Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Vấn đề dân tộc theo quan điểm Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.18 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam, là một nhà
cách mạng lỗi lạc, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Hồ
Chí Minh là một anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ tiên phong của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế và cũng là một nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.
Tại Đại hội VII của Đảng ( năm 1991) đã khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng
Sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh được khai thác
qua nhiều khía cạnh, một trong những vấn đề quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí

1


Minh là vấn đề dân tộc. Để làm rõ vấn đề, chúng em xin chọn đề tài số 5: “ Vấn đề
dân tộc theo quan điểm Hồ Chí Minh”.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Các nội dung trong tư tưởng Hồ
Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với các thời kì hoạt động của Hồ Chí
Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế vào đầu và giữa thế kỷ XX.
1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê-nin về vấn đề dân tộc

Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những vấn đề về kinh tế, chính trị, lãnh


thổ, pháp lí, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc các nhóm dân tộc và bộ tộc. Dân
tộc là cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân của một quốc gia , có lãnh thổ
chung, quốc ngữ chung, nền kinh tế thống nhất có truyền thống văn hóa, truyền
thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác: Dân tộc là một sản phẩm của lịch sử. MácĂnggen đãn đặt nền tảng lí luận cho việc giải quyết dân tộc một cách khoa học. C.
Mác và Ănggen đã có những quan điểm cơ bản có tính phương pháp luận để nhận
thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc , bản chất, những quan điểm cơ bản, thái độ
của giai cấp công nhân và Đảng của giai cấp công nhân với vấn đề dân tộc.
Lênin đã phát triển quan điểm về dân tộc thành hệ thống quan điểm lí luận toàn
diện và sâu sắc , tạo cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách dân tộc của các
Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Các dân tộc có
quyền tự quyết trong việc lựa chọn chế độ chính trị, xu hướng phát triển đi lên.
Đoàn kết giai cấp công nhân, những người lao động chính quốc và thuộc địa chống
chủ nghĩa đế quốc , khắc phục tâm lí dân tộc nước lớn, kì thị dân tộc, tự ti dân tộc.
2.

Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Vấn đề dân tộc được đề cập đến trong quan điểm của Hồ Chí Minh được thể
hiện tập trung chủ yếu ở các nội dung về dân tộc thuộc địa ở Việt Nam, tư tưởng
về độc lập tự do và mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp.
2


a.

Vấn đề dân tộc thuộc địa ở Việt Nam

Sau cách mạng tháng 10 Nga, CNTB chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc
quyền tư bản đi xâm lược và áp bức bóc lột các dân tộc nhược tiểu thì bắt đầu thời

đại đế quốc chủ nghĩa và xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa.
Từ tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo,
số ra ngày 16-17/7/1920. Luận cương của V.I. Lênin với 12 luận điểm đặc biệt
quan trọng, đề cập đến những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở: Như
quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc; tình đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô
sản ở các nước tư bản và cuộc đấu tranh của nhân dân ở các thuộc địa; về vấn đề
chính quyền…đã đem đến Nguyễn Ái Quốc một định hướng chính trị rõ ràng và
Người khẳng định chắc chắn: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!” Người đã tìm được
đường lối cứu nước: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng rồi đi
tới xã hội cộng sản tức là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tháng 12
năm 1920: tại Đảng xã hội Pháp (Đại hội Tua), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người trở
thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa Mác- Lê nin. Việc tiếp cận với bả Sơ thảo luận cương của Lê-nin đã
đem đến cho Hồ chí Minh những nhận thức mới, sáng rõ hơn về cách mạng thuộc
địa, về con đường giải phóng dân tộc khỏi gong cùm nô lệ và con đường giành độc
lập tự do cho đồng bào.
Từ năm 1923 đến năm 1924 Hồ Chí Minh sang Liên Xô, lúc đầu để tham dự
Hội nghị quốc tế nông dân và được bầu vào Đoàn chủ tịch. Sau đó Người được lưu
lại và tham quan triển lãm kinh tế quốc dân Liên Xô, sau đó vào học lớp bồi dưỡng
tại trường Đại học Phương Đông. Ngày 17/6/1924, Hồ Chí Minh tham dự Đại hội
V Quốc tế Cộng sản, đại hội họp tại cung Anđrâyépxki trong Điện Kremli
(Mátxcơva) với sự tham gia của 504 đại biểu của 49 Đảng Cộng sản và Đảng Công
nhân thay mặt cho 1.319.000 đảng viên cộng sản trên toàn thế giới và 10 tổ chức
quốc tế. Đại hội đã tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm về đấu tranh giai
cấp từ năm 1918 đến năm 1923 và đề ra chủ trương tăng cường công tác xây dựng
các Đảng Cộng sản để lãnh đạo phong trào đấu tranh thực hiện những mục tiêu lâu
dài của cách mạng và những quyền lợi thiết thực của quần chúng. Đại hội cũng chỉ

