Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở giao dịch III – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.39 KB, 69 trang )

Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

VIẾT TẮT

NGHĨA ĐẦY ĐU

1

TCTD

Tổ chức tín dụng

2

WB

Ngân hàng thế giới

3

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

4

NHTMCP


Ngân hàng thương mại cổ phần

5

NHĐT&PTVN

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

6

SGD III

Sở giao dịch III

7

NHNNo

Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT

8

NHBB

Ngân hàng bán buôn

9

ODA


Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức

10

TCNT

Tài chính nông thôn

11

RDF

Quỹ phát triển nông thôn

12

MLF

Quỹ tài chính vi mô

13

PFI/MFI

Các định chế tham gia

14

IDP


Kế hoạch phát triển thể chế

15

TKĐB

Tài khoản đặc biệt

16

IAS

Chuẩn mực kế toán quốc tế

17

VAS

Chuẩn mực kế toán Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng bán buôn là hoạt động ngân hàng hiện đại,
một trong những hình thức kinh doanh mới được đưa vào Việt Nam
cùng với dự án tín dụng phát triển do các tổ chức tài chính quốc tế và
các nước công nghiệp hàng đầu thế giới tài trợ. Theo đó các nhà tài trợ
cung cấp hỗ trợ phát triển cho Chính phủ Việt Nam thông qua mô hình
1
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21



Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

bán buôn tín dụng để tài trợ cho các hoạt động kinh tế vừa và nhỏ, gắn
với việc phát triển DNVVN, phát triển nông nghiệp nông thôn và xóa
đói giảm nghèo tại Việt Nam.
Mặc dù kết quả là khả quan nhưng hoạt động bán buôn tín dụng
còn khá mới mẻ tại Việt Nam nên trong quá trình triển khai hoạt động
còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế nhất định. Vì vậy việc nghiên cứu làm
rõ bản chất, chức năng và tiềm năng phát triển để đưa ra các giải pháp
nhằm phát huy có hiệu quả loại hình kinh doanh này, phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế đất nước nói chung và hoạt động ngành Ngân
hàng nói riêng có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đây là lý do
em chọn đề tài: “Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA
tại Sở giao dịch III – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để
nghiên cứu.

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG NGÂN
HÀNG BÁN BUÔN
1.1. HOẠT ĐỘNG CUA NGÂN HÀNG BÁN BUÔN
1.1.1. Khái niệm hoạt động Ngân hàng bán buôn

2
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

Khoảng một thập kỷ trở lại đây, trong hoạt động ngân hàng, chúng ta đa
quen dần với việc sử dụng các khái niệm hoạt động ngân hàng bán buôn và ngân
hàng bán lẻ.

R.S Sayers và những tác giả trước ông đề cập đến nghiệp vụ ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh là bao gồm những gì mà ngày nay chúng ta coi đó là
nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ. Đây là kiểu ngân hàng hoạt động trong những đường
phố lớn, những vùng nông thôn, do các nhà ngân hàng làm nhiệm vụ thanh toán
séc, giao dịch với các chủ nợ và các công ty có quy mô nhỏ và trung bình.
Khái niệm hoạt động ngân hàng bán buôn (wholesale banking operations)
được sử dụng lần đầu tiên vào cuối thập kỷ 60 của thế kỷ 20 ở Anh (David Cox,
Shelagh Hefernan ở Anh, Geogre H. Hempel, Linda Allen ở Mỹ). Do sự hình
thành và phát triển của các thị trường vốn bán buôn, các ngân hàng khi đó đa bắt
đầu tham gia vào các thị trường này và cho vay đối với số lượng vốn khổng lồ có
được từ đi vay, từ đó hình thành và phát triển nghiệp vụ ngân hàng bán buôn.
Tại Việt Nam, trong vốn từ vựng tiếng Việt chỉ có khái niệm bán buôn tức là
bán cho người kinh doanh trung gian, chứ không bán thẳng cho người tiêu dùng,
đối lại với bán lẻ là bán với số lượng ít và bán trực tiếp cho người tiêu dùng.
Khái niệm ngân hàng bán buôn được sử dụng lần đầu tiên tại Việt Nam vào
năm 1996 khi Việt Nam tiếp nhận dự án ODA từ Ngân hàng thế giới (WB) – Dự
án tài chính nông thôn. Theo đó, chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam làm chức năng: “Ngân hàng bán buôn của dự án” (Công văn số 5551/QHQT
ngày 02/10/1995 của Thủ tướng Chính phủ). Tiếp đó là Hiệp định tín dụng phát
triển của Dự án tài chính nông thôn II, hai bên Việt Nam và WB đa nhiều lần sử
dụng khái niệm Ngân hàng bán buôn. Thủ tướng Chính phủ chấp nhận giao cho
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN) hoạt động Ngân hàng
bán buôn nguồn vốn của dự án. Cụ thể, trong quyết định số 285/QĐ – TTg ngày
18/04/2002 của Thủ tướng Chính phủ về quyết định đầu tư dự án TCNT giai đoạn
II có ghi rõ : “NHĐT&PTVN là Ngân hàng bán buôn của dự án, chịu trách nhiệm
3
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN


quản lý và thực hiện dự án theo đúng những quy định đã được thỏa thuận và thống
nhất với WB”.
Tìm hiểu về tính chất và mục tiêu hoạt động ta thấy hoạt động ngân hàng
bán buôn tại Việt Nam gắn với các dự án sử dụng nguồn vốn ODA của các tổ
chức tài chính quốc tế và các nước viện trợ. Nguồn vốn này thường không có lai
suất (lai suất 0%), chỉ chịu phí dịch vụ từ 0,75 – 1% (tùy từng dự án). Về cơ chế
vận hành thì nhà tài trợ cho Chính phủ vay qua một Ngân hàng bán buôn để ngân
hàng này cho vay lại qua các định chế tài chính được lựa chọn tham gia bán lẻ cho
người vay cuối cùng với lai suất bằng hoặc xấp xỉ với lai suất huy động vốn trên
thị trường tại cùng thời điểm. Ngân hàng bán buôn nhận được phí hoa hồng
(khoảng 2%), phần còn lại trả cho Bộ Tài chính để bù đắp rủi ro ngoại hối và trả
phí cho Nhà tài trợ. Các định chế bán lẻ cho vay tới người vay cuối cùng theo lai
suất thị trường và phải chịu rủi ro cho khoản vay. Xét về bản chất thì loại hình kinh
doanh này giống như bán buôn trong thương mại tức là cung cấp tín dụng qua khâu
trung gian là các định chế tài chính chứ không cho vay thẳng tới khách hàng.
Sau khi xem xét việc sử dụng khái niệm này tại các nước khác nhau trên thế
giới và việc sử dụng nó trong điều kiện hệ thống ngân hàng Việt Nam, ta có thể đi
tới một khái niệm sát với cách hiểu thông dụng như sau:
Hoạt động Ngân hàng bán buôn là dịch vụ ngân hàng dành cho các định
chế tài chính và các dịch vụ ngân hàng được cung ứng với số lượng lớn.
Các hoạt động ngân hàng thỏa man nội hàm của khái niệm này có thể bao
gồm hoạt động bán buôn tín dụng ODA, những giao dịch lớn trên thị trường liên
ngân hàng, các giao dịch lớn trên thị trường công cụ nợ Chính phủ, hoạt động đồng
tài trợ và một số hoạt động khác. Trong số đó, hoạt động bán buôn nguồn vốn
ODA là đáng chú ý và có ý nghĩa thực tiễn nhất.
1.1.2. Vai trò của hoạt động Ngân hàng bán buôn

