơn nữa, trong tư duy khai thác biển của người Việt Nam từ trước đến
nay, thường theo lối khai thác “làm ruộng trên cạn”. Động lực vươn ra biển
lớn chưa thực sự rõ ràng, bị chi phối bởi tư duy lợi ích dự án cục bộ thay vì
một mục tiêu đua tranh phát triển lành mạnh và có tầm nhìn xa. Trên thực tế,
cách tư duy như vậy được phản ánh trong việc đầu tư giàn trải thiếu tập trung
cho nghiên cứu, phát triển năng lực và các lĩnh vực kinh tế biển. Trong đó,
đầu tư vào các lĩnh vực thuộc KTHH như khai thác cảng biển, vận tải biển
nhìn chung còn thấp. Sự thiên lệch đó là kết quả tự nhiên, tất yếu của việc
tiếp nối tư duy truyền thống, coi khai thác tài nguyên thô, dựa vào trình độ kỹ
thuật, công nghệ thấp và những năng lực hạn chế là cách thức chủ đạo của
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Về chỉ đạo thực tiễn
Ngành công nghiệp đóng tàu: Trong giai đoạn 2006 - 2008, do có sự
tăng trưởng nóng trong lĩnh vực vận tải biển, đặc biệt là thị trường vận tải
biển thế giới, đã kéo theo việc đầu tư một cách ồ ạt và dàn trải vào ngành
đóng tàu trong nước. Số lượng tàu được đóng trong giai đoạn này vượt quá
so với quy hoạch, trong khi đó trình độ công nghệ lạc hậu so với các nước
trong khu vực và thế giới; vốn kinh doanh rất nhỏ so với nhu cầu, chậm được
bổ sung, lại thiếu những chính sách rất căn bản và cần thiết cho giai đoạn đầu
nhằm tạo môi trường, điều kiện hỗ trợ và bảo hộ thị trường. Chính vì vậy, từ
khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra năm 2008, đã làm cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đóng tàu trong nước gặp rất nhiều
khó khăn.
20
Ngành vận tải biển: Trong quá trình chỉ đạo thực tiễn, do chưa bám sát
được tình hình thực tiễn trong nước và thế giới, nên có những lúc số lượng
doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển tăng quá nhanh, dẫn đến sự cạnh tranh
trong hoạt động kinh doanh. Mặc dù tăng về số lượng tàu nhưng xét về
chủng loại tàu, cơ cấu sở hữu và tình trạng bị lưu giữ của tàu Việt Nam khi ở
các cảng nước ngoài đang có sự bất cập về chủng loại tàu, đội tàu.
Đối với vận tải trong nước, trong bối cảnh giá cước vận tải thấp, hàng
hóa không ổn định, chi phí nhiên liệu và duy tu bảo dưỡng ngày càng tăng
cao, phần lớn vốn lưu động cho tàu hoạt động buộc phải vay với lãi suất cao
nên kinh doanh thua lỗ hoặc hiệu quả rất kém. Có thể nói, với tình trạng trên
đã khiến các doanh nghiệp vận tải biển trong nước gặp khó khăn về tài chính,
nhiều doanh nghiệp phải hủy niêm yết trên sàn chứng khoán hoặc đứng trước
nguy cơ phá sản.
Đối với cảng biển và dịch vụ cảng biển: Trong những năm 2001 - 2011,
Việt Nam chưa có cảng trung chuyển quốc tế và việc kết nối giữa cảng với
đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa còn bất cập; thiếu các trung tâm
phân phối hàng hóa sau cảng; điều kiện đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải
và phòng ngừa ô nhiễm môi trường của cầu cảng, bến cảng còn hạn chế.
Phần lớn các tuyến luồng vào cảng đều có độ sâu hạn chế và luôn bị tác
động mạnh từ thiên nhiên; hệ thống báo hiệu hàng hải đa phần là thiết bị
truyền thống; thiếu hệ thống điều hành, kiểm soát đối với hoạt động hàng
hải (VTS, LRIT…) và chưa hình thành được sự kết nối tương thích giữa
thiết bị trợ giúp hàng hải với hệ thống công nghệ thông tin điện tử viễn
thông hàng hải…
Đa số các cảng biển Việt Nam chủ yếu nằm ở khu đông dân cư, do đó
các chi phí phát sinh như kẹt đường, kẹt cầu, chi phí vận chuyển cao... cũng
khiến cho ngành kho vận, vận tải của doanh nghiệp sẽ không thể đủ sức cạnh
tranh với các nước khác. Chính vì vậy, chi phí vận tải của Việt Nam cao hơn
so với nhiều nước trên thế giới.
- Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế trong phát triển KTHH từ năm 1996 đến năm 2011, đều
xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Những nguyên
21
nhân chủ quan là chính, đáng chú ý là việc quán triệt, triển khai thực hiện chủ
trương của Đảng về phát triển KTHH của một số cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ
sở sản xuất, kinh doanh còn nhiều bất cập, chưa thực sự bám sát thực tiễn và xu
thế phát triển của thế giới. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, sỹ quan, thủy thủ,
thuyền viên trình độ còn hạn chế, nhất là trình độ ngoại ngữ, chuyên ngành còn
kém. Hệ thống pháp luật chưa đảm bảo sự thông thoáng cho hoạt động vận tải
biển, cảng và dịch vụ cảng biển.
