Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh tuyên quang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

CHU VĂN LIỀU

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH TUYÊN QUANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

CHU VĂN LIỀU

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH TUYÊN QUANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Hà Quang Ngọc


Hà Nội – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Chu Văn Liều


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ .................................. 7
1.1. Cán bộ dân tộc thiểu số, vị trí, vai trò và đặc điểm của đội ngũ cán bộ
ngƣời dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cách mạng...................................... 7
1.1.1. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ................................................... 7
1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp cách mạng............................................................................................ 10
1.1.3. Đặc điểm của việc xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ... 15
1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ ngƣời dân tộc thiểu số ................................ 20
1.2.1 Khái niệm “xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số” ............. 20
1.2.2. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số............................. 21
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ ngƣời dân
tộc thiểu số...................................................................................................... 27
1.4.1. Tình hình, nhiệm vụ cách mạng ............................................................ 27
1.4.2. Chủ trương, chính sách cán bộ dân tộc của Đảng, Nhà nước ............. 30
1.4.3. Nhận thức, phong cách, lề lối làm việc của người lãnh đạo địa phương.......37

1.4.4. Đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa của người dân tộc .......................... 38
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 40
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƢỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG .................................... 41
2.1. Khái quát về tỉnh Tuyên Quang ........................................................... 41
2.1.1. Về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ..................................................... 41
2.1.2. Về dân cư, dân tộc ................................................................................. 42
2.1.3. Về kinh tế - xã hội................................................................................. 43
2.2. Tình hình xây dựng đội ngũ cán bộ ngƣời dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên
Quang ............................................................................................................. 45


2.2.1. Công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số ........................................ 45
2.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc....................................................... 48
2.2.3. Tuyển dụng, sử dụng, bầu cử và phê chuẩn cán bộ dân tộc ................. 49
2.2.4. Chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ dân tộc thiểu số ............................ 52
2.3. Những ƣu điểm ...................................................................................... 55
2.4. Hạn chế và nguyên nhân ....................................................................... 57
2.4.1. Hạn chế ................................................................................................. 57
2.4.2. Nguyên nhân của hạn chế ..................................................................... 59
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 63
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH TUYÊN QUANG ............. 65
3.1. Phƣơng hƣớng ........................................................................................ 65
3.1.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đảm bảo tính đặc thù phù
hợp với đặc điểm, điều kiện địa phương và dân tộc. ...................................... 65
3.1.2 Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải xuất phát từ yêu cầu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh .................................................. 67
3.1.3 Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số theo hướng nâng cao chất
lượng đội ngũ và chất lượng hoạt động trong thực tiễn ................................. 69

3.2. Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang...... 71
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác cán bộ ...... 71
3.2.2. Nâng cao hiểu biết pháp luật từ đó tăng cường trách nhiệm của cán bộ
trong thực hiện các hoạt động thực tiễn ......................................................... 73
3.2.3. Hiện đại hóa cơ sở, môi trường làm việc của đội ngũ cán bộ. ....... 76
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ đãi ngộ, thu hút cán bộ người
dân tộc thiểu số. .............................................................................................. 78
3.2.5. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá cán bộ............. 80
3.2.6. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quy hoạch cán bộ dân
tộc thiểu số ...................................................................................................... 83


3.2.7. Đổi mới quy trình, chế độ tuyển dụng, bố trí, sử dụng đối với cán bộ
dân tộc thiểu số ............................................................................................... 86
3.2.8. Đổi mới công tác luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số ........................ 89
3.2.9. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, điều hành thực hiện của
chính quyền, nhất là bộ máy làm công tác tổ chức - cán bộ........................... 91
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định vấn
đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng.
Một trong những nội dung quan trọng để giải quyết tốt vấn đề dân tộc là phải
xây dựng cho được đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có phẩm chất và
năng lực. Với đường lối đúng đắn đó, trong những năm qua, Đảng ta chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số cho