4
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21



Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

- Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tài trợ Quốc tế thành các khoản tín
dụng cho các tổ chức kinh doanh, cá nhân và các thành phần khác sử dụng theo
đúng mục đích và yêu cầu của phía nhà tài trợ.
- Vai trò thực hiện chính sách: Một vai trò quan trọng của hoạt động Ngân
hàng bán buôn đó là thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần điều
tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xa hội.
Ngoài ra, hoạt động ngân hàng bán buôn cũng có một số vai trò khác như:
vai trò thanh toán, vai trò bảo lanh, vai trò đại lý,…
1.1.3. Những nội dung chủ yếu của hoạt động Ngân hàng bán buôn
Hoạt động huy động vốn
Nhu cầu vốn cho hoạt động của ngân hàng bán buôn là rất lớn. Ngân hàng
không chỉ huy động nguồn vốn từ các nguồn thông thường như tiền gửi tiết kiệm
của dân cư, tiền gửi thanh toán của dân cư và tổ chức kinh tế, tiền gửi có kỳ hạn
của TCKT và TCTD,… mà chủ yếu huy động vốn từ các nguồn vốn tín dụng quốc
tế, đặc biệt là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA.
Hoạt động cho vay
Trên cơ sở vốn lớn huy động được từ các nhà tài trợ như WB, Ngân hàng
Phát triển Châu Á, Quỹ tiền tệ Quốc tế,… sử dụng để cho vay chủ yếu dưới hình
thức cho vay bán buôn. Đây là hoạt động ngân hàng bán buôn chủ yếu, cho vay các
định chế tài chính bán lẻ trong hạn mức tín dụng với lai suất gần bằng lai suất huy
động vốn trên thị trường để tài trợ cho các hoạt động kinh tế quy mô vừa và nhỏ
trên phạm vi toàn quốc.
Hoạt động dịch vụ khác
Dịch vụ nhận ủy thác của các nhà tài trợ quốc tế và chính phủ: Nhận, quản
lý và phân phối nguồn vốn hỗ trợ phát triển từ các nhà tài trợ quốc tế và Chính phủ
để cho vay lại sau đó thu hồi và hoàn trả cả gốc và lai cho Chính phủ hoặc trả trực

tiếp cho nhà tài trợ.

5
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

Dịch vụ tư vấn tài chính: Cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính cho các định chế
tài chính bán lẻ, đặc biệt là tư vấn về tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tài chính vi
mô, tư vấn về việc lập và thực hiện kế hoạch tăng cường năng lực thể chế, kế
hoạch tài chính, quản lý tiền mặt…
Quản lý tiền mặt trên các tài khoản của Quỹ quay vòng của Ngân hàng bán
buôn và của các định chế tài chính bán lẻ
1.2. VỐN ODA VÀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG BÁN BUÔN VỐN ODA
1.2.1. Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
ODA là tên viết tắt của ba chữ cái đầu trong tiếng Anh: “Official
Development Assistant” có nghĩa là: “Hỗ trợ phát triển chính thức”.
Năm 1972, lần đầu tiên Tổ chức hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD) đa
đưa ra khái niệm về ODA như sau:
“ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc
đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài
chính của các giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn
lại chiếm ít nhất là 25%.”
Những quan điểm về ODA thay đổi cùng với quá trình phát triển của nền
kinh tế thế giới. Trước đây, đặc biệt là những năm trước thập kỉ 70 thế kỉ 20, ODA
được coi là nguồn vốn viện trợ ngân sách của các nước phát triển dành cho các
nước chậm phát triển và đang phát triển. Theo quan điểm này, ODA chủ yếu mang
tính tài trợ. Ngày nay, trong thời kỳ toàn cầu hóa đa hình thành một xu thế hoàn
toàn mới. Quan điểm mới này cho rằng, ODA là một hình thức hợp tác phát triển

của các nước công nghiệp hóa và các tổ chức tài chính quốc tế với các nước chậm
phát triển và đang phát triển. ODA sẽ mang lại lợi nhuận cho cả hai bên nước tiếp
nhận vốn ODA cũng như bên tài trợ. ODA đem lại cho các nước nhận viện trợ một
nguồn vốn lớn, ưu đai để đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế. Trong
khi đó, các nước nhận viện trợ thường gắn vốn viện trợ với việc mua hàng hóa và
6
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

dịch vụ trong nước, làm chủ thị trường xuất khẩu, đem lại lợi nhuận cho hàng hóa,
dịch vụ trong nước. Ngoài ra, ODA còn dọn đường cho nguồn vốn đầu tư trực tiếp
của nước ngoài (FDI) chảy vào các nước nhận viện trợ.
Hình thức cung cấp ODA gồm 3 hình thức đó là:
- ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp ODA mà bên nhận không phải
hoàn trả cho bên tài trợ.
- ODA cho vay ưu đai (còn gọi là tín dụng ưu đai): nhà tài trợ cho nước cần
vốn vay với lai suất vào điều kiện ưu đai sao cho “yếu tố không hoàn lại” đạt
không dưới 25% tổng giá trị khoản vay.
- ODA hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại
và một phần ODA cho vay (ưu đai hoặc cho vay thương mại).
Phương thức cung cấp ODA bao gồm: (i) Hỗ trợ cán cân thanh toán; (ii) Hỗ
trợ chương trình; (iii) Hỗ trợ dự án.
Viện trợ nước ngoài (bao gồm cả không hoàn lại và cho vay ưu đai) thường
gắn kết với hai mục tiêu cơ bản như:
- Thúc đẩy tăng trưởng dài hạn và giảm đói nghèo ở những nước đang phát
triển.
- Tăng cường lợi ích chiến lược và chính trị của những nước tài trợ đối với
các nước nhận viện trợ.

