Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đường lối đối ngoại của ĐCS Việt Nam với Mỹ từ sau đại hội X đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.12 KB, 19 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------***---------

TIỂU LUẬN NHÓM
Môn học: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỚI MỸ TỪ SAU ĐẠI HỘI X ĐẾN NAY


MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Sau khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực nước ta ngày càng lớn
mạnh, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, môi trường hoà bình. Nhằm phát huy
những thành tựu to lớn đã đạt được trong tiến hành công cuộc đổi mới với mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng và Nhà nước Việt
Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại được nêu ra trong Đại hội X. Đó là độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc
tế với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Hiện nay, Việt Nam đang hợp tác chặt chẽ với nhiều tổ chức quốc tế và các
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương để cùng nhau trao đổi và đưa ra giải pháp các vấn đề liên quan đến đời sống
chính trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa xã hội. Đặc biệt, không thể không
nhắc đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ - một quốc gia đóng vai trò hầu như chi
phối đời sống quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh kết thúc. Sau 20 năm bình thưởng
hóa quan hệ, từ hai nước cựu thù, Việt – Mỹ đã trở thành người bạn, đối tác toàn diện
và đáng tin cậy.
Vậy chính sách của Việt Nam với một nước lớn như Mỹ đã được điều chỉnh như


thế nào kể từ sau Đại hội X? Trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ tới những năm gần
đây đã đạt được những thành tựu lớn nào và có những vấn đề gì còn tồn tại? Việt Nam
cần làm gì để thúc đẩy và cải thiện hơn nữa quan hệ hợp tác với Mỹ? Đó là những nội
dung chính mà nhóm chúng em đi vào phân tích khi chọn đề tài: Đường lối đối ngoại
của Đảng Cộng Sản Việt Nam với Mỹ từ sau Đại hội X đến nay.

3


NỘI DUNG
TÌNH HÌNH LỊCH SỬ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆT NAM – MỸ TRƯỚC ĐẠI

I.

HỘI X (2006)
1. Quan hệ Việt Nam và Mỹ trước năm 1995
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc
đến mọi mặt đời sống của hầu hết các quốc gia, dân tộc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm
vào khủng hoảng nghiêm trọng và dần dần sụp đổ. Năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới
thay đổi: Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối bá chủ thế
giới.
Đáng chú ý, quan hệ Việt – Mỹ giai đoạn trước năm 1995 gần như đóng băng
do sự khác biệt về hệ tư tưởng và những định kiến nặng nề sau chiến tranh. Mỹ và
đồng minh tiếp tục duy trì thái độ cứng rắn; duy trì bao vây, cấm vận đối với Việt
Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế đối với nước ta. Kinh tế đối ngoại gặp nhiều trở ngại,
trao đổi thương mại với các nước hạn chế, chủ yếu với các đối tác truyền thống nên giá
trị thấp. Đồng thời, ta cũng không còn nhận được viện trợ từ phía Liên Xô do những
khó khăn trong chính Liên Xô thời kỳ này.
2. Việt Nam và Mỹ sau khi bình thường hóa quan hệ


Sau năm 1995 chính thức đánh dấu bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và
Mỹ, nền kinh tế đã có sự thay đổi tích song chưa thực sụ đột phá. Trên phạm vi thế
giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung
của thế giới là hòa bình và hợp tác phát triển. Các quốc gia, tổ chức và lực lượng chính
trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành
động cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và đặc điểm của thế giới. Quốc tế chuyển từ
đối đầu sang đối ngoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng
hóa, đa phương hóa trong quá trình toàn cầu hóa, phát triển và phụ thuộc lẫn nhau. Các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, rất cần mở rộng quan hệ đối ngoại để
tranh thủ các nguồn lực phát triển đất nước.


Việt Nam nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và ASEAN là khu
vực phát triển năng động với tốc độ cao, tình hình chính trị tương đối ổn định, được cả
thế giới quan tâm, đánh giá cao. Bên cạnh những đặc điểm chung của tình hình thế giới
nêu trên thì: Xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn, phản ánh
những đòi hỏi của các dân tộc trên thế giới. Các quốc gia lớn nhỏ ngày càng tham gia
càng nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực và quốc tế về kinh tế, chính trị,
thương mại và nhiều lĩnh vực khác.
Tình hình trên tác động mạnh đến việc hình thành và triển khai chính sách đối
nội – đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta; đặt ra yêu cầu có sự chuẩn bị chu đáo về chính
sách, chiến lược nhằm tận dụng tốt những cơ hội, thuận lợi và thời cơ của những thay
đổi trên; đồng thời hạn chế, đối phó hiệu quả với những thách thức, khó khăn mà nó
mang lại. Trong đó, yêu cầu khôi phục, thúc đẩy quan hệ với các nước lớn, trong đó có
Mỹ, là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của ta.
II.

NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA TRONG QUAN
HỆ VỚI MỸ TỪ ĐẠI HỘI X ĐẾN NAY VÀ MỘT SỐ KẾT QUẢ NỔI

BẬT
1. Nội dung đường lối đối ngoại của Việt Nam với Mỹ giai đoạn này

Nhằm thúc đẩy tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại và trước những diễn biến
phức tạp của tình hình quốc tế sau sự tan rã của Liên Xô, Hội nghị Trung ương 3 khóa
VII (1992) chính thức xác định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế. Chủ trương chiến lược của Đại hội VII tiếp
tục được Đại hội VIII khẳng định, bổ sung và đến Đại hội IX phát triển thành “ Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”. Đại hội lần thứ X (2006), Đảng nêu quan
điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời
để ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường
lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính sách hội nhập


kinh tế quốc tế nói riêng, phân tích lực chọn phương án hành động đúng, dự báo được
tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi
mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoành chỉnh hệ thống pháp
luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng
phải thận trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải có ý chí, quyết tâm của
Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn
xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; nhiều cơ hội
song cũng đầy thách thức, vì vậy ta cần có kế hoạch và lộ trình thích hợp, vừa phù hợp
với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức quốc tế

mà ta tham gia.
Như vậy, quá trình này thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, kiên định về
nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, gắn kết mục tiêu cách mạng và định hướng phát
triển đất nước vào những xu thế phát triển của thời đại. Với sự điều chỉnh chính sách
đối ngoại như đã nêu, Việt Nam đã từng bước phá được thế bị bao vây cấm vận, hóa
giải tương đối thành công những khó khăn, bất cập trong quan hệ đối ngoại, nâng cao
vị thế đất nước trên trường quốc tế, hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng
với khu vực và thế giới.
Trong tổng thể đường lối đối ngoại do Đảng ta lãnh đạo, khôi phục quan hệ
ngoại giao và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với Mỹ là một trong những ưu tiên chính sách
đối ngoại của ta. Chủ trương chính sách trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ
xuất phát từ một số cơ sở sau:
(1) Trước hết là xuất phát từ tinh thần hòa giải, hòa hiếu vốn là nét đặc trưng
trong văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đảng ta luôn khẳng định Việt Nam kiên trì theo
đuổi đường lối đối ngoại rộng mở, “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy” của các nước
trên thế giới.


(2) Bên cạnh đó, những khó khăn của nền kinh tế trong nước đòi hỏi chúng ta
phải có những thay đổi trong tư duy phát triển đất nước, xây dựng kinh tế với chủ
trương hội nhập quốc tế và tăng cường quan hệ với các đối tác.
(3) Mỹ là nước dẫn đầu thế giới về hầu hết các lĩnh vực, nhất là sau Chiến tranh
Lãnh. Thúc đẩy quan hệ với Mỹ trở thành ưu tiên của đa số các quốc gia trên thế giới.
Chúng ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ với triển vọng tranh thủ mối quan hệ này
gia tăng lợi ích quốc gia trên các lĩnh vực hợp tác kinh tế - thương mại, đầu tư, giáo
dục – đào tạo, y tế, khoa học – công nghệ, an ninh – quốc phòng… Đồng thời, việc cải
thiện mối quan hệ hai nước góp phần củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam, tác động tác
động mạnh mẽ đến quan hệ của tất cả các nước khác, nhất là các nước phương Tây đối
với Việt Nam, thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc
tế...