vùng đồng bào dân tộc. Bởi vậy, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã dần
phát triển cả về số lượng và chất lượng, có nhiều đồng chí cán bộ người dân
tộc thiểu số được giao những trách nhiệm quan trọng từ Trung ương đến địa
phương, góp phần to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói
chung, vùng dân tộc và miền núi nói riêng.
Công tác cán bộ là một trong những khâu then chốt trong toàn bộ hoạt
động lãnh đạo của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc” và “công việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ nói chung và công tác
xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ vững mạnh nói riêng. Văn kiện Hội nghị
lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã chỉ rõ: "Nhìn chung, đội
ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý ở vùng dân tộc và miền núi còn thiếu về số
lượng, yếu về năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện; công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm" [7, tr.34].
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em, trong đó
có đến 53 dân tộc thiểu số thường cư trú ở vùng miền núi. Trong đó, Tuyên
Quang là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc có địa bàn chiến lược quan
trọng cả về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng; đồng thời là địa bàn tụ cư lâu
đời của 22 dân tộc. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,
1


sau 30 năm đổi mới, tỉnh miền núi Tuyên Quang đã có những bước tiến đáng
kể trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng;
đồng thời cũng tồn tại những thiếu sót, yếu kém. Những tồn tại này thể hiện
cả trong cơ chế, chính sách dân tộc; công tác cán bộ dân tộc thiểu số còn
nhiều hạn chế và bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
hiện nay.
Đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang nhìn chung trình độ dân

trí chưa cao, nhiều tập tục lạc hậu chưa được xóa bỏ triệt để, các thế lực thù
địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, kích động chia rẽ đồng bào, chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc đã gây khó khăn trong công tác quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số tại đây. Vì vậy, trong các
nhiệm kỳ qua, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã chú trọng xây dựng kế hoạch,
quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số.
Để phát huy được nội lực của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần xây dựng được một
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh, từng bước hoàn thiện đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số các cấp, các ngành đủ phẩm chất, năng lực và trình độ đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Từ lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: "Xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay" làm
luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Những năm gần đây, ở nước ta đã có những công trình nghiên cứu về
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ nhiều góc độ và khía cạnh khác
nhau. Trong đó, có nhiều tác giả đã đề cập đến các khía cạnh mà đề tài này
quan tâm. Tiêu biểu là một số công trình có tính chất chuyên khảo như sau:
- Đề tài khoa học cấp nhà nước: KX. 04-11 do cố GS. TS Bế Viết
Đẳng làm chủ nhiệm: "Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính sách
2


đối với các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội miền
nói". Trong đó, có dành một chương nghiên cứu về vấn đề phát triển đội ngũ
cán bộ, trí thức các dân tộc thiểu sô gắn với quá trình phát triển của cách
mạng Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: KX-05: "Mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay", (sách tham khảo)

do GS. TS Phan Hữu Dật chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Có
đề cập đến vấn đề cán bộ người dân tộc thiểu sô trong nội dung chương 3 và
chương 4. Chương 3: Đề cập đến cán bộ dân tộc khi nghiên cứu chính sách dân tộc
dưới bài học kinh nghiệm sử dụng con người trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Chương 4: Bàn đến vấn đề cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay gắn với vai
trò của họ ở một số vùng cụ thể.
- PGS. TS Nguyễn Quốc Phẩm và GS. TS Trịnh Quốc Tuấn: "Mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Đây là một cuốn sách tham khảo, có nghiên
cứu một cách sâu sắc vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đối với
việc xây dựng và phát huy vai trò hệ thống chính trị các vùng dân tộc thiểu số
ở nước ta hiện nay.
- Cùng góc độ nghiên cứu trên, còn có cuốn sách "Hệ thống chính trị
cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội ở nông thôn miền núi vùng dân tộc
thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta" do PGS. TS Nguyễn Quốc Phẩm
chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- TS. Lô Quốc Toản: “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
Những luận văn và luận án đáng quan tâm như:
- Luận văn thạc sĩ: "Đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước ta
trong đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay" của tác giả Lô Quốc Toản (1993).
3