Đối với các nước nhận viện trợ thì nguồn ODA có nhiều lợi thế như lai suất
thấp, thời hạn vay dài, thời gian ân hạn dài… và những yếu tố này đa tạo nên phần
cho “không” kết tinh trong chính nguồn vay ODA ở mức cao từ 25% đến 100% mà
các nguồn vốn huy động từ nước ngoài không thể nào có được. Chính điều đó làm
cho Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức dần dần trở thành nguồn vốn nước ngoài
đóng vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược huy động và sử dụng của các nước
đang phát triển để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế và trở thành một trong
những nhu cầu tất yếu khách quan.
1.2.2. Hoạt động Ngân hàng bán buôn vốn ODA

7
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

Sau chiến tranh thế giới thứ II, tình hình kinh tế các nước gặp nhiều khó
khăn, các Tổ chức tài chính quốc tế đa thực hiện viện trợ hỗ trợ phát triển chính
thức cho các nước Châu Âu.
Sau thành công của hoạt động này, các Tổ chức tài chính quốc tế và các
nước thuộc nhóm G7 đa bắt đầu chuyển từ viện trợ các nước Châu Âu sang chi vay
hỗ trợ phát triển với các nước nghèo thuộc thế giới thứ 3. Tỷ lệ vốn tài trợ tăng cao
nhưng một vấn đề đặt ra đó là hiệu quả sử dụng vốn. Do tác động của các cuộc
khủng hoảng năng lượng vào thập kỷ 70 của thế kỷ 20 cũng như những yếu ké
trong quản lý , sử dụng vốn ODA dẫn đến tình trạng nhiều nước nhận viện trợ tại
Châu Mỹ Latinh, Châu Phi… lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, không có
khả năng trả nợ hoặc tuyên bố phá sản nợ nước ngoài.
Trước thực trạng này, các tổ chức tài chính quốc tế buộc phải xem xét lại
chính sách tài trợ của mình. Các nhà tài trợ quốc tế đa điều chỉnh chiến lược tài trợ
theo hướng hỗ trợ phát triển theo diện rộng bao gồm cả tài trợ cho cơ sở hạ tầng xa

hội như giáo dục, y tế, bình đẳng giới và tài trợ cho các nỗ lực xóa đói giảm nghèo
tại các nước đang phát triển như tài trợ nông nghiệp, tài trợ cho khu vực kinh tế tư
nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Để vốn viện trợ đươc sử dụng và quản lý một cách hiệu quả, các nước nhận
viện trợ đa có rất nhiều sáng kiến áp dụng trong đó đáng chú ý nhất và cũng thành
công nhất là các dự án sử dụng hoạt động ngân hàng bán buôn để cho vay lại qua
các định chế tài chính tại nước nhận viện trợ. Điển hình là thành công của các nước
Philippine, Indonesia…
Tại Việt Nam, khởi đầu của vốn ODA viện trợ là năm 1994 với Dự án Phục
hồi nông nghiệp trị giá 96 triệu USD được WB tài trợ. Sự thành công ban đầu của
dự án này đa tạo niềm tin cho các nhà tài trợ quốc tế để tiếp tục tài trợ cho Việt
Nam. Tổng số vốn đa và đang thực hiện qua thể thức “ngân hàng bán buôn”
khoảng hơn 600 triệu đô la Mỹ, bằng vốn tự có của 5 Ngân hàng thương mại quốc
doanh hiện nay cộng lại, chưa kể hàng trăm triệu USD thuộc hợp phần tín dụng của
8
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

nhiều dự án ODA khác cộng lại. Tất cả các dự án loại này đều sử dụng phương
thức bán buôn theo các biến thể khác nhau. Thực tế hoạt động của các dự án ODA
vận hành theo cơ chế ngân hàng bán buôn tại Việt Nam trng thời gian qua cho
thấy đây là loại hình kinh doanh có hiệu quả cao.
Qua đó chúng ta thấy hoạt động ngân hàng bán buôn được ứng dụng rộng
rãi và có hiệu quả trong bán buôn nguồn vốn tín dụng ODA của nhà tài trợ quốc
tế tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG BÁN BUÔN VỐN ODA
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, tình hình kinh tế các nước gặp nhiều khó
khăn. Các tổ chức tài chính quốc tế đa thực hiện viện trợ hỗ trợ phát triển chính

thức cho các nước Châu Âu.
Sau thành công của hoạt động này, các tổ chức tài chính quốc tế và các nước
thuộc nhóm G7 đa bắt đầu chuyển từ viện trợ cho các nước Châu Âu sang cho vay
hỗ trợ phát triển với các nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Tốc độ giải ngân vốn
ODA dành cho các nước đang phát triển đa tăng lên rất nhanh. Nếu như tại thời
điểm năm 1970, số vốn ODA tài trợ mới chỉ đạt 68,4 tỷ USD thì đến năm 1982,
con số này tăng xấp xỉ 13 lần, đạt 846,6 tỷ USD. Tỷ lệ vốn tài trợ tăng cao nhưng
một vấn đề đặt ra đó là hiệu quả sử dụng vốn. Do tác động của cuộc khủng hoảng
năng lượng vào thập kỷ 1970 cũng như những yếu kém trong khâu quản lý, sử
dụng vốn ODA dẫn đến tình trạng nhiều nước nhận viện trợ tại châu Mỹ la tinh,
Châu Phi… lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, không có khả năng trả nợ và
tuyên bố phá sản nợ nước ngoài.
Trước tình trạng này, các tổ chức tài chính quốc tế buộc phải xem xét lại
chính sách tài trợ của mình. Họ nhận ra rằng muốn viện trợ ODA hiệu quả, bền
vững, việc hỗ trợ nguồn vốn phải gắn với các chương trình cải cách kinh tế, thúc
đẩy phát triển thị trường trong nước gắn với khu vực tư nhân và xóa đói giảm
nghèo. Một nền móng vững chắc, một nền kinh tế phát triển sẽ đem lại hiệu quả
9
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