2. Một số kết quả nổi bật trong quan hệ đối ngoại trên nhiều lĩnh vực Việt –

Mỹ từ 2006 đến nay
Quan hệ ngoại giao song phương Việt Mỹ đã có những tiến triển rõ rệt với
nhiều kết quả đáng khích lệ trên hầu hết các lĩnh vực từ năm 2006 đến nay, cụ thể:
Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao:
Sau chuyến tiến thăm Mỹ đầu tiên của Thủ tướng Phan Văn Khải vào năm 2005
thì đến giữa tháng 11/2006, Tổng thống George Bush thăm chính thức Việt Nam khi
tham dự cuộc họp APEC tổ chức ở Hà Nội. Đến tháng 6/2007, Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết trở thành người đứng đầu nhà nước đầu tiên của Việt Nam sang Mỹ sau giai
đoạn chiến tranh. Ngày 25/6/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đoàn đại biểu Việt
Nam đã đến Nhà Trắng để hội đàm với Tổng thống George Bush. Thủ tướng Việt Nam
và Tổng thống Mỹ đã ra tuyên bố chung sau cuộc hội đàm.
Hai chuyến thăm gần đây của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang tới Mỹ đánh dấu bước chuyển mới trong quan hệ song phương.
Trong chuyến thăm Mỹ cuối tháng 7/2013, Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống
Barack Obama đã xác lập Quan hệ Đối tác Toàn diện giữa Việt Nam và Mỹ. Trong khi
đó, chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Mỹ (tháng 7/2015) là lần đầu


tiên một Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thăm chính thức Mỹ. Đây cũng là sự
thừa nhận của phía chính quyền Mỹ đối với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản tại
Việt Nam và là thể hiện những chuyển biến to lớn của chính quyền Mỹ trong quan hệ
với một đảng Cộng sản cầm quyền. Tổng Bí thư và Tổng thống Barack Obama đã đưa
ra Tuyên bố Tầm nhìn Chung sau cuộc hội đàm ngày 7/7/2015. Ông Obama cũng nhận
lời mời của Tổng Bí thư về chuyến thăm Việt Nam trong tương lai gần.
Những chuyến thăm và làm việc các cấp này nhìn chung đều đã góp phần vào
mục đích đưa quan hệ Việt - Mỹ trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao cũng như các lĩnh
vực quan hệ song phương khác lên tầm cao hơn, giúp khép lại những trang sử chiến
tranh đầy bi thương đối với nhân dân cả hai nước. Trong bản “Tuyên bố chung giữa

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được ký gần đây
nhất nhân chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 6/2008, Thủ tướng
Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Tổng thống Mỹ G. Bush nhất trí đánh giá: “Quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ hữu nghị tích cực và đang
phát triển, tôn trọng lẫn nhau và cùng cam kết hợp tác nhiều mặt mang tính xây dựng
trên nhiều vấn đề để góp phần làm sâu rộng quan hệ vì lợi ích lâu dài của hai nước. Hai
nhà lãnh đạo cũng chia sẻ tầm nhìn và mục tiêu hướng tới một khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương ổn định, an ninh, dân chủ, hoà bình”.
Đặc biệt là trong sự kiện tương quan tranh chấp chủ quyền ở hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trên Biển Đông, đại sứ Hoa Kỳ David Shear cho
biết "Mỹ có lợi ích quốc gia đối với hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như về an
ninh hàng hải và tự do đi lại. Chúng tôi quan ngại về đe dọa vũ lực và Mỹ ủng hộ tiến
trình ngoại giao giữa các nước có quan hệ trực tiếp". Ngoại trưởng Hillary Clinton
tuyên bố Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông và cho rằng "đòi hỏi chủ quyền của
Trung Quốc ở Biển Đông vượt quá những gì mà công ước Liên Hiệp quốc về luật biển
Unclos cho phép".Trong vụ Trung Quốc kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông vào tháng 5 năm 2014, Quốc hội Hoa Kỳ
đã ra Nghị quyết lên án Trung Quốc.


Bên cạnh đó, quan hệ Việt - Mỹ trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao cho đến nay
vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố gây căng thẳng, chủ yếu do sự khác biệt chế độ chính
trị và do phía Mỹ thường sử dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo
làm nguyên cớ và phương tiện để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam nhằm
“chuyển hoá” Việt Nam theo hệ giá trị Mỹ.
Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại và đầu tư:
Đây được coi là lĩnh vực thành công nhất trong quan hệ Việt - Mỹ. Điều này
nằm trong chủ trương, chính sách của Việt Nam khi bắt đầu xúc tiến các quan hệ với
Mỹ là lấy nội dung hợp tác kinh tế - thương mại làm trọng điểm, trọng tâm của các mối
quan hệ Việt - Mỹ..