3


rõ phương hướng, nhiệm vụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là phải
đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương, cơ hội, chống những phần tử phái hữu và
trốtxkít. Qua đó, Người đã kế thừa và tiếp tục phát triển những quan điểm cơ bản
của Lê- nin trong bản Sơ thảo luận cương. Người đã rất quan tâm đến vận mệnh
của các dân tộc thuộc địa và các phong trào đấu tranh của nhân dân chống lại sự
xâm lược và ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Đặc biệt sau đại chiến thế
giới lần thứ II, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự tan rã
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc và làm xuất hiện các quốc gia dân tộc
độc lập. Vấn đề độc lập thực sự và chưa thực sự khác xa nhau.
Người cũng đưa ra vấn đề dân tộc và thuộc địa ở Việt Nam đó là giành độc lập
cho dân tộc là trước hết. Hồ Chí Minh sớm khẳng định cách mạng ở thuộc địa
trước hết là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, yếu tố dân tộc là yếu tố hàng
đầu quyết định tính độc đáo của cách mạng thuộc địa. Vấn đề sống còn của các dân
tộc thuộc địa là phải thoát khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa đế quốc đoàn kết toàn dân
trên cơ sở khối liên minh công – nông thành một sức mạnh dân tộc. Người cũng
đưa ra vấn đề về giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng đó
là cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b. Tư tưởng về độc lập tự do của Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý vĩ đại của đời sống xã hội
loài người, một chân lý của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Vấn đề
độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân là mục tiêu hàng đầu, là khao khát cả đời
của Người. Độc lập tự do là tư tưởng quan trọng hàng đầu trong hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh, cũng là động lực, là mục đích thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu
nước. Và Người đã giành cả đời của mình vì độc lập tự do của dân tộc.
Hồ Chí Minh khẳng định, độc lập tự do là các quyền cơ bản, thiêng liêng và bất
khả xâm phạm của tất cả các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, trong đó có

dân tộc Việt Nam. “ Độc lập” ở đây là độc lập của một quốc gia, quốc gia đó
không bị xâm lược, đô hộ của ngoại bang, biên cương bờ cõi được giữ vững, khẳng
định được chủ quyền không bị lệ thuộc về kinh tế, chính trị, văn hóa…. “Tự do” là
con người được làm chủ chính mình. Con người từ khi sinh ra đã có quyền sống,
quyền tự do, hạnh phúc.
Đối với một dân tộc mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự
do của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng: “ Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
4


ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Sinh ra trong cảnh mất nước nhà tan, Bác được nghe và được tận mắt chứng kiến
đất nước ta chịu sự xâm lược của nghìn năm Bắc thuộc, ngót trăm năm đô hộ của
thực dân Pháp . Nhân dân ta phải sống trong cảnh cơ cực, nghèo đói, bóc lột thậm
tệ, vì vậy, đối với mỗi người dân chỉ có độc lập tự do mới giải thoát con người
khỏi những ngày tháng tăm tối đó. Vì độc lập, tự do ta không ngại hy sinh xương
máu để làm nên những chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Hồ Chí Minh cũng đã nói:
“ Suốt đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Như vậy có thể thấy Hồ chí Minh khẳng định
độc lập tự do là quyền bất khả xâm phạm, là khát vọng lớn lao của toàn dân tộc, là
một tư tưởng hết sức đúng đắn, là chân lí của thời đại.
Những cơ sở hình thành các quyền dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là:
+Thứ nhất, từ lịch sử không ngừng đấu tranh để dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam, trong đó tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị
dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh đã tạo nên những giá trị truyền thống
cao quý trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Trong đó tinh thần yêu nước là thứ
tình cảm cao quý thiêng liêng nhất, là cội nguồn của lòng dũng cảm của người Việt
Nam. Chính từ những cuộc đấu tranh không mệt mỏi trong lịch sử dân tộc mà bắt
nguồn từ chính chủ nghĩa yêu nước đã tạo nên một sức mạnh không gì ngăn cản

được đối với khát vọng độc lập, tự do của dân tộc. Hồ Chí minh đã đúc kết: “Dân
ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
+Thứ hai phải kể đến các quyền tự nhiên cá nhân được ghi trong tuyên ngôn
của các nhà nước tư sản. Đó là xuất phát điểm để từ đó Hồ Chí Minh nâng lên
thành các quyền cơ bản của các dân tộc trên thế giới. Người đã tìm đọc và tiếp
nhận những điểm tiến bộ và có giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ là Tuyên
ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
cách mạng Pháp năm 1791 để đi đến khẳng định: “ Đó là những lẽ phải không ai
chối cãi được”. Và “ Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Người tìm mọi cách
thực tế hóa các quyền đó trong xã hội Việt Nam. Hồ Chí Minh quan niệm khi
giành được độc lập thì phải làm cho dân được sống ấm no, hạnh phúc, được lao
động học hành, do đó, sau khi giành được độc lập Người đã phát động các phong