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Từ thực tiễn Đảng lãnh đạo phát triển KTHH (1996 - 2011), bước đầu
rút ra một số kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
3.2.1. Không ngừng nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế
biển, kinh tế hàng hải, từng bước xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế biển, kinh tế hàng hải
3.2.2. Chú trọng công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế hàng hải trong thời kỳ mới
3.2.3. Chỉ đạo phát triển kinh tế hàng hải toàn diện, đồng bộ, có trọng
điểm và gắn với các ngành kinh tế khác
3.2.4. Tích cực, chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế
hàng hải
3.2.5. Phát triển kinh tế hàng hải gắn với quốc phòng, an ninh bảo vệ
biển, đảo của Tổ quốc
3.2.6. Tăng cường, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước trong phát triển kinh tế hàng hải
Tiểu kết chương 3
Trải qua quá trình 15 năm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển KTHH
(1996 - 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện được vai trò, cũng như
năng lực lãnh đạo của mình đối với KTHH.
Dưới ánh sáng đường lối của Đảng, với tinh thần đoàn kết và sự nỗ lực
phấn đấu không ngừng của toàn ngành Hàng hải như: Công nghiệp đóng tàu,
vận tải biển, cảng và dịch vụ cảng biển,… đã giành được nhiều thành tựu
quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển KT-XH của đất nước và nâng
22
cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, KTHH vẫn còn những
hạn chế cả trong nhận thức lý luận và chỉ đạo thực hiện. Những hạn chế đó
do những nguyên nhân khách quan, chủ quan mang lại. Trên cơ sở đó, luận
án đã rút ra sáu kinh nghiệm lịch sử trong lãnh đạo phát triển KTHH từ
năm 1996 đến năm 2011 của Đảng, những kinh nghiệm đó có ý nghĩa hiện
thực to lớn.
KẾT LUẬN
1. Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, phía Đông, Nam và Tây
Nam giáp Biển Đông với đường bờ biển dài 3.260km. Vùng biển, thềm lục
địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán rộng hơn 1 triệu km 2, có nhiều vịnh
sâu, đẹp với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa ở giữa Biển Đông. Việt Nam là một quốc gia biển, có vị trí
chiến lược về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh. Dó
đó, vấn đề khai thác nguồn lợi biển, quản lý, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc
đang đặt ra như một tất yếu có từ rất sớm đối với dân tộc Việt Nam.
2. Kinh tế biển trong đó có KTHH có vị trí, vai trò quan trọng trong
chiến lược phát triển KT-XH của đất nước, góp phần quan trọng trong việc
củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh trên biển, vùng biển Việt Nam.
Xuất phát từ vị trí, vai trò kinh tế biển, KTHH; từ thực trạng phát triển
KTHH sau năm 1996 cùng với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, từ đó Đảng Cộng sản
Việt Nam đã từng bước đề ra chủ trương phát triển KTHH (1996 - 2011). Đó
là hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát
triển KTHH. Đồng thời, luôn bám sát thực tiễn, tích cực, chủ động chỉ đạo phát
triển KTHH, trong đó tập trung chỉ đạo vào các lĩnh vực chủ yếu: Đóng tàu,
vận tải biển, cảng và dịch vụ cảng biển, xây dựng nguồn nhân lực và hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực hàng hải. Từ đó, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với phát triển kinh tế biển, KTHH - Nhân tố quyết định đảm bảo cho
KTHH phát triển nhanh và bền vững.
23
3. Với chủ trương đúng đắn, sáng tạo, chỉ đạo thực tiễn sát sao, kịp thời
của Đảng trong phát triển KTHH từ năm 1996 đến năm 2011, do đó KTHH
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả trong tư duy lý luận và chỉ đạo
thực tiễn. Trong suốt 15 năm (1996 - 2011), KTHH tập trung chủ yếu vào
ngành công nghiệp đóng tàu, vận tải biển, cảng và dịch vụ cảng biển đã có
những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, đã dần chuyển dịch đầu
tư theo chiều sâu, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển KT-XH của đất
nước, nâng cao đời sống nhân dân và vị thế, uy tín của cách mạng Việt Nam,
kinh tế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu có ý nghĩa quan trọng đó, trong
những năm 1996 - 2011, KTHH vẫn còn một số hạn chế, yếu kém trong
hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực tiễn như: Tư duy khai thác biển của
người Việt Nam vẫn còn theo lối mòn truyền thống “làm ruộng trên cạn”;
nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân chưa đầy đủ về vị trí, vai trò
của biển đối với phát triển KT-XH của đất nước. Do đó, trước năm 2007,
Việt Nam vẫn chưa đề ra được chiến lược biển. Trong chỉ đạo thực tiễn,
những hạn chế do chưa nắm bắt kịp thời xu thế phát triển của ngành Hàng
hải thế giới, nên chậm trong chuyển hướng đầu tư vào những lĩnh vực
trọng điểm của ngành như đóng tàu, vận tải biển, cảng biển và dịch vụ
hàng hải…, việc đầu tư ồ ạt vào ngành đóng tàu, vận tải biển trong giai
đoạn 2002 - 2008, trong khi nhu cầu vận chuyển hàng hóa bằng đường
biển đã bão hòa thậm chí sụt giảm, đã làm cho một số tổng công ty, công
ty hàng hải trong nước làm ăn thua lỗ và rơi vào phá sản. Đối với cảng
biển, có thời kỳ các tỉnh đua nhau xây dựng cảng biển nhưng chủ yếu là
cảng nhỏ, trong khi Việt Nam chưa có một cảng trung chuyển quốc tế và
việc kết nối giữa các cảng với đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa
còn bất cập, thiếu trung tâm phân phối hàng hóa sau cảng. Những hạn chế
trên đã khiến cho ngành HHVN phải gồng mình vươn lên khắc phục khó
khăn, giải quyết hậu quả để phát triển, xứng tầm với vị thế là một quốc gia
biển và đang đi lên làm giàu từ biển.
4. Từ thực trạng quá trình Đảng lãnh đạo phát triển KTHH (1996 2011), luận án rút ra sáu kinh nghiệm gồm: Không ngừng nâng cao nhận