Việt Nam gia nhập WTO (tháng 11/2006) và việc Mỹ công bố cấp cho Việt
Nam Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR – 11/2006). Trên thực tế từ
sau khi BTA có hiệu lực, quan hệ Việt - Mỹ trên lĩnh vực này tiến rất nhanh và nhanh
hơn so với các quan hệ kinh tế song phương với các nước khác của Việt Nam. Kim
ngạch thương mại song phương đã tăng mạnh trong 20 năm qua, đạt mức 40 tỷ đô la
Mỹ tính đến năm 2015; Mỹ cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Về đầu tư, hoạt động đầu tư của Mỹ vào Việt Nam cũng như của các doanh
nghiệp Việt Nam tại Mỹ ngày càng gia tăng, nhất là trong những năm gần đây. Tháng
6/2007, Việt Nam và Mỹ đã ký Hiệp định khung về thương mại và đầu tư (TIFA). Hiệp
định này là sự mở rộng của BTA, được đánh giá là ghi một cột mốc hợp tác song
phương mới, tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư Mỹ ở Việt Nam và cho việc tăng
cường thương mại Việt - Mỹ. Còn trong chuyến thăm Mỹ tháng 6/2008 của Thủ tướng
chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam và Tổng thống Mỹ đã
nhất trí rằng “quan hệ kinh tế là quan trọng đối với quan hệ song phương Việt - Mỹ”;
“Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ khởi động đàm phán Hiệp định Đầu tư song phương” (BIT),
thể hiện sự cam kết của hai bên về đối xử công bằng, không phân biệt và minh bạch
đối với đầu tư nước ngoài”. Hiện nay, Mỹ đứng thứ 7 trong số các nhà đầu tư nước
ngoài hàng đầu tại Việt Nam.


Tuy nhiên, ngay cả trong lĩnh vực này, quan hệ Việt - Mỹ cũng đã và đang gặp
phải những khó khăn, trở ngại chủ quan và khách quan nhất định. Cho đến nay Mỹ chỉ
“đang xem xét tích cực”, chứ chưa công nhận kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường, vẫn thường có những cáo buộc rằng Việt Nam bán phá giá một số mặt hàng
sang Mỹ. Những tranh chấp thương mại vẫn xảy ra trong quan hệ Việt - Mỹ. Sự chênh
lệch về trình độ phát triển giữa Việt Nam và Mỹ là rất lớn, một mặt, tạo cơ hội cho
Việt Nam có thể tận dụng thời cơ thuận lợi để khai thác thế mạnh của Mỹ, và đi liền
với đó là phải ra sức xây dựng cho được nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới, hoàn
thiện các thể chế kinh tế - thương mại để tự nâng cao nội lực, lấy đó làm cơ sở bền
vững đưa nền kinh tế nước nhà đi lên; mặt khác, làm cho Việt Nam gặp phải nhiều khó

khăn, trở ngại, rào cản kỹ thuật lớn, khó cạnh tranh khi xúc tiến các quan hệ kinh tế thương mại với các nhà đầu tư, các doanh nghiệp Mỹ. Điều đáng nói nữa là mặc dù
kim ngạch xuất siêu cao của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ là điều đáng mừng,
nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có giá trị gia tăng thấp, nghĩa là chưa
mang lại hiệu quả kinh tế cao và độ rủi ro còn khá lớn. Về nhập khẩu, hàng nhập khẩu
từ Mỹ vào Việt Nam tăng rất chậm cũng đang là vấn đề, nếu không nói đây là điểm
yếu lớn, vì như vậy có nghĩa chúng ta chưa tận dụng được thiết bị kỹ thuật và công
nghệ của Mỹ phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Ngoài ra, dù quan hệ
kinh tế Việt - Mỹ phát triển rất nhanh và Mỹ hiện đang là nước có vốn tài trợ ODA lớn
nhất thế giới, nhưng kể cả trong những năm gần đây, vốn ODA của Mỹ dành cho Việt
Nam vẫn rất nhỏ, và Mỹ chưa bao giờ nằm trong số 10 nhà tài trợ ODA lớn nhất ở Việt
Nam
Trên các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế, công nghệ
Quan hệ Việt - Mỹ trong các lĩnh vực khác như giáo dục – đào tạo, khoa học kỹ thuật, y tế, môi trường, văn hoá – xã hội,... có những bước phát triển đáng ghi nhận
và đáng mừng.
Về giáo dục, đào tạo: hiện có khoảng hơn 16 nghìn sinh viên Việt Nam đang
theo học tại Mỹ, là một trong những nước có số lượng sinh viên đông nhất học tập tại
quốc gia này. Các chương trình hợp tác đào tạo (chương trình Fulbright, thành lập


