Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Về bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của tổ chức hành chính nhà nước ts nguyễn văn cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.53 KB, 69 trang )


PHẦN A:
SƠ LƯỢC VỀ SÁCH CỦA TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG
“VỀ BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC”.
TẠI SAO PHẢI ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.

Đánh giá hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả thi hành nói riêng của
các cơ quan hành chính nhà nước là hoạt động quan trọng, thiết yếu trong công
tác chỉ đạo, điều hành của bộ máy nhà nước.Các hoạt động cải cách, đổi mới
theo đường lối của Đảng, cũng như các hoạt động chỉ đạo điều hành thường
nhật, thường niên sẽ không thể hiệu quả, sát với thực tiễn nếu như việc đánh giá
hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan
hành chính nhà nước nói riêng không khách quan, chính xác và đầy đủ. Xuất
phát từ nhu cầu đổi mới, cải cách, quản lí và chỉ đạo, điều hành của chính nền
hành chính nhà nước thì việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của
CQHCNN là tất yếu. Để việc đánh giá này được khách quan toàn diện, có sức
thuyết phục, làm cơ sở cho hoạt động quản lí, điều hành của nhà nước, phục vụ
các chương trình cải cách đổi mới thì các chủ thể được trang bị các bộ tiêu chí
và bộ chỉ số đánh giá được thiết kế một cách khoa học.
Và cho đến nay, những bộ tiêu chí và bộ chỉ số đánh giá đó được khái
quát lại và cung cấp những lý luận về đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của
CQHCNN trong cuốn sách “về bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp
luật của các cơ quan hành chính nhà nước” của tác giả Nguyễn Văn Cương
(chủ biên).Về nội dung của sách bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật
của các cơ quan hành chính nhà nước gồm có 4 chương:
Chương 1: những vấn đề lý luận về bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi
hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước.
Chương 2: kinh nghiệm quốc tế trong việc đánh giá hiệu qủa thi hành
pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước.


Chương 3: thực trạng việc xây dựng và áp dụng bộ chỉ số đánh giá
hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta
hiện nay
Chương 4: kiến nghị xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành
pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
Bốn chương sẽ được tóm tắt những nội dung chủ yếu dưới đây.

2


I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ HIỆU
QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC.
1. Lý luận về đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan
hành chính nhà nước.
1.1. Khái niệm về Đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan
hành chính nhà nước.
Đầu tiên tìm hiểu khái niệm chung về đánh giá hiệu quả thi hành pháp
luật.
Thi hành pháp luật có 6 loại hoạt động cơ bản sau đây:
- Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản của cấp trên để cụ
thể hoá, chi tiết hoá hoặc cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của ngành, địa
phương mà cơ quan hành chính nhà nước thực hiện công việc quản lý;
- Xây dựng, ban hành hoặc thực hiện các chương trình, kế hoạch, quy
hoạch triển khai văn bản pháp luật của cấp trên hoặc do mình đã ban hành;
- Tổ chức bộ máy, nhân sự, trang thiết bị, ngân sách và các điều kiện đảm
bảo khác để tổ chức thi hành pháp luật;
- Tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Tiến hành công tác cấp phép, đăng ký, cấp chứng chỉ hành nghề, giấy
chứng nhận( bao gồm cả cấp giấy chứng nhận mang tính ưu đãi cho tổ chức, cá

nhân( nếu có );
- Tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị đối với việc chấp hành văn bản pháp luật của các đối
tượng có trách nhiệm phải tuân thủ văn bản pháp luật ( các cơ quan trực thuộc,
các tổ chức dịch vụ công, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân). Các
hình thức thi hành pháp luật vừa nêu về cơ bản đã được thể hiện trong các quy
định trong Nghị định số 59/2012/NĐ – CP ngày 23/7/2012.
Hiệu quả thi hành pháp luật theo quan niệm được chia sẻ phổ biến trong
nghiên cứu khoa học pháp lý ở nước ta hiện nay là mối tương quan kết quả thực
tế đạt được của hoạt động thi hành pháp luật với kết quả dự kiến trong điều kiện
chi phí nhà nước bỏ ra để tổ chức công tác thi hành được tiết kiệm nhất. Nó hình
thành nên 3 thông số cơ bản định khung khi đánh giá hiệu quả:
- Kết quả dự kiến thi hành pháp luật
- Kết quả thực tế của công tác thi hành pháp luật
- Chi phí bỏ ra để công tác thi hành pháp luật
Theo khoa học về đánh giá chính sách/ Pháp luật gồm 3 loại đó là đánh
giá trước khi ban hành, trong khi ban hành và sau khi ban hành chính sách, pháp
luật. Theo khoa học về hành chính công và chính sách công, Đánh giá hiệu quả
3


thi hành pháp luật là đánh giá sau khi đã triển khai, thi hành chính sách pháp
luật sau một khoảng thời gian nhất định.
Như vậy, Đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật sử dụng để nhìn lại những
kết quả, những tác động thực tế đã đạt được và những khó khăn bất cập, những
rào cản đối với việc không đạt được mục tiêu, tác động dự kiến.
1.2. Nguyên tắc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của CQHCNN.
Nguyên tắc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành
chính nhà nước có thể được tiến hành bởi nhiều loại chủ thể khác nhau, phổ biến
4 loại chủ thể sau:

- Chính bản thân cơ quan hành chính nhà nước.
Chính cơ quan hành chính nhà nước tự kịp thời nhìn nhận lại thực trạng
hoạt động thi hành pháp luật của mình, kịp thời có những uốn nắn, chỉnh sửa
trong nội bộ cơ quan để cải thiện mục tiêu hoạt động của mình.
Ưu điểm của nguyên tắc này là việc thiết kế chương trình, nội dung, mục
tiêu đánh giá có thể khá sát với thực tế hoạt động cơ quan hành chính
Nhược điểm dễ thiên vị, không khách quan.
- Cơ quan hành chính nhà nước cấp trên
Cơ quan cấp trên tiến hành đánh giá đối với cơ quan cấp dưới( chẳng hạn,
đánh giá của chính phủ đối với Uỷ ban nhân dân,.. Việc đánh giá để kịp thời
phát hiện, chấn chỉnh những sai lệch trong qua trình thi hành công vụ của cấp
dưới.
- Việc đánh giá của cơ quan dân cử cùng cấp đối với cơ quan hành chính
nahf nước cùng cấp. Việc đánh giá này sẽ do các cơ quan dân cử, thay mặt nhân
dân tiến hành, được tiến hành giữa các cơ quan thuộc hai loại hệ thống cơ quan
khác nhau.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và các cơ
quan báo chí.Thực hiện vai trò giám sát xã hội của mình đối với các cơ quan
hành chính nhà nước bảo đảm quyền lợi của nhân dân.
2. Lý luận về bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ
quan hành chính nhà nước.
2.1. Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức
Chỉ sô theo nghĩa chung nhất là số liệu thể hiện sự biến động của quá
trình hay hiện tượng của quá trình hay hiện tượng nào đó.
Chỉ sô đánh giá là những đặc tính về định lượng của khách thể được
đánh giá. Có thể nói chỉ số là thước đo lường tiến bộ đạt được của một nhóm chỉ
tiêu, mục tiêu cụ thể.
4