- Luận văn thạc sĩ: "Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
ở tỉnh Tuyên Quang từ 2001 đến 2010" của tác giả Lưu Thị Tuyết (2013).
- Luận án tiến sĩ: "Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong
công cuộc đổi mới" của tác giả Trịnh Quang Cảnh (2002).
Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích về cán bộ và công tác cán

bộ dân tộc ít người, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đề xuất
phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ người dân
tộc đáp ứng yêu cầu đặt ra ở nhiều địa phương khác nhau. Tuy nhiên, xây
dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu sô ở các địa phương (cấp tỉnh) vẫn
còn ít tác giả đề cập tới.
Nhìn chung, các tác giả đã đề cập đến vấn đề tạo nguồn cán bộ người
dân tộc thiểu số, đi sâu phân tích thực trạng trí thức người dân tộc thiểu số, đề
xuất những giải pháp để phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số và phát huy
vai trò trí thức người dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu và các bài báo khác viết
về đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói
riêng. Trên thực tế cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu
trực tiếp về phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang. Việc đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Tuyên Quang với những đặc thù riêng để từ đó xác định phương hướng
và đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của
tỉnh vẫn là một đề tài cần tiếp tục nghiên cứu - nhất là được nghiên cứu từ góc
độ chính trị - xã hội.
Việc nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở các
địa phương sẽ góp phần làm sáng tỏ những kết quả nghiên cứu chung, đồng
thời cũng là nguồn tư liệu quan trọng để bổ sung cho các công trình đã có do
tính chất đặc thù riêng của đề tài nghiên cứu.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
Luận văn đi sâu phân tích thực trạng của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang, từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Tỉnh đáp ứng yêu cầu phát triển của
địa phương trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn hướng vào giải quyết các nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số.
- Phân tích thực trạng, tìm ra nguyên nhân và những yêu cầu xây dựng
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong giai đoạn
hiện nay.
- Xác định phương hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang đáp ứng yêu cầu
trong tình hình mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Việc nghiên cứu vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số có nội dung rất riêng, trong phạm vi nghiên cứu của một luận
văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng đội ngũ này.
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
- Về thời gian: Từ năm 2010 đến 2015

5


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về các vấn

đề có liên quan đến đề tài, nhất là quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ nói
chung, phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn trân trọng kế thừa những thành quả nghiên cứu
của một số công trình có liên quan tới đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng và kết hợp đồng bộ các phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành và liên ngành: lôgíc, lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê,
hệ thống hóa,...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Cung cấp thêm nguồn tư liệu, nhất là tư liệu của địa phương về
công tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ
Tuyên Quang, về thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên
Quang.
- Góp phần tổng kết, đánh giá về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số của tỉnh Tuyên Quang, cung cấp thêm cơ sở thực
tiễn giúp Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang hoàn thiện hơn nữa công tác lãnh đạo
của mình trong công tác quan trọng này.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn, nhất là những kinh nghiệm
từ công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Tuyên Quang,
có thể tham khảo vận dụng ở các địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số khác, nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.
6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1. Cán bộ dân tộc thiểu số, vị trí, vai trò và đặc điểm của đội ngũ cán bộ
ngƣời dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cách mạng
1.1.1. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
Khái niệm dân tộc thiểu số
Khái niệm "dân tộc thiểu số" được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, trong các văn bản của các định chế tài chính
quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), hoặc các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc như
(UNDP, UNICEF...), người ta thường sử dụng khái niệm "người bản địa", hay
các "dân tộc bản địa" thay cho khái niệm "dân tộc thiểu số" như cách gọi của
chúng ta.
Đối với thực tiễn tộc người Việt Nam, khái niệm "người bản địa"
(hay còn gọi là "người bản xứ") chỉ xuất hiện vào thời Pháp thuộc, khi
phân biệt người dân Việt Nam với người Pháp. Có 54 tộc người sinh sống
lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam nhưng không có tộc người nào là bản địa
hay tộc người nào phi bản địa - dù có tộc người sinh sống lâu đời có tộc
người nhập cư muộn hơn - mà chỉ có tộc người đa số và tộc người thiểu
số. Do đó, khái niệm "tộc người thiểu số" (hay "dân tộc thiểu số") được sử
dụng là phù hợp thực tiễn tộc người ở nước ta. Gọi tộc người thiểu số là
để phân biệt với tộc người đa số mà tiêu chí phổ dụng là xem xét tỷ lệ dân
số tộc người trong tổng dân số quốc gia. "Theo tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009, cả nước có 85.846.997 người, trong đó người Kinh
là 73.574.427 người (chiếm 85,73%), nên được xem là tộc người đa số, 53
tộc người còn lại (và 2.134 người ngoại quốc) là 12.252.570 người (chiếm
7