dài lâu cho vốn ODA tài trợ. Chính vì vậy các nhà tài trợ quốc tế đa đặt thêm nhiều
điều kiện đối với các nước muốn vay ODA trong đó buộc các nước nhận viện trợ
phải tiến hành điều chỉnh cơ cấu hay đổi mới kinh tế. Mặt khác, các nhà tài trợ
cũng thay đổi mục tiêu tài trợ, gắn mục tiêu phát triển kinh tế với các mục tiêu xa
hội khác như phúc lợi xa hội, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường, đảm bảo
tăng trưởng bền vững. Các nhà tài trợ quốc tế đa điều chỉnh chiến lược tài trợ theo
hướng hỗ trợ phát triển theo diện rộng bao gồm tài trợ cho cơ sở hạ tầng xa hội như

giáo dục, y tế, bình đẳng giới và tài trợ cho các nỗ lực xóa đói giảm nghèo tại các
nước đang phát triển như tài trợ nông nghiệp, nông thôn, tài trợ cho khu vực kinh
tế tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Để vốn viện trợ được sử dụng và quản lý một cách hiệu quả, các nước nhận
viện trợ đa có nhiều sáng kiến áp dụng, trong đó đáng chú ý nhất là các dự án sử
dụng hoạt động ngân hàng bán buôn để cho vay lại qua các định chế tài chính tại
nước nhận viện trợ.
Do nhà tài trợ ODA và chính phủ nước nhận viện trợ không thể trực tiếp tài
trợ và giám sát một số lượng lớn các tiểu dự án nhỏ, họ phải ủy thác trách nhiệm
này cho đơn vị thực hiện dự án. Đơn vị thực hiện dự án tốt nhất ở đây là các ngân
hàng phát triển hoặc các ngân hàng thương mại được Chính phủ chấp nhận. Đây là
phương cách hiệu quả nhất về mặt chi phí.
Nguồn vốn ODA thường có lai suất ưu đai nên nó cho phép trả một khoản
phí cho ngân hàng bán buôn (chi phí hoạt động, giám sát và thu hồi nợ) mà vẫn
không làm lai suất tăng cao.
Ngoài việc cung cấp nguồn vốn cho phát triển, Chính phủ và nhà tài trợ còn
tăng cường năng lực thể chế cho hệ thống trong nước. Việc này giúp cho các nước
nhận viện trợ tăng khả năng hấp thụ vốn đồng thời cho phép phân phối và sử dụng
hiệu quả hơn nguồn vốn vay.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bán buôn vốn ODA:
- Năng lực của các định chế tài chính được chọn.
10
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

- Công tác kiểm tra, giám sát các khoản vay của Chính phủ, các Bộ, ngành
chủ quản…
- Năng lực của các cán bộ làm dự án.

1.4. KINH NGHIỆM BÁN BUÔN VỐN ODA CUA MỘT SỐ NƯỚC
Với tính chất ưu đai của nguồn vốn ODA là thời hạn cho vay dài, thời gian
ân hạn cao cộng với điều kiện cho vay ưu đai quy ra yếu tố cho không chiếm tỷ
trọng tương đối lớn trong tổng nguồn vốn cho vay, do đó vốn ODA đa trở thành
một trong những nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược huy
động và sử dụng vốn nước ngoài của các nước đang phát triển.
Các bài học kinh nghiệm rút ra từ việc tổng kết các dự án tín dụng ở một số
nước bao gồm:
Thứ nhất, vốn ODA phải được giám sát, quản lý chặt chẽ từ trung ương đến
địa phương.
Thứ hai, phải có sự quản lý phối hợp giữa các bộ, ngành chủ quản, các cơ
quan chức năng của địa phương và ban quản lý dự án nhằm tăng cường giám sát,
đảm bảo việc sử dụng vốn vay hiệu quả nhất, đúng mục đích của nhà tài trợ.
Thứ ba, việc lựa chọn các định chế tài chính vững mạnh rất quan trọng
trong quá trình triển khai dự án ODA.
Thứ tư: đội ngũ cán bộ thực hiện dự án có trình độ là một yếu tố không kém
phần quan trọng góp phần thực hiện thành công các dự án ODA.

11
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG BÁN
BUÔN VỐN ODA TẠI SỞ GIAO DỊCH III

2.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CUA SỞ GIAO DỊCH III – NGÂN
HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Sự hình thành và phát triển của Dự án tài chính nông thôn I do Ngân hàng

Thế giới WB tài trợ được thực hiện bởi Ban quản lý các dự án Tín dụng quốc tế –
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đa mang đến Dự án TCNT II cho Việt Nam. Tuy
nhiên, với sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam cũng như đáp ứng yêu cầu
của WB, Thủ tướng Chính phủ đa ra Quyết định số 285/QĐ-TTg ngày 18 tháng 4
năm 2002 giao trách nhiệm cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đóng vai
trò chủ đầu tư Dự án tín dụng Quốc tế lớn phát triển nông thôn Việt Nam, hoạt
động với tư cách ngân hàng thực hiện phục vụ dự án. Đồng thời thống đốc Ngân
hàng Nhà nước đa ra Quyết định 167/QĐ-NHNN ngày 14 tháng 6 năm 2002 bàn
giao nhiệm vụ của Dự án TCNT I do Ban quản lý các Dự án tín dụng Quốc tế của
NHNN sang cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Theo Quyết định số 39/QĐ-HĐQT ngày 1/7/2003 của Hội đồng Quản trị
NHĐT&PTVN, Sở Giao dịch III được thành lập như một chi nhánh cấp I của
NHĐT&PTVN với nhiệm vụ chính là đảm nhiệm vai trò chủ Dự án Tài chính nông
thôn I và II, đồng thời đảm nhận chức năng đại lý ủy thác của NHĐT&PTVN.
SGD III là một đơn vị hạch toán phụ thuộc trong hệ thống của NHĐT&PTVN, có
bảng cân đối kế toán, con dấu riêng. Do đặc thù trong hoạt động, SGD III được
quyền độc lập cao hơn các chi nhánh khác của NHĐT&PTVN, được quyền giao
dịch trực tiếp với các đối tác nước ngoài và các PFI trong nước.