Chỉ sô là tên một công cụ để đo lường xác định tình trạng thực tế của chỉ
tiêu. Chỉ số cho chúng ta biết được mức độ hoàn thành các chỉ tiêu, mục tiêu của
kế hoạch đưa ra.
Chỉ số khác chỉ tiêu ở chỗ, Chỉ số là tên một công cụ đo lường không bao
gồm con số định lượng còn chir tiêu được lượng hóa thành một con số để phấn
đấu đạt được
Các lý thuyết khoa học về thiết kế chỉ số đánh giá chỉ ra rằng, để thực
hiện việc theo dõi, đánh giá một đối tượng ( một hoạt động, một tổ chức hoặc
một quá trình ), có 4 loại chỉ số cơ bản sau đây: Chỉ số đầu vào (nguồn lực đầu
tư); Chỉ số đầu ra (sản phẩm mang tính định lượng); Chỉ số về kết quả (hiệu quả,
thực trạng,); Chỉ số về ảnh hưởng ( tác động ).
2.2. Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành
chính nhà nước.
Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính
nhà nước là công cụ nhận thức dùng để đo lường mức độ hiệu quả trong công
tác thi hành pháp luật, giúp chúng ta đánh giá, nhận thức đúng hơn về hiện
trạng. Bộ chỉ số này là tập hợp các chỉ số thành phần được sử dụng để đo lường
một cách khách quan về hiệu quả thi hành của mỗi cơ quan hành chính nhà
nước.
Bộ chỉ số đo lường 2 mối tương quan cơ bản:
- Tương quan giữa kết quả thực tế và kết quả dự kiến trước khi thi hành
- Tương quan giữa kết quả thực tế với nguồn lực bỏ ra để tổ chức công tác
thi hành
Nói cách khác, bộ chỉ số xây dựng thiết kế dựa trên 3 thông số cơ bản đã
nêu ra ở trên.
Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thực hiện 6 loại hoạt động cơ bản:
- Ban hành văn hành văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản của cấp trên
để cụ thể hoá, chi tiết hoá hoặc cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của ngành, địa
phương mà cơ quan hành chính nhà nước thực hiện công việc quản lý;
- Xây dựng, ban hành hoặc thực hiện các chương trình, kế hoạch, quy

hoạch triển khai các văn bản pháp luật của cấp trên hoặc do mình đã ban hành;
- Tổ chức bộ máy, nhân sự, trang thiết bị, ngân sách và các điều kiện bảo
đảm khác để tổ chức thi hành pháp luật;
- Tổ chức hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Tiến hành công tác cấp phép, đăng ký, cấp chứng chỉ, giấy chứng nhận
( bao gồm cả cấp giấy chứng nhận mang tính ưu đãi cho tổ chức, cá nhân ( nếu
có );
5


- Tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị đối với việc chấp hành văn bản pháp luật của các đối tượng
có trách nhiệm phải tuân thủ pháp luật.
Bộ chỉ số thực hiện các chức năng cơ bản như sau:
- Công cụ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan hành chính
nhà nước;
- Công cụ giúp các chủ thể có liên quan giám sát các hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước;
- Giúp các chủ thể có liên quan giám sát hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước;
- Công cụ giúp để các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trách nhiệm
giải trình với các chủ thể có thẩm quyền;
- Công cụ giúp các cơ quan hành chính nhà nước có thêm bằng chứng
thuyết phục các cơ quan có thẩm quyền về kế hoạch hoạt động và kế hoạch ngân
sách của mình.
II: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ HIỆU
QỦA THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC.
1. Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thi hành một chính sách cụ thê
Việc đánh giá hiệu quả thi hành chính sách dựa vào 6 bộ tiêu chí: Hiệu

lực; hiệu quả; mức độ đầy đủ; tính công bằng; tính đáp ứng; mức độ phù hợp.
2. Bộ chỉ số hiệu quả quản trị của chính quyền (GEI)
Bộ chỉ số này tập trung vào việc sử dụng ba “ thước” đo lường:
- Hiệu quả sử dụng nguồn lực cho các chương trình cung cấp các chương
trình cung cấp các dịch vụ công (chi phí để sản sinh ra một đơn vị kết quả đầu
ra);
- Chất lượng dịch vụ được cung cấp (chất lượng kết quả đầu ra);
- Mối quan hệ giữa chất lượng kết quả đầu ra với chi phí để sản sinh một
đơn vị kết quả đầu ra.
Bộ chỉ số tập trung đo lường 8 nhiệm vụ cơ bản mà chính quyền bang
phải đảm nhiệm là: giáo dục phổ thông; Giáo dục đại học; Đường cao tốc; dịch
vụ trung chuyển giữa các bang; Cảnh sát giao thông của bang; Tư pháp bang;
Trại giam; Quản trị tài chính.
3. Bộ tiêu chí của OECD đánh giá hiệu quả hoạt động của chính phủ.
Việc nghiên cứu, đánh giá hiệu quả hoạt động của Chính phủ là một trong
những mối quan tâm của các chuyên gia của Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế
(OECD) trong những thập niên gần đây.
6


Các chỉ tiêu mô tả về chính sách của Chính phủ và các quy tắc ứng xử của
Chính phủ : Tính liêm chính; Chính phủ điện tử; Chính phủ mở
Các chỉ tiêu tổng hợp trong quản trị công như Quản trị nhân lực; Lập kế
hoạch ngân sách; Mua sắm công; Điều tiết nền kinh tế.
Dưới đây là một số chỉ tiêu cơ bản:
Thứ nhất, các chỉ tiêu về tài chính và kinh tế công gồm 9 chỉ tiêu cụ thể
là:
- Tổng nguồn thu của Chính phủ; cấu trúc các nguồn thu; cấu trúc các
nguồn thu theo cấp chính quyền;
- Tổng chi tiêu của Chính phủ; cấu trúc các khoản chi tiêu; cấu trúc các

khoản chi theo cấp chính quyền; phân loại các khoản chi;
- Các khoản chi phí sản xuất trong Chính phủ (nói chung);
- Tổng đầu tư của chính phủ;
- Các khoản chi tiêu cuối cùng bởi Chính phủ và các hộ gia đình;
- Quy mô tài sản tài chính nợ và có của Chính phủ;
- Thâm hụt/thặng dư ngân sách của Chính phủ;
- Nợ chính phủ;
- Vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát
triển (R&D).
Thứ hai, các chỉ tiêu về tầm nhìn chiến lược và năng lực lãnh đạo của
Chính phủ gồm 6 chỉ tiêu cụ thể là:
- Sự bền vững tài khoá;
- Quản lý nguồn nhân lực chiến lược;
- Hệ thống công vụ;
- Ảnh hưởng chính trị dối với đội ngũ cán bộ cao cấp;
- Việc ra quyết định ở cấp chiến lược: các cố vấn cho bộ trưởng;
- Chiến lược chính phủ điện tử.
Thứ ba, các chỉ tiêu về việc làm trong Chính phủ và các công ty nhà nước
gồm 4 chỉ tiêu cụ thể là:
- Lượng việc làm trong Chính phủ và trong các công ty nhà nước;
- Lượng việc làm tính theo cấp chính quyền;
- Tình trạng già hoá nguồn nhân lực của Chính phủ;
- Việc tái cấu trúc lực lượng lao động trong khu vực công.
Thứ tư, các chỉ tiêu về chế độ chính sách cho một sô vị trí công việcgồm 6
chỉ tiêu cụ thể là:
- Lương của giáo viên;
- Lương của bác sĩ và y tá;
- Lương cho cán bộ cao cấp trong chính quyền nhà nước trung ương;
- Lương cho cán bộ trung cấp trong chính quyền nhà nước trung ương;
- Lương cho một số nghề chuyên nghiệp trong chính quyền trung ương;