14,27%), nên được xem là các tộc người thiểu số" [30, tr.19-20]. Một tộc
người chỉ được xem là thiểu số khi đặt dân số tộc người đó với tổng dân
số cả nước mà không xem xét ở phạm vi vùng hay địa phương. Bởi vì,

một tộc người thiểu số nào đó (của cả nước) nhưng đặt trong phạm vi một
địa phương nhất định có khi lại chiếm đa số, như trường hợp người
Mường ở Hòa Bình, người Thái ở Sơn La hay người Nùng ở Lạng Sơn.
Thuật ngữ "thiểu số" hay "ít người" cũng đều hàm nghĩa giống nhau, một
bên nghĩa Hán - Việt, còn bên kia là thuần Việt. Tuy nhiên, khi nói "ít
người" dễ hiểu lầm với các tộc người thiểu số có dân số ít (thường
dưới 10.000 người), nên thuật ngữ "ít người" ít được sử dụng. Còn nếu
gọi "dân tộc thiểu số" ở nước ta thì được hiểu là "tộc người thiểu số", tức
53 tộc người còn lại ngoài người Kinh. Các tài liệu phổ biến ở nước ta
thường phân biệt tộc người này với tộc người khác ở các dấu hiệu về ngôn
ngữ, đặc trưng sinh hoạt văn hóa, ý thức tự giác tộc người (thường thể
hiện ở tên tự gọi).
Cán bộ và cán bộ người dân tộc thiểu số
Theo Từ điển Hán - Việt, “cán bộ” là một danh từ chỉ lớp người là
những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy
sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do
cho dân tộc [37, tr.108].
Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, “cán bộ” được hiểu
là: Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước
(cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị). Người làm công tác có
chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không
có chức vụ [34, tr.105].
Theo từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng, "cán bộ là người phụ
trách một công tác của chính quyền hay của đoàn thể, phân biệt với dân
thường" [35, tr.103].
8


Còn theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “cán bộ” là thuật ngữ dùng để
"chỉ những người được bầu hoặc bổ nhiệm giữ chức vụ trong các tổ chức

(Đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân) thuộc hệ thống chính trị của quốc gia, ở
các cấp từ trung ương tới cơ sở.
Theo nghĩa rộng, cán bộ bao gồm tất cả những người giữ chức vụ hoặc
đảm trách công vụ trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị hoặc làm các
công việc do tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội... và nhân dân giao phó, cả
những người tự nguyện làm việc “ích nước lợi nhà” không hưởng lương,
được nhân dân tín nhiệm gọi là cán bộ (như cán bộ Bình dân học vụ, cán bộ
khuyến học, cán bộ tín dụng...)” [33, tr.442].
Trong đời sống xã hội, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là
tất cả những người thoát ly, làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn
thể, quân đội, được hưởng lương. Nói đến cán bộ là nói đến một lớp người
mới, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh cho cách mạng, gắn bó mật
thiết với nhân dân, gần gũi với dân chúng.
Tại điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước [40, tr.8].
Khái niệm “cán bộ người dân tộc thiểu số” về thực chất là một khái
niệm kép - một tập hợp của hai khái niệm “cán bộ” và “dân tộc thiểu số”.
Khái niệm này dùng để chỉ những người đang công tác trong các cơ quan,
đơn vị thuộc hệ thống chính trị có thành phần dân tộc xuất thân là các dân
tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiêu chí để phân biệt “cán bộ
dân tộc thiểu số” trong “đội ngũ cán bộ” nói chung là có thành phần dân tộc
xuất thân từ các “dân tộc thiểu số”.
9



Trong một số văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, cụm từ “cán bộ dân
tộc thiểu số” được thay thế bằng cụm từ “cán bộ là người dân tộc thiểu số”.
Xét về ngữ nghĩa đây là hai cụm từ đồng nghĩa. Xét về nội hàm khái niệm thì
đây là hai khái niệm có cùng nội hàm, có thể thay thế cho nhau.
1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp cách mạng
Khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đối với sự
nghiệp cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng từ trước tới nay: cán bộ là
khâu then chốt, là nhân tố quyết định thành bại của sự nghiệp cách mạng. Vai
trò to lớn của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được thể hiện trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các vùng dân tộc là:
Một là, vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được thể hiện
thông qua việc tiếp thu và vận dụng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương.
Hệ thống chính trị hoạt động tốt, cần phải có một đội ngũ cán bộ có
năng lực thực sự. Đó là một yêu cầu khách quan không chỉ đặt ra đối với các
vùng dân tộc thiểu số. Năng lực của đội ngũ cán bộ được xác định bởi một hệ
thống tiêu chuẩn nhất định tùy theo từng lĩnh vực và cương vị công tác của
mỗi cán bộ. Đối với cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ công tác ở các vùng
dân tộc thiểu số, trước hết phải có năng lực tiếp thu đầy đủ và chính xác các
quan điểm, sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, từ đó đem vận dụng một
cách phù hợp, sáng tạo trong địa phương, đơn vị mình phụ trách. Điều đó
chính là yếu tố khẳng định năng lực của từng người cán bộ cụ thể, đồng thời
khẳng định năng lực của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong quá trình thực
hiện chính sách dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất tổng hợp,
đề cập một cách toàn diện tất cả các nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, an
ninh, quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số. Việc tiếp thu đúng và đầy đủ
10



các chính sách đó đã là vấn đề khó, nhưng để vận dụng chính sách đó vào
thực tiễn địa phương, mang lại hiệu quả cao, phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác định còn khó hơn nhiều. Chính sách
dân tộc của Đảng ta từ trước tới nay luôn luôn đúng đắn và nhất quán, song ở
mỗi thời kỳ, ở mỗi lĩnh vực cụ thể, địa phương cụ thể đều xuất hiện những
thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình thực hiện. Điều đó là do nhận thức, khả
năng vận dụng của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu, từ đó dẫn đến những
sai lệch hoặc hạn chế hiệu quả của chính sách.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã có những chính sách nhằm đẩy nhanh
sự phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc. Sau khi Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội lần thứ VII
thông qua (1991), Đảng và Nhà nước ta triển khai hàng loạt chương trình, dự
án phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc như: Chương trình 327;
Chương trình trồng mới 7 triệu hécta rừng; Chương trình xóa đói giảm nghèo,
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn (Chương
trình 135)…
Trong nhưng năm qua, hầu hết các chương trình nói trên đã được triển
khai trên địa bàn miền núi và vùng dân tộc thiểu số. Những kết quả thu được
bước đầu đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt về nhiều mặt trong đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ
đó đã củng cố và tăng cường niềm tin của đồng bào đối với chính sách dân
tộc của Đảng, động viên khuyến khích nhân dân các dân tộc phát huy nội lực,
tận dụng sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, của các tỉnh, thành phố, các doanh
nghiệp để phát triển các vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhất là từ sau khi có Nghị
quyết số 22-NQ/TW, ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ
trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi; đặc biệt là từ sau
khi có Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung
11