12
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Sở Giao dịch III
Trải qua 8 năm thành lập và phát triển (2003 - 2010), từ chỗ chỉ có 9 phòng
và 1 tổ với khoảng 60 nhân viên, SGD III đa phát triển thành 14 phòng với hơn
100 nhân viên.
Mô hình tổ chức của Sở Giao dịch III được sắp xếp thành 4 khối như sau:

- Khối quản lý dự án: gồm các phòng: Quản lý dự án, Lựa chọn các định
chế, Thẩm định, Môi trường, Đào tạo và Quản lý thông tin.
- Khối quản lý nội bộ: gồm các phòng: Tổ chức hành chính, Tài chính kế
toán, Kế hoạch nguồn vốn.
- Khối tín dụng: gồm các phòng: Tổ chức hành chính, Tài chính kế toán, Kế
hoạch nguồn vốn.
- Khối dịch vụ khách hàng: Phòng Dịch vụ khách hàng, Thanh toán Quốc tế,
Tiền tệ kho quỹ.
Với đặc thù là ngân hàng bán buôn vốn ODA nên tại Sở Giao dịch III hiện
nay, khối Quản lý dự án là khối phát triển hơn cả. Khối Tín dụng và Dịch vụ khách
hàng gồm hầu hết các phòng mới được thành lập và cơ cấu lại với mục đích phát
triển cả nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ nên chưa phát triển như ở các ngân hàng
thương mại khác. Trong tương lai, việc phát triển hai khối dịch vụ này được chú
trọng hàng đầu nhằm đa dạng hóa hoạt động, nâng cao tính cạnh tranh cũng như
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

2.1.2. Tình hình hoạt động của Sở Giao dịch III

13
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

Về tình hình hoạt động kinh doanh, Sở Giao dịch III là chi nhánh mới thành
lập nhưng lợi nhuận kinh doanh rất khả quan, đem lại nguồn lợi nhuận hàng trăm
tỷ đồng mỗi năm cho NHĐT&PTVN.
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu chủ yếu của Sở Giao dịch III NHĐT&PTVN
Năm 2009
STT


Chỉ tiêu

TH
năm
2008

KH

14.027 16.856 300% 4.245
1.069 1.109 104%
-12

I
1
2

Chỉ tiêu quy mô
Tổng tài sản
Dư nợ D/A TCNT I

12.611
1.121

3

Dư nợ D/A TCNT II

2.465


So với năm
TH
% so
2008
đến
với
31/12/
Tuyệt (%)
KH
2009
đối

2.932 3.019 104%

- Cấu phần A
2.355
2.800 2.887
- Cấu phần B
110
132
132
4 Dư nợ DLUT
4.320
5.153 4.994
5 Số vốn mới (triệu USD)
742
1.000 1.450
6 Dư nợ thương mại
100
32

7 Huy động vốn cuối kỳ
3.656
3.600 6.526
8 Huy động vốn bình quân
2.701
3.940
9 Định biên lao động
82
100
106
II Chỉ tiêu hiệu quả
1 Nợ quá hạn (%)
<1
<1
<1
2 Chênh lệch thu chi
104,2
116,8
171
3 Trích DPRR
10,4
29,8
4 Lợi nhuận trước thuế
93,8
141
5 Thu dịch vụ ròng
6,4
10 15,3
6 CL thu chi/ lao động bq
1,27

2
7 Sử dụng HM D/A TCNT II (%)
93
84
III Chỉ tiêu chính theo WB
1 Số định chế tham gia dự án
23
25
2 Tỷ trọng DN TDH RDF II (%)
90
<75
84
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD III NHĐT&PTVN)
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
14
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21

34%
-1%

554

23%

119%
532
100%
22
81%
674

145%
708
32%
181% 2.870
1.239
24

23%
20%
16%
95%

146%

67

64%

153%

47 50%
9 139%
0,6 46%
2

79%
46%
29%



Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

- Tổng tài sản đạt 16.856 tỷ VNĐ, hoàn thành 300% kế hoạch, tăng 4.245 tỷ
đồng (34%) so với năm 2008.
- Huy động vốn đạt 6.526 tỷ VNĐ, hoàn thành 181% kế hoạch, tăng 2.870 tỷ
đồng (79%) so với năm 2006.
- Dư nợ Dự án TCNT đạt 4.128 tỷ đồng, hoàn thành 131% kế hoạch năm,
trong đó Dư nợ Dự án TCNT II – cấu phần tín dụng – đạt 2.816 tỷ đồng, tăng 23%
so với năm 2.008 và hoàn thành 119% kế hoạch năm.
- Hoạt động đại lý ủy thác cũng đa phát huy được vai trò đầu mối quản lý
hoạt động dịch vụ đại lý ủy thác của toàn ngành. Đến 31/12/2009, SGD III đa tiếp
nhận ủy thác phục vụ 14 chương trình, dự án với tổng số ủy thác đạt tương đương
1.450 triệu USD, đạt 145% kế hoạch năm.
- Triển khai cho vay thương mại theo đúng định hướng với số vốn cam kết
760 tỷ đồng và dư nợ đến hết 31/12/2009 đạt 32 tỷ đồng.
- Chênh lệch thu chi chưa trích DPRR đạt 171 tỷ đồng, hoàn thành 146% kế
hoạch năm và chênh lệch thu chi trên bình quân đầu người đạt 2 tỷ đồng/người so
với 1,27 tỷ đồng/người năm 2008.
- Lợi nhuận trước thuế đạt 141 tỷ đồng, tăng 47 tỷ đồng (50%) so với năm
2008. ROA đạt 1,07%.
- Thu dịch vụ ròng đạt 15,3 tỷ đồng, đạt 153% kế hoạch năm, đưa thu dịch
vụ ròng bình quân đầu người đạt 179 triệu đồng/người.
Đạt được kết quả như trên phải kể đến sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban
lanh đạo NHĐT&PTVN, sự hỗ trợ tích cực của các Ban, phòng thuộc Hội sở