- Lương cho thư ký ở chính quyền trung ương.
7


Thứ năm, các chỉ tiêu về thực tiễn quản lý nguồn nhân lực gồm 4 chỉ tiêu
cụ thể là:
- Uỷ quyền/giao việc trong quản trị nguồn nhân lực;
- Quản lý hiệu quả việc làm của nhân viên;
- Thoả ước lao động trong các cơ quan trung ương;
- Điều kiện làm việc ở chính quyền trung ương.
Thứ 6, các chỉ tiêu về tính minh bạch trong quản trị gồm 5 chỉ tiêu cụ thể
là:
- Năng lực của ngành lập pháp trong việc đảm bảo tính minh bạch trong
chu trình ngân sách;
- Phạm vi của các đạo luật về tự do thông tin;
- Mức độ dễ dàng trong việc truy vấn các thông tin công cộng;
- Mức độ chủ động trong việc cung cấp thông tin của các cơ quan công
quyền;
- Mức độ tiết lộ tinhg trạng mâu thuẫn lợi ích bởi các nhà lãnh đạo cao
cấp nhất.
Thứ bảy, các chỉ tiêu về mua sắm công gồm 4 chỉ tiêu cụ thể là:
- Quy mô của thị trường mua sắm công;
- Tính minh bạch trong việc mua sắm công;
- Mua sắm công qua môi trường điện tử;
- Mua sắm công thân thiện với môi trường.
Thứ tám, các chỉ tiêu về quản trị việc điều tiết gồm 4 chỉ tiêu cụ thể là:
- Khung thể chế điều tiết và sự giám sát;
- Cải thiện tính minh bạch của các quy chế điều tiết;
- Chuẩn bị cho việc tuân thủ một cách hiệu quả và thực thi các quy chế;
- Đánh giá hiệu quả điều tiết.

Thứ chín, các chỉ tiêu về cách thức cung ứng dịch vụ công gồm 3 chỉ tiêu
cụ thể là:
- Mua ngoài;
- Cung ứng qua Internet;
- Phương thức công tư (PPP).
Thứ mười, các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động của Chính phủ trong một sô
lĩnh vực gồm 4 chỉ tiêu cụ thể là:
- Công bằng hơn thông qua các chính sách chọn lọc của Chính phủ;
- Công bằng trong tiếp cận cơ hội giáo dục; sản lượng giáo dục; kết quả
giáo dục;
- Công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế; sản lượng y tế/sức khoẻ
và các biện pháp hiệu quả dựa trên kết quả đầu ra; kết quar trong y tế và chi tiêu;
- Hiệu quả của việc quản lý thuế.

8


4. Bộ chỉ số nhà nước pháp quyền
Bộ chỉ số về Nhà nước pháp quyền được kỳ vọng là một công cụ đánh giá
định lượng có tính sáng tạo để cung cấp một bức tranh chi tiết và toàn diện về
mức độ hoặc phạm vi mà cấc quốc gia cam kết tuân thủ các yêu cầu về Nhà
nước pháp quyền trong thực tiễn. Bộ chỉ số của năm 2011 lấy thông tin từ
khoảng 2.000 chuyên gia và phiếu phỏng vấn 66.000 đối tượng dân thường( cho
66 nước - mỗi nước khoảng 1.000 dân). Để xây dựng nên bộ chỉ số đánh giá
thực trạng Nhà nước pháp quyền trên thế giới được chia thành 52 yếu tố để đánh
giá 9 khía cạnh của Nhà nước pháp quyền, cụ thể:
Khía cạnh về giới hạn quyền lực của Nhà nước bằng Hiến pháp và pháp
luật được thể hiện qua hàng loạt các tiêu chí như:
- Quyền lực Của Chính phủ phải đươc quy định trong Luật cơ bản của
Nhà nước( tức là Hiến pháp );

- Quyền lực của Chính phủ phải được kiểm soát một cách hữu hiệu bởi
các cơ quan lập pháp và hệ thống Toà án ( kiểm soát bằng biện pháp tư pháp);
Quyền lực của Chính phủ phải được kiểm soát một cách hữu hiệu bằng hệ thống
giám sát/đánh giá và kiểm toán độc lập;
- Quan chức Chính phủ/chính quyền phải bị trừng phạt khi thực hiện các
hành vi sai trái;
- Quyền lực của chính quyền phải chịu sự kiểm soát hữu hiệu bởi các cơ
chế phi nhà nước (giám sát xã hội)
Khía cạnh về sự liêm chính của bộ máy chính quyền được thể hiện thông
qua tiêu chí: các quan chức chính quyền (dù thuộc ngành lập pháp, hành pháp
hay tư pháp) đều không sử dụng quyền lực/vị trí công để mưu lợi cá nhân;
Khía cạnh xã hội có trật tự và an ninh được thể hiện thông qua các tiêu
chí như:
- Tội phạm được kiểm soát một cách hữu hiệu;
- Các tranh chấp dân sự được giải quyết một cách nhanh chóng, công
bằng;
- Người dân không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trong nội bộ
nhân dân;
Khía cạnh bảo vệ các quyền lợi cơ bản được thể hiện qua các tiêu chí như:
- Không có sự phân biệt đối xử giữa các tầng lớp dân cư trong việc áp
dụng pháp luật;
- Sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ và tài sản của người dân được bảo
đảm hữu hiệu;
- Bảo đảm quyền tự do lập hội, tự do chính kiến, quyền bí mật đời tư;

9


- Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo và sự tuân thủ các trình tự
luật định trong các vụ án về hình sự;

Khía cạnh chính phủ mở được thể hiện qua các tiêu chí như:
- Công chúng có thể hiểu được các quy định pháp luật do chính quyền ban
hành ra;
- Các quy định pháp luật của chính quyền đều được xuất bản công khai và
dễ dàng tiếp cận;
- Luật pháp phải có tính ổn định;
- Công chúng được tham gia hữu hiệu vào quá trình xây dựng chính sách ,
pháp luật;
- Mức độ công khai của các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cho
công chúng;
- Mức độ tiếp cận thông tin về tổ chức và hoạt động của chính quyền của
công chúng;
Khía cạnh thi hành pháp luật một cách hữu hiệu qua các tiêu chí như:
Quy định của chính quyền được thực thi đúng như những gì đã tuyên bố, việc
thực thi pháp luật không bị chi phối từ các thế lực chính trị ở bên ngoài; việc
thực thi pháp luật được tiến hành kịp thời; bảo đảm yêu cầu về pháp chế trong
việc giải quyết các vụ án hành chính; chính quyền không trưng thu, trưng dụng
tài sản của công dân mà không có bồi hoàn công bằng;
Khía cạnh về khả năng tiếp cận với hệ thông tư pháp dân sự một cách
hữu hiệu thể hiện qua các tiêu chí sau: người dân ý thức được các quyền năng
mà pháp luật trao cho; người dân có thể tiếp cận các dịch vụ pháp lý để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình khi tham gia vào hệ thống tư pháp dân sự; người
dân có thể được tiếp cận với Toà án dân sự; hệ thống tư pháp dân sự phải trong
sạch, công bằng, không có sự trì hoãn bất hợp lý; các phán quyết được thi hành
hiệu quả; hệ thống giải quyết tranh chấp ngoài Toà án (ADR) có thể tiếp cận
được, công bằng và hiệu lực.
Khía cạnh về khả năng tiếp cận với hệ thống tư pháp hình sự hữu hiệu thể
hiện qua các tiêu chí như: mức độ hữu hiệu trong việc điều tra, phát hiện, truy tố
và xét xử tội phạm; hệ thống trại giam phải có tác dụng răng đe và làm giảm tội
phạm; hệ thống tư pháp phải vận hành một cách trong sạch, đúng trình tự, thủ

tục pháp luật đã quy định.
Khía cạnh về sự tồn tại của hệ thông tư pháp phi quan phương biểu hiện
ở việc hệ thống tư pháp phi quan phương do các tổ chức tôn giáo lập nên (Toà
án tôn giáo) hoặc cộng đồng dân cư tự lập nên phải là hệ thống có tính công
bằng, không chịu ảnh hưởng của các quan chức có thẩm quyền, và phải được
tiến hành một cách hữu hiệu.
10