5


trào như hũ gạo cứu đói, bình dân học vụ…. những phong trào này đã phần nào
góp phần phát triển hơn nữa các quyền tự do của con người.
+Sinh ra trong bối cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến sự lầm than của nhân
dân, đã hình thành nên tư tưởng cứu nước, cứu dân trong Hồ Chí Minh. Tư tưởng
độc lập, tự do đã trải qua quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện theo năm
tháng. Tuy quá trình phát triển tư tưởng về độc lập, tự do không dài nhưng đủ để
Người hoàn thiện một chân lí của thời đại, bổ sung vào học thuyết Mác - Lênin.
+Tháng 6 năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp,
Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây bản yêu sách của nhân dân An Nam đòi
chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của

dân tộc Việt Nam. Dù bản Yêu sách chưa đề cập đến vấn đề độc lập hay tự trị và
nó chưa nhận được sự quan tâm của hội nghị Vécxây, nhưng kể từ đây Người đã tỏ
rõ bản lĩnh cách mạng của mình. Cái tên Nguyễn Ái Quốc lần đầu xuất hiện trên
bầu trời cách mạng Việt Nam. Đây là hình thức thử nghiệm đầu tiên của Hồ Chí
Minh về chế độ pháp lý tư sản để đấu tranh với chủ nghĩa tư bản đế quốc và Người
đã rút ra được bài học quý giá “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông
cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
+Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt và trong lời kêu gọi sau khi thành lập
Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng ta là “Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”.
Như vậy tư tưởng độc lập tự do đã phát triển thêm một bước trở thành mục tiêu
chính trị của Đảng.
+Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về nước, ngay sau khi về nước theo
sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh,
thảo 10 chính sách của Việt minh, trong đó mục tiêu hàng đầu là “Cờ treo độc lập,
nền xây bình quyền”. Hồ Chí minh xác định rõ quyết tâm sắt đá của cả dân tộc là
“Dù phải hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập”.
+Năm 1945, tư tưởng về độc lập tự do ở Việt Nam đã trở thành hiện thực.
Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể quốc
dân, đồng bào và nhân dân thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự

6


do, độc lập ấy”. Người quan niệm rằng, độc lập dân tộc phải là một nền độc lập
thực sự, hoàn toàn, gắn với hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Tư tưởng độc lập tự do đã được phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp
và hoàn thiện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Năm 1946, Hồ Chí Minh đề nghị
sẵn sàng ở trong khối liên hiệp Pháp để cống hiến vào thịnh vượng chung của khối
nếu Pháp thừa nhận nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ
quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi vang dội núi sông; “Không! Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Khi đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, năm 1966, dưới tiêu đề “Không có gì quý hơn
độc lập tự do!”, Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của dân tộc Việt Nam.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, tư tưởng ấy đã trở thành lẽ sống, thành
học thuyết cách mạng của Đảng ta và của toàn thể dân tộc Việt Nam. Với tinh thần
đó, dân tộc ta đã buộc kẻ thù phải kí vào các hiệp định (Hiệp định Giơnevơ kí với
Pháp năm 1954; Hiệp định Pari ký với Mỹ năm 1973) thừa nhận và tôn trọng độc
lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nước ta. Khẩu hiệu này chính là nguồn động
lực để nhân dân ta vượt qua mọi gian khổ hy sinh, giành độc lập dân tộc thống nhất
đất nước và giành được những thành quả to lớn trong công cuộc đổi mới. Đồng
thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
c. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp

Hồ Chí Minh đã kế thừa những quan điểm cơ bản của Mác Lê-nin về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng vô sản và Người cũng đã vượt qua
những hạn chế lịch sử của các ông để phát triển quan điểm mới của mình về mối
quan hệ đó là dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con
đường cách mạng vô sản.
Căn cứ vào điều kiện thực tế của Việt Nam Hồ Chí Minh chỉ rõ: cách mạng giải
phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản chính quốc rồi sau đó giúp đỡ an hem mình ở chính
quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Trong mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, Hồ Chí Minh chú trọng hơn tới vấn đề

dân tộc. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân
tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ
ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước
dân tộc độc lập. Vấn đề đó được biểu hiện qua bốn nội dung chính:
7