15
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN


chính, cùng với sự cố gắng, nỗ lực của toàn thể cán bộ, viên chức SGD III để triển
khai thực hiện và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ năm 2009.
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ BÁN BUÔN VỐN ODA TẠI SỞ GIAO DỊCH III
2.2.1. Khái quát về các nguồn vốn ODA tại Sở Giao dịch III
Hiện nay, Sở Giao dịch III đang tiếp nhận một số dự án vốn ODA như dự án
Tài chính nông thôn của Ngân hàng Thế giới (WB), dự án Doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Nhật Bản. Tuy nhiên vốn ODA lớn nhất và có vai trò quan trọng nhất
trong việc hình thành và phát triển Sở Giao dịch III đó là dự án Tài chính nông
thôn do Ngân hàng Thế giới tài trợ.
2.2.1.1. Dự án Tài chính nông thôn I
Từ đầu năm 1995, trên cơ sở tiến hành điều tra, khảo sát đồng thời kết hợp
chặt chẽ với các cơ quan của Chính phủ trong việc phân tích chính sách đầu tư đối
với việc phát triển khu vực nông thôn, WB đa đề ra mục tiêu của Dự án “Tài chính
nông thôn” nhằm hỗ trợ Việt Nam. Ngày 19/7/1996, hiệp định tín dụng phát triển
Dự án TCNT I (Khoản tín dụng số 2855-VN) được kí kết giữa Việt Nam và WB
với tổng trị giá 82,7 triệu SDR (tương đương 120 triệu USD), thời hạn cho vay là
40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn. Lai suất 0%, phí dịch vụ 0,75%/năm, phí cam
kết 0,5%/năm.
Mục tiêu của Dự án là: Cải thiện đời sống tại các vùng nông thôn Việt Nam
thông qua:
- Khuyến khích đầu tư khu vực tư nhân;
- Tăng cường năng lực hệ thống ngân hàng tài trợ cho khu vực tư nhân;
- Tăng khả năng tiếp cận của người nghèo nông thôn tới dịch vụ tài chính.
16
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN


Theo đó, dự án TCNT I có hai cấu phần là: cấu phần tín dụng 112 triệu USD
và cấu phần nâng cao năng lực thể chế 8 triệu USD.
Sơ đồ 2.1: Các cấu phần dự án của Dự án TCNT I
Dự án Tài chính nông thôn I
120 triệu USD

Cấu phần tín dụng
112 triệu USD

Quỹ phát triển
nông thôn

Tăng cường năng lực thể chế
8 triệu USD

Quỹ người nghèo
nông thôn

Xây dựng thể chế

Quản lý dự án

Mô hình hoạt động là mô hình ngân hàng cho vay lại, NHNN (Ban quản lý
các dự án tín dụng quốc tế) là ngân hàng cho vay lại các định chế tài chính được
lựa chọn tham gia. Thời gian thực hiện dự án từ 1996 – 2000 với hai cấu phần lớn
chia thành hai cấu phần như sau:
Cấu phần tín dụng gồm:
Quỹ phát triển nông thôn (RDF): đây là hạn mức tín dụng chung cung cấp
ngắn, trung và dài hạn thông qua các Tổ chức tài chính tham gia (Participating
Financial Institutions – PFI) để tài trợ tài sản cố định và vốn lưu động cho các dự


17
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

án đầu tư của các hộ gia đình, các cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp và
các hoạt động nông thôn khả thi khác.
Quỹ Người nghèo nông thôn (FRP): đây là hạn mức tín dụng dành riêng cho
người nghèo nông thôn. Trong cấu phần này, các khoản tín dụng ngắn, trung và dài
hạn sẽ được cung cấp qua Ngân hàng Phục vụ Người nghèo Việt Nam (VBP) cho
các hộ gia đình nghèo hoặc cho các tương hỗ (JLG) của người nghèo. Khoản tín
dụng trực tiếp này nhằm mục đích khắc phục sự khiếm khuyết của thị trường tín
dụng nông thôn với việc mở cửa thị trường cho các nhóm người trước đó vẫn bị
gạt ra ngoài do điều kiện xa xôi, không có đủ tài sản thế chấp hoặc do tình trạng
thiếu nguồn vốn của các định chế tài chính chính thức.
Cấu phần tăng cường năng lực thể chế gồm:
Xây dựng thể chế: Đây là chương trình Trợ giúp kỹ thuật (Technical
Assistance – TA) và đào tạo nhằm hỗ trợ: (1) các cán bộ, nhân viên của NHNN
trong việc quản lý RDF và FRP, và giám sát các hoạt động ngân hàng bán buôn
vốn còn khá mới mẻ ở Việt Nam, đặc biệt là đánh giá, lựa chọn các PFI tham gia
dự án; (2) hỗ trợ chương trình nâng cao năng lực của các PFI trong việc thẩm định
các tiểu dự án, kế toán, quản lý đầu tư theo danh mục; (3) chương trình trợ giúp
cho việc thiết kế và duy trì các hoạt động của ngân hàng VBP trên cơ sở bền vững
bao gồm cả việc mở rộng tầm với của chương trình đến các nhóm người nghèo; và
(4) chương trình khuyến khích việc thành lập các nhóm trong làng xa và tăng sự
nhận thức về tài chính.
Quản lý dự án: Bên cạnh TA và các chương trình đào tạo, dự án còn hỗ trợ
cho nhân viên và trang bị cho Ban quản lý dự án.

Các cấu phần trên có mối quan hệ chặt chẽ với các mục tiêu của Dự án. Dự
án TCNT I đa được thực hiện thành công và hoàn tất giải ngân và ngày
18
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

31/12/2001, chậm 1 năm so với kế hoạch ban đầu. Dự án đa giải ngân được 100%
cấu phần tín dụng là 113,25 triệu USD, tương đương 1.473,07 tỷ đồng
2.2.1.2. Dự án Tài chính nông thôn II
Dự án Tài chính nông thôn II vay vốn WB được xây dựng trên cơ sở kết quả
và kinh nghiệm thành công của Dự án TCNT I. Tại Quyết định số 285/QĐ-TTg
ngày 18/4/2002, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định đầu tư Dự án TCNT II và giao
cho NHNN làm cơ quan chủ quản và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
làm Chủ dự án. Cũng tương tự như Dự án TCNT I, Dự án II có mục tiêu là hỗ trợ
Việt Nam trong các nỗ lực phát triển kinh tế nông thôn xóa đói giảm nghèo và cải
thiện điều kiện sống của người dân ở khu vực nông thôn thông qua:
- Khuyến khích đầu tư cho khu vực nông thôn, đặc biệt là các hộ gia đình
nông thôn và các doanh nghiệp hoạt động ở các vùng nông thôn;
- Củng cố và tăng cường năng lực của hệ thống Ngân hàng để phục vụ tốt
hơn cho kinh tế nông thôn;
- Tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo nông thôn đến các dịch vụ
tài chính chính thức.
Dự án TCNT II (khoản tín dụng số 3648-VN) được thực hiện cho vay lại
thông qua hệ thống ngân hàng Việt Nam và không đòi hỏi có vốn đối ứng từ phía
Chính phủ Việt Nam. Hiệp định tín dụng vay vốn cho Dự án được ký kết ngày
9/9/2002, có hiệu lực từ 14/4/2003 và kết thúc ngày 31/3/2008. Theo Hiệp định tín
dụng, WB tài trợ cho Dự án nguồn vốn 160,2 triệu SDR (tương đương 200 triệu
USD); thời hạn cho vay 25 năm, trong đó 8 năm ân hạn, lai suất 0%, phí dịch vụ