trường Fulbright tại Tp. Hồ Chí Minh) cũng đang được thúc đẩy mạnh mẽ. Quỹ Giáo
dục Việt Nam (VEF) đã tài trợ cho hàng trăm sinh viên Việt Nam tham gia các chương
trình cao học và tiến sĩ tại Hoa Kỳ
Về lĩnh vực y tế, hai bên đã ký Bản ghi nhớ MOU về hợp tác y tế và khoa học y
học (6-2013). Hoa Kỳ tiếp tục duy trì và cam kết viện trợ cho Chương trình hỗ trợ khẩn
cấp về phòng chống HIV/AIDS (PEPFAR) đến năm 2018, ước trị giá trung bình gần
100 triệu đô la/năm trong những năm gần đây. Việt Nam tiếp tục hợp tác tìm kiếm binh
lính Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh (MIA). Phía Hoa Kỳ cũng cung cấp thông tin,
giúp ta tìm được hài cốt của trên 1.000 bộ đội. Hoa Kỳ tiếp tục duy trì và tăng ngân
sách cho các hoạt động khắc phục hậu quả chiến tranh ở Việt Nam, trong đó có dự án
tẩy độc các điểm nóng nhiễm chất dioxin, hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam/dioxin.

Năm 2014, phía Hoa Kỳ đã giải ngân 29 triệu đô la trong khoản ngân sách 84 triệu đô
la giai đoạn 2014-2016 cho dự án tẩy độc sân bay Đà Nẵng và trợ giúp về y tế cho
người khuyết tật, bao gồm nạn nhân chất độc da cam/dioxin.
Về khoa học công nghệ, hai bên tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực môi
trường và biến đổi khí hậu, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, hải dương học,
công nghệ không gian. Gần đây, hai bên ký kết Hiệp định hợp tác hạt nhân dân sự 123
đã mở ra một lĩnh vực hợp tác mới, thu hút sự quan tâm của nhiều công ty công nghệ
hàng đầu thế giới của Hoa Kỳ tới việc phát triển hạt nhân dân sự ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, khuôn khổ của chương trình hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ cho
Việt Nam với thời gian kéo dài 15 năm, Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ
(USAID) sẽ triển khai 75 dự án về các lĩnh vực như hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế
và đặc biệt là năng lượng sạch. Tháng 3 năm 2015, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại
Tp.HCM ký kết tài trợ một khoản viện trợ không hoàn lại lên đến gần 1 tỷ USD để
thực hiện chương trình nghiên cứu khả thi phát triển nhà máy điện gió Bạc tại Việt
Nam có công suất 300MW.
Trên lĩnh vực an ninh – quốc phòng:
Đây là một lĩnh vực vốn khá nhạy cảm, tuy nhiên quan hệ Việt - Mỹ cũng đang
có những tiến triển theo hướng cởi mở hơn. Năm 2007, chính quyền Tổng thống


George Bush tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm bán các trang thiết bị quân sự không sát thương
cho Việt Nam, mở ra cơ hội đầu tiên để hai nước hợp tác quốc phòng.
Năm 2010, Việt Nam và Mỹ tổ chức các hoạt động đào tạo phi chiến tranh tại
Đà Nẵng. Năm 2012, Leon Panetta trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đầu tiên thăm
Cam Ranh từ sau Chiến tranh Việt Nam. Cùng năm, Việt Nam cử Quan sát viên tới dự
Tập trận Hải quân lớn nhất thế giới mang tên Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC
2012) do Mỹ khởi xướng.
Đầu tháng 10/2014, Mỹ đã tuyên bố dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát
thương cho Việt Nam. Tháng 3 vừa qua, phía Mỹ công bố trao 6 tàu tuần tra cao tốc,
giúp đỡ Việt Nam vận hành, bảo trì và xây dựng xưởng sửa chữa nhằm tối ưu hóa khả

năng hoạt động của các thiết bị này.
Trong những năm gần đây, chiến hạm Mỹ, liên tục cập cảng Việt Nam. Đầu
tháng 4, tàu khu trục có tên lửa dẫn đường USS Fitzgerald (DDG 62) và tàu tác chiến
ven biển USS Fort Worth của Mỹ đã cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng trong khuôn khổ giao
lưu hải quân thường niên lần thứ 6 giữa Mỹ và Việt Nam.
III.