5. Thưc tiễn và kinh nghiệm đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của
cơ quan hành chính ở một số nước cụ thê.
5.1. Kinh nghiệm ở Hoa Ky
Hoa kỳ đã trãi qua hai đạo luật về kết quả và thành tích hoạt động của
chính quyền. Mới nhất đây là đạo luật 2011 thay cho đạo luật năm 1993 với
nhiều sự bổ sung theo hướng làm rõ hơn và chi tiết hơn các nội dung báo cáo
đánh giá hằng năm phải thực hiện. Trong năm 2008, OMB đã (phối hợp với các
bộ, ngành trung ương) tiến hành đánh giá 1.015 chương trình (dự án) triển khai
bởi các bộ ngành trung ương. Các dự án được coi là mang lại kết quả, được chia
thành ba hạng:
Hạng 1: mang lại hiệu quả cao. Đây là hạng cao nhất đánh giá một
chương trình, những chương trình này phải đáp ứng mấy tiêu chuẩn cơ bản như:
có mục tiêu cao, đã đạt được mục tiêu ấy, được quản lý tốt và cải thiện được tính
hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Hạng 2: mang lại hiệu quả vừa phải. Loại này cũng thoả mãn yếu tố là có
mục tiêu cao (tham vọng), được quản lý tốt tuy nhiên hiệu quả sử dụng nguồn
lực thì vẫn có điểm có thể cải thiện thêm và qua đó có thể làm tốt hơn nữa.
Hạng 3: mang lại hiệu quả vừa đủ. Đối với dự án này, tuy mang lại kết
quả như dự kiến nhưng đáng lẽ phải đặt mục tiêu tham vọng hơn nữa và có thể
cải thiện kết quả tốt hơn nữa, đồng thời phải có trách nhiệm giải trình và củng cố
thêm các quy tắc và thực tiễn quản lý chương trình.

Việc đánh giá này được OMB sử dụng một công cụ xếp điểm đánh giá
chương trình. Một bảng câu hỏi trên 20 câu hỏi quan trọng và được thiết kế để
hỏi về:
- Mục tiêu chương trình (có rõ ràng không);
- Thiết kế chương trình/cấu trúc của chương trình (có logic không);
- Công việc lập kế hoạch trong chương trình (có nêu rõ mục tieu dài hạn
và ngắn hạn không);
- Quản lý chương trình;
- Kết quả mang lại của chương trình (lưu ý yếu tố nhân quả);
- Trách nhiệm giải trình. Đây là yếu tố cơ bản để đánh giá mức độ hiệu
quả của một chương trình.
5.2. Kinh nghiệm ở Hàn Quốc
Trên cơ sở kinh nghiệm tiên phong của Hoa Kỳ, nhiều quốc gia cũng có
những văn bản pháp luật tương tự, trong số đó phải kể đến Hàn Quốc với việc
ban hành đạo luật khung về đánh giá thành tích hoạt động của chính quyền
hướng tới việc tăng cường tính trách nhiệm, tính hiệu năng/hiệu suất/hiệu quả và
11


hiệu lực của nền quản trị quốc gia. Theo quy định của đạo luật này, các cơ quan
hành chính nhà nước phải tiến hành hai loại đánh giá: “tự đánh giá” và “đánh giá
riêng”.
Về tự đánh giá, các bộ, ngành ở trung ương và hình quyền địa phương
phải tiến hành các hoạt động tự đánh giá hiệu quả thi hành chính sách/pháp luật
của bản thân mình, tập trung vào ba lĩnh vực chính:
- Các chính sách chủ chốt;
- Các dự án tài chính;
- Năng lực tổ chức: quản trị nhân sự, quản lý tổ chức…
Đánh giá riêng: Thủ tướng (hoặc Uỷ ban đánh giá thành tích của chính
quyền) tiến hành đánh giá các bộ, ngành ở trung ương về các chính sách cần

thiết để đảm bảo việc quản trị nền hành chính quốc gia theo một mô thức nhất
định.
5.3. Kinh nghiệm ở Trung Quốc
Đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật thông qua hoạt động đánh giá hiệu
quả quản lý nền hành chính nhà nước là vấn đề thu hút mối quan tâm của xã hội
và chính giới Trung Quốc trong những năm gần đây. Trung Quốc chưa ra đời bộ
tiêu chí hoặc chỉ số đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước nói chung. Hiện tại,
Trung Quốc mới xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của
chính quyền cấp tỉnh với các tiêu chuẩn và tiêu chí thành phần khác nhau.
Từ kinh nghiệm quốc tế trong việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật
của các cơ quan hành chính có thể rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật ngày càng được các
nước quan tâm với nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Việc đánh giá này có thể
do cơ quan hành chính cấp trên tiến hành đánh giá cơ quan hành chính cấp dưới
hoặc do các cơ quan hành chính nhà nước tự thực hiện.
Thứ hai, cho tới nay chưa có một khung đánh giá và cách tiếp cận thống
nhất trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước. Tuỳ theo yêu cầu nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội, mức độ phát triển của khoa hoc quản lý mà các quốc gia có thể
tự xây dựng, thiết kế khung đánh giá, nội dung và phạm vi đánh giá cho phù
hợp.
Thứ ba, để tiến hành các hoạt động đánh giá, các quốc gia đã rất quan tâm
chú ý xây dựng bộ công cụ đánh giá. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại sử dụng một
bộ công cụ đánh giá khác nhau phụ thuộc vào mục tiêu, yêu cầu, khả năng đo
lường đánh giá trong thực tiễn. Mặc dù vậy, tới nay vẫn chưa có quốc gia nào
12


xây dựng được bộ chỉ số khung đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động thi hành
pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hoạt động đánh giá hiệu qua này là
hoạt động rất có ý nghĩa. Hoạt động này xuất phát từ nhu cầu cải cách, đổi mới
và quản lý, chỉ đạo điều hành của nội thân bên trong nền hành chính, đây còn là
hình thức thực hiện quyền dân chủ của công dân, và việc đánh giá phải được
thực hiện khách quan, toàn diện, có sức thuyết phục, làm cơ sở cho hoạt động
quản lý. Tuy nhiên cho đến nay, hệ tiêu chí hoặc bộ chỉ số như vậy ở Việt Nam
vẫn chưa được các cơ quan có thấm quyền, các viện nghiên cứu hoặc các chủ
thể khác có liên quan thiết kế, xây dựng. Nhận thấy được sự quan trọng, hiện
nay Việt Nam đang tích cực triển khai chương trình cải cách hành chính theo
Nghị quyết số 30c/NQ – CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị quyết số 70/NQ – CP ngày 13/6/2013. Hoạt động này cũng góp phần
tích cực phục vụ việc triển khai các chủ trương về đổi mới tổ chức và hoạt động
của nền hành chính nói chung. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định,
cũng như góp phần thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành
pháp luật của Bộ Tư pháp theo Nghị định số 22/2013/NĐ – CP ngày 13/3/2013
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Tư pháp và các văn bản có liên quan.
III. THỰC TRẠNG VIỆC XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG BỘ CHỈ SỐ
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Cơ sở chính trị, pháp lý của việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp
luật của cơ quan hành chính nhà nước.
1.1. Đường lối, chính sách của Đảng về đánh giá hiệu quả hoạt động
hoặc hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước.
Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013 (Điều 4), Đảng Cộng sản Việt
Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong tổ chức hoạt động của các
cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nói
riêng phải tuân thủ các đường lối, chính sách của Đảng và chịu sự lãnh đạo,
kiểm tra giám sát của các cấp uỷ đảng.