+Một là, các dân tộc thuộc địa trước hết phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc
mình, sau đó mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+Hai là, không được ỷ lại, chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.
+Ba là, phải dựa vào sức mình là chính, biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai
cấp vô sản và nhân dân lao động tiến bộ toàn thế giới.
+Bốn là, có sự đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Những nội dung này đã được áp dụng hiệu quả vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định “đường lối chiến lược cách mạng của
ta là tiến hành cuộc tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản. Nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và phản cách
mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; lập chính phủ công nông binh, tổ
chức quân đội công nông,…tiến hành cách mạng ruộng đất”. Ta không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc, “đem sức ta tự giải phóng cho ta" , biết tranh thủ
đoàn kết vô sản và nhân dân lao động tiến bộ toàn thế giới để tiến hành cách mạng.
Điều này thể hiện rõ trong nội dung của Chỉ thị toàn dân kháng chiến năm 1946: “…
tính chất, phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp là toàn dân, toàn diện,
trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế”. Nhờ đó, ta đã có sự
đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới qua những sự kiện lớn
như: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã góp phần làm tan rã hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ “đã đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và
tính thời đại sâu sắc” .

Với những quan điểm mới đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhân tố cơ bản để có
thể tiến hành thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc như sau:
+ Thứ nhất, động lực lớn của đất nước là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc.
Theo đó, dân tộc và giai cấp, quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp luôn thống nhất
và phù hợp với lịch sử của xã hội Việt Nam. Bởi vì, trong lịch sử “Chủ nghĩa dân tộc
là động lực lớn của đất nước”. Còn ở thời đại Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc đã
chuyển thành chủ nghĩa yêu nước. Ở Việt Nam “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống như ở phương Tây. Vì thế, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại vừa kế thừa
tinh thần dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh chống ngoại
xâm, vừa khác về bản chất so với chủ nghĩa dân tộc sôvanh và chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi. Nó có nhiệm vụ giải quyết đồng thời hai mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Việt
Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa công,
nông với tư sản, phong kiến trong nội bộ dân tộc. Từ đó, Người đề nghị: “Phát động
8


chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của
họ thắng lợi,… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế” .
+ Thứ hai, đường lối cứu nước là đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo
của cách mạng vô sản, nghĩa là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trên cơ
sở ấy, Hồ Chí Minh chỉ rõ: hai giai đoạn của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản và mục tiêu giải
phóng dân tộc, giai cấp, con người của cuộc cách mạng ấy. Khi cách mạng thành
công, phải thiết lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân, đảm bảo hài hòa giữa độc lập dân tộc với tự do, hạnh phúc
con người. Do vậy, giành được độc lập dân tộc rồi, phải đi lên chủ nghĩa xã hội.
Người viết: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Như vậy, sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa là một bảo đảm vững chắc cho nền độc lập dân tộc.
+ Thứ ba, mục tiêu của cuộc cách mạng không chỉ cho độc lập dân tộc mình mà

còn cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức bóc lột trên thế giới. Với mục tiêu đó,
ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn thống nhất với sức mạnh thời đại. Theo
Hồ Chí Minh, mỗi Đảng Cộng sản trước hết phải chịu trách nhiệm trước dân tộc
mình. Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Người không quên nghĩa vụ quốc tế.
Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn
là tự giúp mình”, đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc đã trở thành vấn đề cần giải quyết trước tiên
của cách mạng Việt Nam. Nước Việt Nam lúc bấy giờ tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản,
đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, tay sai phản động (mâu
thuẫn dân tộc) và mâu thuẫn giữa nông dân – công nhân với địa chủ, tư sản mại bản
(mâu thuẫn giai cấp); trong đó mâu thuẫn chủ yếu và sâu sắc nhất là mâu thuẫn dân
tộc. Do đó, vấn đề đặt ra trước mắt không phải là làm ngay cách mạng vô sản, mà phải
đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, có độc lập mới có địa bàn để làm cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Đồng thời, do yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, Việt Nam cũng như các nước thuộc địa cần phát huy tính chủ động, sáng tạo của
mình trong việc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dựa vào sức mình là chính và tranh
thủ sự ủng hộ quốc tế. Đây chính là những điểm sáng tạo của Người từ quan điểm của
Mác – Lênin về mối quan hệ dân tộc – giai cấp.

C/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng của Hồ Chí Minh thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chue nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm về vấn đề dân
9


tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, đồng thời người
cũng có những cái nhìn mới mẻ về cách mạng vô sản ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã
có cái nhìn đúng đắn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, đó

là đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu, độc lập dân tộc gắn liền với xã hội chủ nghĩa.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị
quốc gia, năm 2005.

-

Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia cán bộ môn khoa
học Mác – Lênin, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc
gia, năm 2003.

-

TS. Nguyễn Mạnh Tường, Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nhận thức cơ
bản, NXB chính trị quốc gia, năm 2009.

-

Lê Mậu Hãn, “Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh”, NXB chính trị quốc gia.

-

/>

-

/>
11



×