MỘT SỐ NHẬN XÉT, DỰ BÁO TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT – MỸ
VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Một số nhận xét về quan hệ Việt - Mỹ
Nhìn lại sự vận động của mối quan hệ Việt - Mỹ từ trong lịch sử đến hiện tại
một cách khách quan, có thể thấy đây là mối quan hệ có khá nhiều nét đặc thù so
với các quan hệ song phương khác của Việt Nam.
Thứ nhất, về lịch sử, đây là mối quan hệ giữa hai quốc gia “cựu thù”. Cuộc
chiến tranh kéo dài mấy thập niên giữa Việt Nam và Mỹ không đơn giản là một
cuộc chiến tranh nóng giữa một nước “đế quốc to” và một nước nhỏ. Mặc dù cuộc
chiến tranh Việt Nam đã lùi vào quá khứ và Việt Nam chủ trương “gác lại quá khứ,
hướng tới tương lai”. Song dù muốn hay không, hậu quả và những di chứng mà
cuộc chiến tranh này để lại không thể không ít nhiều ảnh hưởng đến quan hệ Việt Mỹ, kể cả từ khi bình thường hoá đến nay.


Thứ hai, xét về vị thế quốc tế, quan hệ Mỹ - Việt là quan hệ giữa siêu cường
thế giới duy nhất sau Chiến tranh lạnh, nước lớn đứng đầu hệ thống TBCN thế giới
với một nước XHCN không lớn, nhưng trước sau như một vẫn kiên định, tự tin và
tự chủ đi con đường của mình, hơn thế nữa còn đã ngày càng gặt hái được nhiều
thành công hơn trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế cũng như trong việc
nâng cao vị thế quốc tế của mình. Đặc thù này làm cho tính chất vừa hợp tác, vừa
đấu tranh (của Việt Nam) hay kiềm chế (của Mỹ) trong quan hệ Việt - Mỹ nổi rõ
hơn so với các quan hệ song phương của Việt Nam với các nước lớn khác.
Thứ ba, về chính trị - tư tưởng, đây là quan hệ giữa hai nhà nước dân tộc có

mục tiêu chiến lược đối kháng nhau: Mục tiêu chiến lược của Việt Nam là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, còn mục tiêu chiến lược của Mỹ là chuyển hoá các
nước còn khác biệt về thể chế chính trị với Mỹ vào quỹ đạo của Mỹ, đi theo hệ giá
trị của Mỹ nói riêng, hệ giá trị, hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa nói chung. Chính đặc
thù này đã làm cho mặt đấu tranh trong quan hệ Việt - Mỹ luôn thường trực và
không hiếm khi gay gắt.
Thứ tư, về kinh tế, đây là quan hệ giữa một nền kinh tế thị trường khổng lồ
và rất phát triển với một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, tiềm lực còn
nhỏ nhưng lại giàu tiềm năng phát triển. Đặc thù này làm cho mặt hợp tác trong
quan hệ Việt - Mỹ nổi trội hơn mặt đấu tranh, mặt cơ hội lớn hơn mặt thách thức, vì
cả hai bên đều có nhu cầu tận dụng mặt có lợi cho mình trong đối tác, đều muốn
thúc đẩy mặt hợp tác vì lợi ích quốc gia của mỗi nước. Điều này cũng dễ hiểu: Về
phía Việt Nam, ngay từ đầu Việt Nam đã xác định hợp tác kinh tế là trọng tâm
trong quan hệ với Mỹ. Về phía Mỹ, với tư duy và chính sách đối ngoại nổi tiếng
thực dụng, người Mỹ thường ít khi bỏ qua những cơ hội có thể mang lại lợi ích cho
họ. Kết quả là quan hệ Việt - Mỹ trên lĩnh vực kinh tế - thương mại gặt hái được
những thành công nổi bật hơn các lĩnh vực quan hệ song phương khác.
Những đặc thù nêu trên làm cho quan hệ Việt - Mỹ khác hơn về tính chất
cũng như tầm quan trọng so với quan hệ giữa Việt Nam và các nước lớn khác
(trước hết là các nước lớn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương).