13


1.2. Cơ sở pháp lý của hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật
của cơ quan hành chính nhà nước.
Hiện nay, ở nước ta, việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ
quan hành chính nhà nước được quy định ở nhiều văn bản khác nhau vơi những
nội dung và tiêu chí, phương pháp đánh giá khác nhau. Bao gồm:
- Hiến pháp năm 2013;
- Luật tổ chức Chính phủ năm 2015;
- Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
- Luật thi đua, khen thưởng năm 2003;
- Luật cán bộ, công chức năm 2008;
- Luật viên chức năm 2010;
- Chương trình tổng thế cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 –
2020 (ban hành theo Nghị quyết 30c/NQ – CP ngày 08/11/2011 được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị quyết số 70/NĐ – CP ngày 13/6/2013 của Chính phủ);
- Nghị quyết số 08/2004/NQ – CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh
phân cấp quản lý quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương;
- Nghị định số 63/2010/NĐ – CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm
soát thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 48/2013/NĐ –
CP ngày 14/5/2013;
- Quyết định số 1953/QĐ – BNV ngày 08/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ về việc triển khai thí điểm Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính
tại một số bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Nghị định số 59/2012/NĐ – CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình thi
hành pháp luật;
- Quyết định số 634/QĐ – BTP ngày 22/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp ban hành Bộ tiêu chí và quy trình đánh giá hiệu quả thi hành Luật trách

nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009,…
2. Thực trạng hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ
quan hành chính nhà nước.
2.1. Hoạt động đánh giá của cơ quan quyền lực nhà nước
2.1.1. Hoạt động đánh giá của Quôc hội
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Quốc hội 2014, Quốc hội thực
hiện chức năng giám sát của mình thông qua các phương thức sau đây:
Thứ nhất, xem xét báo cáo công tác của Chính phủ.
Thứ hai, xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
14


Thứ ba, xem xét việc trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Thứ tư, thành lập UỶ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và
xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban,
Thứ năm, giám sát thông qua việc thành lập các đoàn giám sát ở địa
phương.
Thứ sáu, đánh giá công tác thi hành pháp luật của Chính phủ và các thành
viên Chính phủ thông qua các cơ quan của Quốc hội (nhất là Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội).
Thứ bảy, đánh giá công tác thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà
nước thông qua hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
2.1.2. Hoạt động đánh giá của Hội đồng nhân dân các cấp.
Đánh giá hiệu quả của của Hội đồng nhân dân về hiệu quả thi hành pháp
luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chủ yếu được thực hiên
thông qua hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước cùng cấp (Uỷ ban nhân dân cùng cấp) bao gồm: giám sát của

Hội đồng nhân dân tại kỳ họp; giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân;
giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của đại biểu Hội đồng
nhân dân.
Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các hoạt động sau:
- Xem xét báo cáo công tác của Uỷ ban nhân dân;
- Xem xét việc chất vấn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên
khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân cùng cấp;
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi
phát hiện có dấu hiệu sai trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết cảu Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
- Thành lập đoàn giám sát khi thấy cần thiết;
- Bỏ phiếu tin nhiệm với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
2.1.3. Công cụ đánh giá các cơ quan quyền lực
Thứ nhất, các chỉ tiêu do cơ quan quyền lực nhà nước đã giao cho cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện trong khoảng một thời gian nhất định.
Thứ hai, khung đánh giá được sử dụng phổ biến trong xây dựng báo cáo.
Thứ ba, khung đánh giá mà dư luận xã hội phản ánh với cơ quan dân cử
(nhất là thông qua kênh truyền thống).
15


Thứ tư, công cụ đo lường từ hoạt động đánh giá mức độ tín nhiệm của cơ
quan quyền lực nhà nước đối với những người được bầu, phê chuẩn đang công
tác tại cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ năm, kết quả đánh giá của cơ quan chuyên môn thuộc cơ quan quyền
lực nhà nước đối với chi tiêu ngân sách nhà nước (Kiểm toán nhà nước).
2.2. Hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật do cơ quan hành
chính nhà nước tiến hành

2.2.1.Về phạm vi đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành
chính nhà nước.
Đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật, hiệu quả hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Đánh giá hiệu quả thi hành đối với một chủ trương, chính sách hoặc các
quy định cụ thể của pháp luật đối với lĩnh vực nhất định được giao.
2.2.2. Về phương pháp đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật
Hiện nay việc đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước nói chung và hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
nói riêng có thể bằng các phương pháp đánh giá sau:
Phương pháp đánh giá mô tả truyền thống.
Phương pháp đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật thông qua hoạt động
theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Phương pháp đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật thông qua hoạt động tổ
chức hội thảo, toạ đàm, sơ kết, tổng kết việc tổ chức thi hành đối với một văn
bản pháp luật cụ thể.
Phương pháp đánh giá theo các chỉ tiêu thi đua, khen thưởng.
2.2.3. Về tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành
chính nhà nước.
Tiêu chí về tổ chức triển khai văn bản.
Tiêu chí về chất lượng thực thi văn bản.
Tiêu chí về hiệu quả quản lý nhà nước
Tiêu chí về hoạt động thực thi công vụ.
Tiêu chí về việc bố trí các nguồn lực.
2.2.4. Về nguồn dữ liệu phục vụ việc đánh giá.
Báo cáo tình hình thi hành pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp báo cáo tình hình thi hành pháp
luật.