0,75%/năm, phí cam kết 0,5%/năm (phí cam kết thay đổi theo quy định của WB
từng năm).
19
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

Dự án TCNT II được chia thành 2 cấu phần: cấu phần tín dụng 189,7 triệu
USD và cấu phần tăng trưởng năng lực thể chế 10,3 triệu USD.
Sơ đồ 2.2: Các cấu phần của Dự án TCNT II:
Dự án Tài chính nông thôn II
200 triệu USD

Cấu phần tín dụng
189,7 triệu USD

Quĩ phát triển
nông thôn
165,7 triệu USD

Tăng cường năng lực thể chế
10,3 triệu USD

Quĩ tài chính
24 triệu USD

Tăng cường NLTC Tăng cường NLTC
của NHĐT
của các PFI/MFI

2,2 triệu USD
8,1 triệu USD

2.2.1.3. Dự án Tài chính nông thôn III
Tiếp theo sự thành công của Dự án TCNT I và TCNT II, Việt Nam nói
chung và NHĐT&PTVN nói riêng lại là sự lựa chọn của Ngân hàng Thế giới để
triển khai tiếp Dự án TCNT III. Từ đầu năm 2006, Ngân hàng Thế giới đa bắt đầu
các hoạt động chuẩn bị xây dựng Dự án Tài chính Nông thôn III (TCNT III). Mức
vốn dự kiến ban đầu cho Dự án TCNT III tương đương khoảng 100 triệu USD.
Tuy nhiên sau khi đánh giá nhu cầu vốn cho phát triển nông thôn Việt Nam và trên
cơ sở các kết quả tích cực mang lại cho khu vực nông thôn từ việc thực hiện các
Dự án TCNT trước đó, WB đa quyết định nâng mức vốn tài trợ cho Dự án TCNT
III lên 200 triệu USD. Mục tiêu phát triển của Dự án TCNT III là tiếp tục hỗ trợ

20
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

Chính phủ Việt Nam trong các nỗ lực phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn,
xóa đói giảm nghèo thông qua:
- Tăng cường khả năng tiếp cận của các hộ gia đình và doanh nghiệp tư nhân
nông thôn đến các nguồn tài chính một cách bền vững về mặt tài chính và môi
trường.
- Tăng cường năng lực của các định chế tài chính để phục vụ tốt hơn cho
khu vực kinh tế nông thôn;
- Khuyến khích đầu tư hiệu quả của các doanh nghiệp và người dân nông
thôn thông qua việc tăng cường khả năng quản lý và lập kế hoạch kinh doanh.
Dự án TCNT III được thực hiện trong vòng 5 năm bắt đầu từ 2008 đến năm

2013. Dự án được thực hiện trên phạm vi toàn quốc, trừ khu vực của 4 thành phố
lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh, số vốn tài trợ dự kiến tương
đương 200 triệu USD được phân bổ thành 2 cấu phần như sau:
Cấu phần tín dụng được chia thành 2 tiểu cấu phần:
Thứ nhất: Quỹ Phát triển nông thôn III (RDF) có số vốn 175 triệu USD hỗ
trợ giải quyết những khó khăn về nguồn vốn có kỳ hạn cho các định chế tài chính
tham gia Dự án và cho các doanh nghiệp tư nhân nông thôn. Để hướng tới phân
đoạn thị trường có khả năng giảm nghèo lớn nhất, các doanh nghiệp vi mô và nhỏ
ở khu vực nông thôn, các khoản vay lại từ dự án dự kiến sẽ không quá 80.000
USD/khoản vay và dành cho các doanh nghiệp có không quá 50 lao động. Những
khoản vay lại lớn hơn 80.000 USD cũng có thể được chấp thuận nếu doanh nghiệp
sử dụng vốn cho đầu tư ở vùng nông thôn ngoài thành phố cấp II và dự án có tác
động lớn xét về mặt tạo công ăn việc làm.

21
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

Thứ hai, Quỹ tài chính vi mô (Quỹ MLF) có vốn là 10 triệu USD chủ yếu là
dành cấp tín dụng ngắn hạn cho người vay lần đầu ở khu vực nông thôn (là hộ gia
đình hay các doanh nghiệp vi mô). Quy mô khoản vay lại của Cấu phần này được
giới hạn ở mức không quá 500 USD.
Cấu phần Xây dựng năng lực và Phát triển sản phẩm mới
Dự kiến mức vốn dành cho Cấu phần này sẽ là 15 triệu USD và được chia
làm 2 tiểu cấu phần:
Thứ nhất, 10 triệu USD dành cho các định chế tham gia dự án
(NHĐT&PTVN, NHNo và các định chế khác được lựa chọn tham gia dự án) vay
với lai suất ưu đai (tương đương chi phí vốn vay WB) để xây dựng năng lực thể

chế được thiết kế riêng dành cho từng định chế.
Các hoạt động tài trợ gồm:
- Các dịch vụ tư vấn hỗ trợ xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh
chiến lược, kế hoạch phát triển thể chế, tăng cường năng lực cho vay ở khu vực
nông thôn, …
- Đào tạo về các kỹ năng quản trị và hoạt động ngân hàng hiện đại;
- Một phần nhỏ để mua sắm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động quản lý dự
án
Thứ hai, 5 triệu USD còn lại được Chính phủ sử dụng tài trợ dưới hình thức
cấp phát để thực hiện các hoạt động được xem là sản phẩm chung cho hệ thống tài
chính nông thôn Việt Nam, bao gồm cả hỗ trợ kĩ thuật và đào tạo cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, tăng cường năng lực cho
hệ thống Quỹ tín dụng Nhân dân trong việc cung cấp dịch vụ tài chính ở khu vực
22
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

nông thôn, nghiên cứu phát triển sản phầm ngân hàng mới, và hỗ trợ áp dụng các
tiêu chuẩn về môi trường trong hoạt động cho vay.
2.2.2. Thực trạng quản lý bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III
2.2.2.1. Dự án tài chính nông thôn I
Hiệp định Tín dụng Phát triển cho Dự án Tài chính Nông thôn I (Khoản Tín
dụng số 2855-VN) được kí kết tháng 7/1996 giữa Ngân hàng Thế giới (WB) và
nước Cộng hòa Xa Hội Chủ nghĩa Việt Nam và có hiệu lực từ tháng 2/1997. Theo
Hiệp định, WB tài trợ cho Việt Nam số tiền 82,7 triệu SDR (tương đương 113,25
triệu USD khi hoàn thành) để thực hiện dự án.
- Lựa chọn các định chế tài chính tham gia dự án:
Dự án TCNT I được triển khai theo mô hình bán buôn tín dụng. Trong thời