2. Dự báo triển vọng quan hệ Việt – Mỹ thời gian tới

Trước hết cần lưu ý rằng quan hệ Việt - Mỹ sẽ vận động như thế nào trong
những thập niên đầu của thế kỷ XXI không chỉ tuỳ thuộc vào sự vận động của các nhân
tố chính trị, kinh tế - xã hội bên trong từng nước Việt - Mỹ, vào ý muốn chủ quan hay
ý chí của lãnh đạo và nhân dân hai nước, mà còn phụ thuộc vào những diễn biến của
tình hình thế giới, của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và cả của khu vực Đông
Nam Á. Thế mà tất cả những nhân tố bên trong từng nước và các nhân tố quốc tế đều là

những nhân tố động, nghĩa là mỗi một nhân tố này đều đang vận động và có thể biến
đổi, thay đổi nhiều hay ít tuỳ thuộc vào mức độ tương tác giữa chúng. Sau khi phân
tích thực trạng các nhân tố nêu trên và căn cứ vào xu hướng vận động của các nhân tố
này, chúng em xin đưa ra một số dự báo về triển vọng của quan hệ Việt - Mỹ trong thời
gian tới như sau:
Thứ nhất, quan hệ Việt - Mỹ sẽ vận động theo hướng “quan hệ đối tác chiến
lược” thiết lập tháng 7/2013 trên cơ sở những điểm chung về lợi ích. Theo đó, hai bên
sẽ tiếp tục khung quan hệ hiện tại trên các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế - thương mại,
giáo dục – đào tạo, y tế, môi trường, an ninh – quốc phòng, giao lưu nhân dân... Mỹ sẽ
tiếp tục tranh thủ vị trí, vai trò của Việt Nam trong khu vực để triển khai chiến lược
toàn cầu của nước này, nhất là đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương và kiềm chế
ảnh hưởng của Trung Quốc. Đối với Việt Nam, Mỹ sẽ tiếp tục vừa là đối tượng mà
Việt Nam phải đấu tranh, trước hết trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, vừa là đối tác hợp
tác trong nhiều lĩnh vực, trước hết là kinh tế - thương mại. Hơn nữa, do đặc thù của
mối quan hệ Việt - Mỹ, nên trong mỗi lĩnh vực quan hệ song phương đều đang tồn tại
cả hai mặt hợp tác và đấu tranh. Song có thể dự báo về tổng thể, xu hướng vận động
của quan hệ Việt - Mỹ trong vài thập niên tới là hướng tới xây dựng một khung quan
hệ ổn định dựa trên cơ sở những lợi ích song trùng, vì điều này đáp ứng mong muốn
của cả hai bên, có lợi cho cả hai bên.
Thứ hai, quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Mỹ sẽ tiếp tục phát triển và sẽ
ngày càng ổn định nhờ những Hiệp định kinh tế - thương mại, đầu tư,... đã được hai
nước ký kết và chắc chắn sẽ còn ký thêm những Hiệp định mới nữa (hai nước đang đẩy


nhanh quá trình đàm phán kết thúc tiến tới ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương - TPP). Đây sẽ là những ràng buộc pháp lý đưa quan hệ Việt - Mỹ đi vào nề nếp
và phát triển ổn định hơn. Quan hệ kinh tế đã, đang và chắc sẽ vẫn là trục trung tâm
của toàn bộ các quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Sự ràng buộc ngày càng chặt chẽ về lợi
ích kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ sẽ trở thành nhân tố quan trọng góp phần hoá giải
những bất đồng, mâu thuẫn giữa hai nước hiện nay.

Thứ ba, có thể dự báo rằng quan hệ Việt - Mỹ trên lĩnh vực chính trị - ngoại
giao sẽ cởi mở hơn, thân thiện hơn; mặt hợp tác trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa
học - kỹ thuật, công nghệ sẽ được tăng cường hơn cả bề rộng lẫn chiều sâu.
3. Đề xuất, khuyến nghị chính sách của Việt Nam với Mỹ