ương (khóa IX) về công tác dân tộc, tình hình miền núi và các vùng đồng bào
dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến rất quan trọng. Mặt bằng dân trí đã
được nâng lên, mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học đã được thực hiện; hệ
thống trường dân tộc nội trú được hình thành từ trung ương đến tỉnh, huyện,
cụm, xã. Hệ cử tuyển các con em dân tộc thiểu số vào các trường đại học và
cao đẳng được duy trì thực hiện từ năm 1990 đền nay, đã tạo nguồn cán bộ
cho các dân tộc thiểu số sau này. Văn hóa phát triển phong phú hơn; đời sống
văn hóa của các đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao một bước; văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, giữ gìn và phát huy,
nhiều thôn bản đã hình thành các đội văn hóa, văn nghệ mạnh, nhiều hình
thức sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc được phục hồi và phát triển
mạnh. Các loại bệnh dịch đã được ngăn chặn và đẩy lùi, việc khám chữa bệnh
cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa đã được quan
tâm hơn.
Hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi bước đầu
được tăng cường và củng cố. Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản
ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững.
Những thành tựu nói trên đã chứng minh vai trò quan trọng của đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số. Đó chính là thành tích từ việc tiếp thu, vận dụng
chính sách của Đảng, Nhà nước ta vào công tác thực tiễn của đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số ở các địa phương và cơ sở. Điều đó khẳng định rằng: kiến
thức, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã được nâng cao
một bước; phẩm chất, bản lĩnh của cán bộ có sự trưởng thành, tạo tiền đề cho
những bước phát triển tiếp theo.
Hai là, tổ chức vận động quần chúng thực hiện chính sách của Đảng,
Nhà nước là chức năng cơ bản, là nhiệm vụ chủ yếu, rất quan trọng của đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Lực lượng của dân rất to, việc dân

vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì
12


cũng thành công. Theo tư tưởng đó của Người, công tác xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số luôn luôn phải gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ tổ
chức, vận động quần chúng các dân tộc. Công tác vận động quần chúng các dân
tộc được coi là nhiệm vụ cơ bản để mỗi người cán bộ có thể hoàn thành được
nhiệm vụ của mình. Nhưng công tác vận động quần chúng ở các vùng dân tộc
thiểu số có những đặc thù riêng, đòi hỏi mỗi cán bộ phải học tập, nghiên cứu
nắm vững những đặc thù đó để vận dụng đối với từng vùng dân tộc.
Đặc điểm tâm lý chung của đồng bào các dân tộc thiểu số là rất dễ tin
và cũng rất dễ mất lòng tin. Khi một người cán bộ đã tạo được niềm tin đối
với đồng bào thì sẽ được đồng bào tin theo, nghe theo và thực hiện nghiêm
chỉnh các nội dung công tác được cán bộ triển khai. Ngược lại, có thể chỉ vì
một vài hành vi nhỏ vi phạm bản sắc văn hóa dân tộc, hoặc chỉ vì không hiểu
phong tục, tập quán của đồng bào thì sẽ làm cho đồng bào hoàn toàn mất
niềm tin, từ chỗ là lực lượng ủng hộ nhiệt tình, họ sẽ trở thành lực lượng đối
lập với người cán bộ đó.
Cán bộ là người đem chính sách của Đảng và Chính phủ đến với quần
chúng, vì vậy khi người cán bộ làm tốt công tác tổ chức vận động quần chúng
thì đồng bào các dân tộc thiểu số tin tưởng vào chính sách, tin tưởng vào cán
bộ, tự nguyện đem hết tất cả tinh thần, lực lượng và của cải cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng. Nhưng khi người cán bộ để mất niềm tin của đồng bào,
điều đó cũng có nghĩa là đồng bào mất niềm tin vào chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Họ không những giảm sút niềm tin mà
còn có thể rất dễ bị các thế lực xấu lợi dụng, lôi kéo vào các hoạt động chống
đối lại cách mạng. Đó chính là bài học đắt giá mà chúng ta rút ra trong thực
tiễn những năm qua từ một số địa phương dân tộc thiểu số.
Để giải quyết được vấn đề này, trước hết phải đánh giá đúng tiềm năng,