16



Các số liệu thống kê của cơ quan nhà nước , bao gồm: Tổng cục Thống kê
(thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư), các Cục Thống kê tại địa phương…
Các số liệu thu được từ công tác thống kê của ngành.
Các dữ liệu thu được từ việc tổng hợp báo cáo của các đơn vị cấp dưới về
kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao theo phân công.
3. Thực trạng các công cụ đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của
cơ quan hành chính nhà nước.
3.1. Các công cụ đánh giá được sử dụng trong công tác thi đua, khen
thưởng.
Theo quy định của Luật thi đua, khen thưởng năm 2003 sửa đổi, bổ sung
năm 2005, 2009, 2013, các danh hiệu dành cho cơ quan hành chính nhà nước có
thành tích tốt trong công tác nói chung bao gồm:
- “Cờ thi đua của Chính phủ”;
- Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương;
- “Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị quyết thắng”;
- “Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến”.
Đối với các cá nhân, các danh hiệu bao gồm:
- “Chiến sĩ thi đua toàn quốc”;
- “Chiến sĩ thi đua” cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương;
- “Chiến sĩ thi đua cơ sở”;
- “Lao động tiên tiến”; “Chiến sĩ tiên tiến”.
3.2. Bộ công cụ đánh giá mức độ tiếp cận pháp luật của người dân tại
cơ sở.
Bộ công cụ đánh giá mức độ tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở
hay còn gọi là chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở được quy định
trong Quyết định số 09/2013/QĐ – TTg ngày 24-01-2013 của Thủ tướng Chính
phủ.
Có 8 tiêu chí tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở được sử dụng với

41 chỉ tiêu cụ thể. Mỗi tiêu chí và chỉ tiêu đều được gắn một điểm số tương ứng
như sau:
- Tiêu chí về giải quyết các vụ việc hành chính, tư pháp, gồm 12 chỉ tiêu
(300 điểm); Tiêu chí về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, phường, gồm 02 chỉ tiêu (50 điểm);
- Tiêu chí về phổ biến, giáo dục pháp luật gồm 06 chỉ tiêu (110 điểm);
- Tiêu chí về trợ giúp pháp lý, gồm 05 chỉ tiêu (100 điểm);
- Tiêu chí về thực hiện dân chủ ở xã, phường, gồm 05 chỉ tiêu (130 điểm);
- Tiêu chí về thiết chế tiếp cận pháp luật của xã hội, gồm 06 chỉ tiêu (130
điểm);
17


- Tiêu chí về bộ máy bảo đảm thực hiện thiết chế pháp luật, gồm 02 chỉ
tiêu (110 điểm);
- Tiêu chí về kinh phí và cơ sở vật chất , gồm 03 chỉ tiêu (70 điểm). Tổng
số điểm của các tiêu chí là 1.000 điểm.
3.3. Bộ chỉ số cải cách hành chính (PAR Index)
Bộ chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) là bộ chỉ số đo lường nỗ lực
và kết quả thực hiện hoạt động cải cách hành chính của các bộ và Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh do Bộ Nội vụ xây dựng và đang tổ chức triển khai thực hiện. Chỉ số
này được ban hành kèm theo quyết định số 1294/QĐ – BNV ngày 03-12-2012
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và hướng dẫn của Bộ Nội vụ được ban hành theo
Công văn số 933/BNV-CCHC ngày 20-3-2013 của Bộ Nội vụ (được hướng dẫn,
bổ sung bởi Công văn số 1417/BNV-CCHC ngày 23-4-2013).
Theo các văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ, chỉ số cải cách hành chính
được xác định dựa trên 89 tiêu chí thành phần.
Bên cạnh chỉ số PAR Index, Bộ Nội vụ còn xây dựng và triển khai một
chỉ số khác là chỉ số hài lòng của người dân, tổ chứ đối với sự phục vụ của cơ
quan hành chính nhà nước.

3.4. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
Từ năm 2005, PCI được coi là một công cụ quan trọng để đo lường và
đánh giá công tác quản lý và điều hành kinh tế của 63 tỉnh, thành phố Việt Nam
trên một số các lĩnh vực có ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực kinh tế dân
doanh, gồm:
- Chi phí gia nhập thị trường;
- Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất;
- Tính minh bạch và tiếp cận thông tin;
- Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước;
- Chi phí không chính thức;
- Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh;
- Dịch vụ hổ trợ doanh nghiệp;
- Đào tạo lao động và
- Thiết chế pháp lý.
3.5. Chỉ số đánh giá chất lượng hoạt động xây dựng và thi hành pháp
luật của các bộ (MEI)
Đây là bộ chỉ số được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) xây dựng nhằm dựa trên ý kiến đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp
đưa ra bức tranh tổng thể về hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật
về kinh doanh.
18


Bộ chỉ số MEI 2012 được xây dựng theo thang điểm 100 (gồm 6 chỉ số
thành phần và 26 tiểu chỉ số thành phần) trong dó có 50 điểm dành cho các chỉ
số phản ánh hoạt động “xây dựng pháp luật” gồm:
- Xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật;
- Lấy ý kiến doanh nghiệp, hiệp hội cho các dự thảo văn abnr quy phạm
pháp luật;
- Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật và 50 điểm dành cho các chỉ số

phản ánh hoạt động “thi hành pháp luật” gồm:
- Công khai thông tin và tuyên truyền, phổ biến pháp luật;
- Tổ chức thi hành pháp luật;
- Rà soát, kiểm tra, tông kết thi hành pháp luật.
3.6. Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)
Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) là một dự án
nghiên cứu được phối hợp thực hiện giữa CECODES (Trung tâm Nghiên cứu
Phát triển và Hổ trợ Cộng đồng), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và UNDP Việt
Nam. PAPI đo lường và đánh giá tính hiệu quả về quản trị và hệ thống hành
chính công cấp tỉnh ở Việt Nam dựa vào cảm nhận và trải nghiệm của người
dân.
Bộ chỉ số PAPI tập trung đánh giá các khía cạnh cơ bản sau đây của hệ
thống hành chính công cấp tỉnh:
- Sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định (về chính sách và
cá biệt);
-Tính/độ minh bạch;
- Trách nhiệm giải trình;
- Tình trạng tham nhũng;
- Tính đơn giản, rõ ràng, hợp lý của thủ tục hành chính;
- Chất lượng của dịch vụ công.
3.7. Chỉ số năng lực cạnh tranh vĩ mô của Việt Nam
Năm 2010, các nhóm chuyên gia tại Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
trung ương của Việt Nam phối hợp với Học viện Cạnh tranh châu Á và đại học
Quốc gia Singapore, các chuyên gia đã tập trung vào phân tích các khía cạnh
khác sau đây của hệ thống pháp luật Việt Nam:
- Sự hiện diện của nhà nước pháp quyền;
- Chất lượng của các thiết chế chính trị .
3.8. Chỉ số công lý
Chỉ số công lý được cho là một công cụ định hướng được xây dựng để
chuyển tải các ý kiến và đánh giá của người dân về hiệu quả hoạt động của các

định chế nhà nước trong việc bảo đảm công lý và các quyền cơ bản trên thực tế,
19


đồng thời giúp các bên có liên quan đánh giá và giám sát các thay đổi thực
chứng về thi hành pháp luật và bảo đảm công lý ở Việt Nam.
Việc xây dựng Chỉ số Công lý là sự phân tích thực trạng dựa trên ý kiến
cảu người dân thường, chứ không phải ý kiến của chuyên gia, các nhà nghiên
cứu, với các mục tiêu cụ thể:
- Cung cấp tập hợp dữ liệu đáng tin cậy, tổng hợp ý kiến của người dân;
- Tạo điều kiện cho phân tích so sánh về hiệu quả quản trị và thực thi
pháp luật , bảo vệ công lý ở địa phương;
- Cung cấp công cụ đánh giá hệ thống tư pháp;
- Xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu để thiết lập đường cơ sở cho đánh
giá hiệu quả hoạt động của tư pháp.
Tóm tại, Chỉ số Công lý là một công cụ định lượng được xây dựng để
chuyển tải ý kiến và đánh giá của người dân về hiệu quả hoạt động của các chế
định nhà nước. Qua nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý, thực trạng đánh giá hiệu
quả thi hành pháp luật và thực trạng các bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành
pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay có thể rút ra
một số kết luận chung sau:
Mặc dù đã có những nghiên cứu bước đầu, tuy nhiên cho đến nay, ở việt
Nam chưa có một bộ chỉ số – với tính chất là bộ công cụ dể đánh giá/đo lường
hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Do vậy, hoạt
động đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và hiệu quả
thi hành pháp luật nói riêng còn chưa được tiến hành một cách bài bản và thống
nhất áp dụng trong cả nước.
Các công cụ đánh giá hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước có
liên quan đến hiệu quả thi hành pháp luật do các tổ chức, hiệp hội xây dựng và
tổ chức đánh giá có ảnh hưởng tích cực đến các bộ, ngành địa phương. Tuy