Do vai trò, vị trí rất quan trọng của Mỹ trong cục diện chính trị, an ninh, kinh tế
thế giới, nên Việt Nam cần chú trọng hơn nữa các biện pháp thúc đẩy mặt hợp tác với
Mỹ trên mọi lĩnh vực qua tất cả các kênh đối ngoại. Cần xem việc thúc đẩy tăng cường
quan hệ hợp tác cùng có lợi với Mỹ và các nước lớn khác là một trong những định
hướng chiến lược đối ngoại hàng đầu của đất nước.
Việt Nam vừa phải coi trọng việc thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện với Mỹ,
vừa phải tăng cường hơn nữa ngoại giao đa phương, đồng thời cố gắng tìm mọi cách
tạo lập, củng cố và nâng cao vai trò, vị thế của mình trong các quan hệ song phương
khác, trong các tổ chức hợp tác, liên kết quốc tế lớn nhỏ, trước hết là trong ASEAN.
Trong các chính sách cụ thể trên các lĩnh vực khác nhau với Mỹ, cần chú trọng
hơn nữa các biện pháp, giải pháp khai thác hiệu quả những thế mạnh của Mỹ và thế
mạnh mà Việt Nam đã có trong quan hệ với Mỹ.
Cần đầu tư nhiều hơn cho việc nghiên cứu đối tác để hiểu rõ hơn ý đồ, mục tiêu,
mục đích, thủ thuật, thủ đoạn ngoại giao của đối tác, từ đó có phương sách ứng xử, ứng
phó đúng đắn trong từng lĩnh vực cụ thể, trường hợp cụ thể. Phải tích cực hơn nữa
trong các cách thức, biện pháp tháo gỡ bế tắc, trở ngại từ phía Việt Nam, có sách lược
mềm dẻo, linh hoạt “ứng vạn biến” trong từng vấn đề cụ thể.


Mặt khác, cũng phải hết sức thận trọng, tỉnh táo, nhìn xa trông rộng trong việc
thông qua các quyết sách, chủ trương, chính sách lớn với Mỹ, hết sức tránh vì những
lợi ích trước mắt và lợi ích kinh tế cục bộ mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài, lợi ích cao
nhất của dân tộc là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện chính sách cân bằng trong quan hệ với các nước lớn hoàn toàn không
có nghĩa là đánh đồng các mối quan hệ với tất cả các nước lớn, hoặc thực hiện chính

sách trung lập, theo “chủ nghĩa trung dung”, có thái độ “ba phải”, mà là không thụ
động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là cố gắng tránh cho
bằng được việc trở thành con bài trong tay các nước lớn.


LỜI KẾT
Đại hội Đảng lần thứ X (2006) và XI (2011) đã khẳng định chủ trương đối ngoại
của nước ta hiện nay là “độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển” cùng với “đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế”, đồng thời “mở rộng, nâng cao hiệu quả
các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực với tinh thần chủ động tích cực”. Qua đó Đảng thể hiện quan điểm sâu sắc và
mong muốn đưa các quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Được quán triệt từ chủ trương trên, Việt Nam thiết lập chính sách quan hệ ngoại
giao với Mỹ dựa trên quan điểm đối ngoại “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy”, nhất là
sau Chiến tranh Lạnh thì việc thúc đẩy quan hệ với Mỹ trở thành ưu tiên của đa số các
quốc gia trên thế giới. Quan hệ ngoại giao với Mỹ chẳng những tạo cơ hội cho nước ta
tiếp cận một cường quốc có thị trường lớn, tiềm lực kinh tế, khoa học- công nghệ
mạnh, mà còn góp phần tạo dựng một môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, tạo thuận
lợi cho nước ta hợp tác phát triển kinh tế trên nhiều lĩnh vực: kinh tế - thương mại, đầu
tư, giáo dục – đào tạo, y tế, khoa học – công nghệ, an ninh – quốc phòng… Đồng thời,
việc cải thiện mối quan hệ hai nước góp phần củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam, tác
động tác động mạnh mẽ đến quan hệ của tất cả các nước khác, nhất là các nước phương
Tây đối với Việt Nam, thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính - tiền
tệ quốc tế. Hơn nữa, điều mang ý nghĩa quan trọng và quyết định nhất là Việt Nam
phải bằng mọi cách, mọi biện pháp, huy động mọi nguồn lực để trước hết gia tăng nội
lực, sức mạnh quốc gia tổng hợp để sao cho phát huy tối đa mặt thuận lợi, tận dụng tối
ưu những cơ hội, giảm thiểu những khó khăn, đẩy lùi những nguy cơ có thể đến từ
quan hệ với Mỹ.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2011.
[2] thongtindoingoai.hoabinh.gov.vn, Chính sách đối ngoại đại hội X của Việt Nam,
/>[3] PGS. TS. Hà Mỹ Hương, Chính sách của Việt Nam với Mỹ và quan hệ Việt – Mỹ
những năm đầu thế kỉ XXI: thực trạng và triển vọng,
/>[4] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, 376 tr. 7.
[5] TS. Đỗ Đức Định, Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ, Nxb. Thế giới, Hà Nội,
2000, 198 tr.
[6] news.zing.vn, Quan hệ Việt – Mỹ bước vào kỉ nguyên mới,
/>



×