thế mạnh của từng dân tộc, từng địa phương, tìm hiểu, nắm vững phong tục,
tập quán và truyền thống cách mạng của từng vùng dân tộc thiểu số. Trên cơ

13


sở đó xác định được phương hướng, nhiệm vụ công tác vận động quần chúng
sát với từng dân tộc thiểu số cụ thể. Thực tế trong những năm qua, chúng ta
chưa quan tâm thích đáng tới vấn đề này, nên hiệu quả vận động quần chúng
các dân tộc thiểu số ở nhiều nơi đạt thấp so với yêu cầu.
Ngôn ngữ dân tộc là phương tiện giao tiếp, là con đường để mỗi cán bộ
đi vào quần chúng các dân tộc thiểu số. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ bảy khóa IX đã đưa ra phương châm: “Xây dựng phong
cách và phương thức công tác của cán bộ, công chức phù hợp với đạo đức
cách mạng và đáp ứng yêu cầu tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Giáo dục cán bộ, công chức xây dựng và thực hành phong cách “trọng
dân, gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu,
làm dân tin”” [7, tr.22].
Ở những vùng dân tộc thiểu số, cán bộ, công chức muốn thực hiện tốt
chủ trương nói trên của Đảng, bắt buộc phải biết tiếng dân tộc thiểu số. Trong
một thời gian dài, chúng ta đã không quan tâm đến vấn đề này, vì vậy đã gặp
không ít khó khăn trong công tác vận động quần chúng ở các vùng dân tộc
thiểu số. Để khắc phục được tình trạng này, ngày 9-11-20014, Thủ tướng
Chính phủ đã ra Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi
dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công chức công tác ở vùng dân
tộc, miển núi. Ngày 24-1-2006, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương
trình khung dạy tiếng dân tộc thiểu số (có chữ viết) cho cán bộ công chức,
công tác ở vùng dân tộc thiểu số. Đó là điều kiện mới để đội ngũ cán bộ, công
chức công tác ở vùng dân tộc thiểu số có thể phát huy tốt vai trò của mình
trong việc tổ chức, vận động quần chúng các dân tộc.

Ba là, vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ còn được thể hiện thông qua
công tác kiểm tra, đôn đốc và bổ sung, điều chỉnh trong quá trình thực hiện
chính sách dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta cơ bản là đúng đắn và được
vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cách mạng Việt
14