gian này tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại rất yếu kém do đó chỉ
lựa chọn được 5 ngân hàng thương mại và gần kết thúc dự án lựa chọn thêm được
2 ngân hàng thương mại nữa. Danh sách 7 NHTM được lựa chọn tham gia Dự án
TCNT I là NHĐT&PTVN, NHNo&PTNT VN, NHTMCP Đông Á, NHTMCP Á
Châu, NHTMCP Phương Nam, NHTMCP Bắc Á vfa NHTMCP Rạch Kiến. Khi
NHĐT&PTVN tiếp nhận dự án TCNT từ NHNN, theo quy định của nhà tài trợ
WB, chủ dự án không được tham gia trực tiếp bản lẻ tín dụng do đó chỉ còn 6
NHTM tham gia giải ngân dự án TCNT. Nguồn vốn của WB được ngân hàng mũi
nhọn cho vay thông qua 6 định chế tài chính tham gia, được lựa chọn khi đáp ứng
các tiêu chí theo yêu cầu của WB. Thông qua các định chế tài chính này là nguồn
vốn sẽ được cho vay tiếp đến những tiểu dự án hợp lệ ở khu vực nông thôn theo
các quy định của Dự án.
- Giải ngân:
23
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

Dự án TCNT I đa hoàn tất giải ngân từ tài khoản đặc biệt vào ngày
31/12/2001 với 100% nguồn vốn của khoản tín dụng là 1.473,07 tỷ đồng đa được
rút vốn giải ngân cho các cấu phần của Dự án theo đúng tiến độ đa được đặt ra.
Các khoản giải ngân được thực hiện theo 2 hình thức là trên cơ sở sao kê chi tiêu
của các PFI hoặc ứng trước giải ngân (gửi sao kê chi tiêu sau) và phù hợp với các
điều kiện vay trong quy định của của Hiệp định cũng như Sổ tay chính sách.
Bảng 2.2: Kết quả rút vốn giải ngân Dự án Tài chính nông thôn I
Khoản mục

Tr. USD


A.
1.
2.
B.

Cấu phần tín dụng
Quỹ phát triển nông thôn (RDF)
Quỹ Cho vay Người nghèo (FRP)
Cấu phần nâng cao năng lực thể chế
Tổng
(Nguồn: Báo cáo kết thúc Dự án Tài chính nông thôn I)

94,69
11,06
7,50
113,25

Tương đương
Tỷ VND
1.298
163
12,07
1.473,07

- Sử dụng vốn vay:
+ Cấu phần tín dụng: Toàn bộ 100% số vốn tín dụng của Dự án tương
đương 113 triệu USD đa được rút vốn và giải ngân thông qua 7 ngân hàng để cho
vay đến khu vực nông thôn. Lũy kế giải ngân số vốn tín dụng WB đến thời điêm
hoàn thành Dự án là 3.570 tỷ VND hay tương đương trên 270 triệu USD (gồm
nguồn vốn Quỹ quay vòng, được hình thành từ vốn gốc do các ngân hàng hoàn

trả). Số vốn này đa được sử dụng để tài trợ cho khoảng 630.000 dự án, các phương
án sản xuất kinh doanh của các các nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp nông
thôn ở hầy hết các địa phương trong cả nước. Hỗ trợ trong việc tăng cường năng
lực của các PFI thông qua việc thực hiện các IDP của họ. Cho phép hộ nghèo
(khoảng 375.000 hộ) được tiếp cận tới các dịch vụ tài chính chính thức trong đó
khoảng 60.000 hộ được vay trực tiếp từ FRP và khoảng 315.000 hộ được hưởng
24
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


Đề tài: Tăng cường quản lý hoạt động bán buôn vốn ODA tại Sở Giao dịch III – NH ĐT&PTVN

các dịch vụ tài chính từ 159 xe ô tô ngân hàng lưu động (được dự án tài trợ) trong
các hoạt động ngân hàng lưu động của NHNo. Có được điều này là do các PFI đa
cho vay với tỷ lệ lớn và do Ban quản lý dự án và các PFI đa sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn quỹ quay vòng RDF.
Số người hưởng lợi từ dự án nhiều hơn và tạo ra được khối lượng đầu tư
(khoảng tương đương 445 triệu USD) lớn hơn nhiều so với dự tính ban đầu (tương
đương 150 triệu USD). Điều này là kết quả của: (i) phần đóng góp của người vay
lại thực tế khoảng 35% chi phí tiểu dự án lớn hơn nhiều so với dự kiến tại thời
điểm thẩm định; và (ii) việc quay vòng phần vốn lai vay WB. Do đó, 1 đô la vốn
vay tạo ra khoảng 4 đô la (3,97 USD) đầu tư tính đến 31/12/2001.
Trong dự án này, các tiêu chí lựa chọn các tiểu dự án thương mại được áp
dụng và kết quả là các dự án đầu tư thực hiện một cách hiệu quả và thể hiện ở tỷ lệ
thu hồi vốn cao. Toàn ngành đa có sự gia tăng đáng kể trong hoạt động cho vay
trung hạn kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Các báo cáo tài chính
của các PFI cũng cho thấy sự tăng trưởng đáng kể trong việc huy động tiền gửi.
+ Cấu phần tăng cường năng lực thể chế: 7 định chế tài chính (PFI) đa tham
gia tích cực trong dự án TCNT I, trong đó có hai ngân hàng thương mại quốc
doanh (VBARD và NHĐT & PTVN) và 5 ngân hàng cổ phần nhỏ khác. Tuy nhiên

dự án TCNT I hoàn tất mới chỉ sử dụng được 1/3 số tiền của cấu phần nâng cao
năng lực thể chế (còn lại phải chuyển sang cấu phần Tín dụng).
- Giám sát việc sử dụng vốn vay: Ban quản lý dự án chưa giám sát thường
xuyên, đầy đủ, kịp thời việc sử dụng vốn vay do khối lượng tiểu dự án lớn
(630.000 tiểu dự án) địa bàn rộng 60 tỉnh, thành phố trên cả nước nên không đảm
bảo được các tiểu dự án sử dụng vốn vay đúng mục đích.
- Kiểm toán và báo cáo:
25
Phạm Minh Đức – Ngân hàng K21


×