nhiên kết quả hoạt động này chỉ mang tính chất tham khảo.
IV. KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Những yêu cầu về nội dung bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành
pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước.
1. 1. Đánh giá về hiệu quả hoạt động xây dựng văn bản hướng dẫn
Để đánh giá hiệu quả hoạt động xây dựng văn bản thì phải đánh giá một
số vấn đề cơ bản sau:
- Số lượng văn bản hướng dẫn hoặc quy định chi tiết được giao chủ trì
soạn thảo để trình cấp có thẩm quyền ban hành;
- Mức độ kịp thời, đúng tiến độ của việc ban hành văn bản;
20


- Mức độ đúng nội dung, phạm vi cần hướng dẫn so với yêu cầu văn bản
được hướng dẫn;
- Mức độ tuân thủ về trình tự, thủ tục;
- Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ;
- Bảo đảm tính khả thi, minh bạch;
- Việc ban hành văn bản chỉ đạo, đôn đốc, tổ chức thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và của cơ quan cùng cấp có thẩm
quyền.
1.2. Đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Đây được xác định là khâu quan trọng hàng đầu, là cầu nối giữa hoạt
động xây dựng và thực thi pháp luật. Thủ tướng đã ban hành Quyết định số
09/2013/QĐ – TTg quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật, có 08 tiêu chí được
ban hành thì tiêu chí thứ 3 về phổ biến giáo dục, pháp luật, gồm:
Đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật của xã, phường được bồi dưỡng,
cung cấp tài liệu nghiệp vụ trong năm;
Có mạng lưới truyền thanh cơ sở tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật;

Tỷ lệ văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa
vụ cơ bản cảu công dân được phổ biến cho người dân;
Tủ sách pháp luật có đủ các loại sách, báo theo quy định và được cập
nhật, bổ sung hàng năm;
Có Thư viện xã, phường (hoặc Bưu điện văn hoá xã, phường) hoặc địa
điểm thuận lợi do Uỷ ban nhân dân xã, phường quản lý để phục vụ người dân
miễn giảm phí cơ sở dữ liệu pháp luật qua máy vi tính;
Người dân tra cứu trực tiếp văn bản, tài liệu, sách, báo pháp luật hoặc máy
vi tính nối mạng tại các địa điểm Uỷ ban nhân dân xã, phường quản lý.
1.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động xây dựng bộ máy và các điều kiện
bảo đảm tổ chức thi hành pháp luật
Việc đánh giá cần quan tâm tới các nội dung cơ bản sau: Số lượng biên
chế đã thực hiện so với số lượng biên chế được giao; số lượng biên chế được
giao so với số lượng biên chế cần và đủ để triển khai nhiệm vụ thi hành pháp
luật; số lượng đơn vị được thành lập, duy trì hoạt động so với số lượng đơn vị
cần và đủ để thực thi pháp luật; số lượng ngân sách thực tế được giao so với số
lượng ngân sách đủ để thi hành pháp luật; số lượng cán bộ, công chức được đào
tạo đúng chuyên môn, nghiệp vụ; mức độ đáp ứng về trang thiết bị, điều kiện
làm việc so với nhu cầu thực tế để triển khai nhiệm vụ…

21


1.4. Đánh giá hiệu quả hoạt động xây dựng và thực hiện các chương
trình, kế hoạch cụ thể triển khai các quy định pháp luật
Viêc đánh giá hiệu quả này cần tập trung đánh giá các khía cạnh như việc
xây dựng và triển khai các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy
hoạch và kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, cụ thể: số quy hoạch được ban
hành so với số quy hoạch cần được ban hành đúng thời hạn; số quy hoạch được
ban hành một cách chất lượng (thoả mãn về tính toàn diện, tính nhất quán, tính

đồng bộ, tính khả thi) so với số quy hoạch đã được ban hành…
1.5. Đánh giá hiệu quả hoạt động cấp phép, cấp văn bằng, chứng chỉ,
giấy chứng nhận
Đánh giá hiệu quả hoạt động cấp phép, cấp văn bằng, chứng chỉ, giấy
chứng nhận cần tập trung vào các khía cạnh như: việc cấp phép, cấp các loại
giấy chứng nhận, văn bằng, chứng chỉ phải đúng đối tượng, đúng thời hạn, trình
tự, thủ tục, đúng các yêu cầu khác của pháp luật.
1.6. Đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị trong quá trình thi hành pháp luật
Về nội dung này thì cần tập trung đánh giá về số lượng thực tế được thanh
tra, kiểm tra so với số lượng đối tượng cần được tranh tra, kiểm tra; số vụ vi
phạm được xử lý đúng hạn; quy mô tồn tại tình trạng vi phạm ẩn chưa được phát
hiện; số vụ khiếu nại được giải quyết đúng hạn, đúng pháp luật; số vụ tố cáo
được giải quyết đúng hạn, đúng pháp luật so với vụ tố cáo được tiếp nhận, thụ
lý; mức độ hài lòng của người yêu cầu việc giải quyết kiến nghị,…
2. Đề xuất bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ
quan hành chính nhà nước
Từ việc phân tích lý luận, học hỏi, nghiên cứu kinh nghiệm, thực tiễn
trong và ngoài nước và đưa ra những chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật
của các cơ quan hành chính nhà nước trên thế giới, cuốn sách đã đề xuất một số
kiến nghị nhằm hướng đến hoàn thiện bộ chỉ số đánh giá này ở nước ta hiện nay.
Việc xây dựng bộ chỉ số đánh giá phải phù hợp với xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam và với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cạnh tranh toàn cầu như hiện nay, tức
phải đảm bảo 4 giá trị cơ bản đó là hiệu lực, hiệu quả, dân chủ và pháp quyền.
Đồng thời việc thiết kế Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các
cơ quan hành chính nhà nước phải bám sát yêu cầu nội dung cơ bản của 6 hoạt
22



động thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm: xây
dựng văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; tổ
chức bộ máy, nhân sự, tài chính, trang thiết bị và các điều kiện khác; xây dựng
chương trình, kế hoạch triển khai pháp luật; cấp giấy phép, giấy chứng nhận,
chứng chỉ hành nghề; thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Cuốn sách đã đề xuất bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của
các cơ quan hành chính nhà nước. Theo đó để phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ
máy ở Việt Nam hiện nay, Việt Nam chỉ nên thiết kế Bộ Chỉ số thi hành pháp
luật của hai loại cơ quan hành chính nhà nước cơ bản đó là các bộ và Ủy ban
nhân dân các cấp. Bộ chỉ số bao gồm 6 chỉ số của các hoạt động trên, tuy nhiên
trọng số của mỗi chỉ số có thể linh hoạt thay đổi và không giống nhau khi đánh
giá giữa các bộ và ủy ban nhân dân các cấp, xuất phát từ tầm quan trọng trong
hoạt động của mỗi nơi, kéo theo đó là số điểm cho mỗi trọng số cũng sẽ khác
nhau. Trong đó cần lưu ý, Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh có thể áp dụng cho Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã
nhưng trọng số phải thay đổi vì càng đi xuống công tác ban hành văn bản càng
giảm và công tác tổ chức thi hành pháp luật càng tăng. Khi xếp loại đánh giá thì
điểm loại tốt (>80), khá (70- dưới 80), trung bình (50 – dưới 70), yếu kém (dưới
50).
3. Đề xuất quy trình và điều kiện áp dụng bộ chỉ số
Sách cũng đề xuất quy trình và điều kiện áp dụng bộ chỉ số. Quy trình
được đề xuất gồm 6 bước
Bước 1: xác định được nội dung được đánh giá (hoạt động nào) và đối
tượng được đánh giá (chủ thể thực hiện hoạt động đó ).
Bước 2: Xây dựng tiêu chí đánh giá phù hợp với nội dung đánh giá (thỏa
mãn mô hình SMART).
Bước 3: Thu thập dữ liệu, thông tin một cách xác thực từ nhiều chiều,
nhiều kênh để đánh giá thông qua nghiên cứu, điều tra, khảo sát.
Bước 4: Phân tích dữ liệu thu thập trên để có rút ra hiệu quả của nội dung
và đối tượng được đánh giá (chủ thể).

Bước 5: Phân tích nguyên nhân của việc không đạt được hiệu quả và đề
xuất giải pháp
Bước 6: Tổng kết, rút kinh nghiệm, hoàn thiện công tác đánh giá.
Qua cuốn sách này về lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ Chỉ số đánh giá
hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước, ta có thể rút ra
một số kết luận sau:
- Bộ chỉ số trên là rất quan trọng, là cơ sở để đo lường việc đáp ứng mục
tiêu thi hành pháp luật của những cơ quan hành chính nhà nước, xuất phát từ
23


thực tiễn, từ việc xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, từ yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong bối cảnh hội
nhập, cạnh tranh quốc tế và từ yêu cầu nội thân điều hành, quản lý của nhà nước
và gắn với hoạt động cải cách hành chính ở nước ta.
- Hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan này là
hoạt động mang tính chuyên môn cao, khá nhạy cảm vì liên quan đến chính trị.
- Hoạt động đánh giá tuy được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau,
được quy định trong các nghị quyết, văn bản pháp luật nhưng chưa được chuyên
nghiệp và thống nhất, chuẩn hóa.
- Điều đáng kể là tiền đề cơ sở chính trị pháp lý cho hoạt động đánh giá
này đã được hình thành và ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, tuy
nhiên cần đẩy mạnh hơn nữa chất lượng số liệu thống kê và phân công, phân cấp
nhằm giúp việc thiết kế Bộ chỉ số hiệu quả hơn.
- Bộ chỉ số cần được thiết kế theo hướng tổng hợp nhưng phải linh hoạt
khi áp dụng, có thể thêm bớt, thay đổi, bổ sung các trọng số cho phù hợp với
từng cơ quan hành chính nhà nước, cần sự góp sức của nhiều chuyên gia và nhà
khoa học.
V. TẠI SAO PHẢI ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP
LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.

Đầu tiên, đi từ những đặc tính chủ yếu của Cơ quan hành chính nhà nước.
Để xây dựng một nền hành chính hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cần
phải đi hoạt động đúng với những đặc tính của cơ quan hành chính nhà nước.
Những đặc tính này vừa thể hiện đầy đủ bản chất của Nhà nước cộng hòa
XHCN Việt Nam, vừa kết hợp được những đặc điểm chung của một nền hành
chính phát triển theo hướng hiện đại. Và để cơ quan hành chính đó hoạt động
theo những đặc tính trên theo quan điểm của Đảng thì cần có sự đánh giá về hiệu
quả thi hành chính sách của nhà nước cụ thể như sau:
Ở nước ta, nền hành chính nhà nước mang đầy đủ bản chất của một Nhà
nước dân chủ xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân" dựa
trên nền tảng của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam nằm trong hệ thống chính trị, có hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò tham gia và giám sát hoạt động
của Nhà nước, mà trọng tâm là nền hành chính. Như vậy, chính sách và pháp
luật khi thi hành của các cơ quan nhà nước phải đảm bảo được đúng đường lối
và quan điểm của đảng, đúng với bản chất của một nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
24


Nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước có bổn phận phục vụ sự
nghiệp phát triển cộng đồng và nhu cầu thiết yếu của công dân. Muốn vậy, phải
xây dựng một nền hành chính công tâm, trong sạch, không theo đuổi mục tiêu
lợi nhuận, không đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao. Chính vì vậy, bổn
phận cơ quan hành chính nhà nước phải tự nhìn nhận lại những chính sách pháp
luật đã ban hành có hiệu quả không. Qua đó, nhận sự phản hồi của người dân
khi các cơ quan hành chính nhà nước thực thi chính sách và pháp luật. Tạo nên
một cơ chế quản lí khép kín đối với các cơ quan hành chính nhà nước về quá
trình thực thi chính sách cũng như quá trình sửa đổi, điều chỉnh đổi với những
chính sách, pháp luật do chính cơ quan hành chính nhà nước ban hành khi có kết

quả đánh giá hiệu lực thi hành chính sách pháp luật được 4 chủ thể đánh giá đó
là: Chính bản thân cơ quan hành chính nước trực tiếp thi hành và đánh giá; cơ
quan quản lí cấp trên kiểm tra, giám sát hiệu quả khi cơ quan cấp dưới thực thi;
các tổ chức chính trị xã hôi, mặt trận tổ quốc cùng với các cơ quan báo chí
truyền thông của nhân dân; Và quan trọng là “khách hàng” mà cơ quan hành
chính nhà nước hướng đến đó chính là người dân bởi vì bản chất của nhà nước
ta là nhà nước dân chủ XHCN. Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân là tư tưởng chủ đạo trong xây dựng, thực hiện hệ thống thể chế hành
chính ở nước ta. Cơ quan hành chính và đội ngũ công chức không được quan
liêu, hách dịch, không được gây phiền hà cho người dân khi thi hành công vụ.
Khi có vấn đề bất cập xảy ra chính khách hàng có quyền phản hồi lại để có sự
điều chỉnh kịp thời mang tới sự “Phục vụ” tốt nhất đối với người dân
Với tư cách là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước, bản than nền hành
chính nhà nước phải được tổ chức và hoạt động tuân theo những quy định pháp
luật, đồng thời yêu cầu mọi công dân và tổ chức trong xã hội phải nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật. Đảm bảo tính pháp quyền của nền hành chính là một trong
những điều kiện để xây dựng Nhà nước chính quy, hiện đại, trong đó bộ máy
hành pháp hoạt động có kỷ luật, kỷ cương. Để đảm bảo được tính pháp quyền đó
cần có sự giám sát của những chủ thể đã được nêu ở trên.
Tính pháp quyền đòi hỏi các cơ quan hành chính, công chức phải nắm
vững qui định pháp luật, sử dụng đúng quyền lực, thực hiện đúng chức năng và
thẩm quyền trong thực thi công vụ. Mỗi cán bộ, công chức cần chú trọng vào
việc nâng cao uy tín về chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực thực thi để
phục vụ nhân dân. Tính pháp quyền của nền hành chính được thể hiện trên cả
hai phương diện là quản lý nhà nước bằng pháp luật và theo pháp luật. Điều đó
có nghĩa là, một mặt các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng luật pháp là công
25



×