Nam, nhưng trong quá trình thực hiện, do thiếu kiểm tra, đôc đốc, giám sát,
nên đã không phát hiện được, hoặc phát hiện chậm những thiếu sót của các
chính sách cũng như những nhu cầu mới phát sinh từ thực tế khách quan để
điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách.
Việc kiểm tra, đôn đốc và giám sát thực hiện chính sách là một chức
năng rất cơ bản và quan trọng của bản thân đội ngũ cán bộ của hệ thống chính
trị từ Trung ương đến cơ sở. Bởi vậy, trong tình hình hện nay, phát huy vai trò
của mỗi nười cán bộ và của toàn bô đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải
thường xuyên gắn liền với nhiệm vụ kiểm tra, đôn đốc, giám sát của họ. Có
như vậy mới có cơ sở để đánh giá đúng cán bộ, mới xác định rõ trách nhiệm,
quyền hạn và nghĩa vụ của từng cấp, từng ngành trong quá trình thi hành công
vụ, mới có cơ sở để phát huy vai trò của họ đối với nhân dân các dân tộc.
Bộ máy và cán bộ chỉ đạo các chương trình quốc gia ở nhiều địa
phương còn nhiều hạn chế, chưa ngang với nhiệm vụ: “Công tác thanh tra,
kiểm tra chưa mạnh, phần nhiều những sai phạm được phát hiện đều do nhân
dân và các cơ quan giám sát ở cơ sở. Việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan
trung ương chưa thường xuyên, chậm nắm tình hình ở cơ sở, nhất là dự án
phát triển sản xuất và đào tạo cán bộ. Việc giám sát đánh giá hiệu quả chương
trình chưa có những quy định về tiêu chuẩn, chỉ số cụ thể” [4, tr.18).
Những biểu hiện về vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số như trên
đã cho thấy cơ sở thực tiễn đòi hỏi phải xây dựng nguồn cán bộ dân tộc thiểu
số trong sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta.

1.1.3. Đặc điểm của việc xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
1.1.3.1. Kiên trì, lâu dài, liên tục
Kết hợp đúng đắn giữa các thế hệ cán bộ vừa là yêu cầu cấp bách, vừa
mang tính cơ bản, lâu dài cần được thực hiện tốt từ Trung ương tới cơ sở bảo
đảm sự chuyển tiếp liên tục vững vàng giữa các thế hệ cán bộ dân tộc thiểu số
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữ vững
15


độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền đất nước. Từ năm 1986 đến nay,
công tác cán bộ trong đó có nội dung kết hợp các thế hệ cán bộ dân tộc đã
được Đảng ta quan tâm làm tốt hơn trước. Cùng với sắp xếp, kiện toàn lại tổ
chức gọn nhẹ, tinh giản bớt đầu mối trung gian, Đảng đã thay đổi, bố trí lại
cán bộ để đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý mới. Bên cạnh những cán bộ
dân tộc lâu năm, có bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng chú ý đào tạo và sử
dụng, bố trí không ít cán bộ dân tộc thiểu số có tư duy đổi mới, năng động,
sáng tạo, tháo vát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có kiến thức
khoa học, kinh tế, luật pháp, có đầu óc kinh doanh.
Đảng ta khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề
chiến lược, cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của
cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển” [7 , tr.34]. Bài học thực tiễn rút ra
trong quá trình cách mạng Việt Nam là: muốn xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số vững mạnh, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng thì phải tạo được
nguồn cán bộ đông đảo, đảm bảo chất lượng. Vấn đề phát triển nguồn cán bộ
dân tộc thiểu số luôn là một yêu cầu khách quan, vừa phải kiên trì, vừa mang
tính lâu dài, liên tục đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
1.1.3.2. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc
Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về cương lĩnh dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước ta là một nước
thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều

bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ... Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm
thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa
xã hội" [21, tr.587]. Người cho rằng, trên dải đất Việt Nam, "Đồng bào Kinh hay
Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc
thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống
chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau" [19, tr.217].
16


Đảng và Nhà nước ta trước sau như một luôn tôn trọng quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, phấn đấu để thực hiện triệt để quyền bình đẳng ấy, tạo
những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ giữa các
dân tộc; thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng
tiến bộ trên cơ sở tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và phong
tục tập quán tốt đẹp của các dân tộc. Do đó:
Phải có đội ngũ cán bộ đông đảo bao gồm đủ các dân tộc thì mới phát
động được nhân dân các dân tộc, thể hiện trên thực tế sự bình đẳng về chính
trị và thiết thực tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc. Chú trọng xây dựng
cho từng dân tộc một số cán bộ cốt cán vững vàng về chính trị, tuyệt đối trung
thành và chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, có năng lực lãnh đạo
và chỉ đạo thực hiện [16, tr.159].
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là quan
điểm rõ ràng và nhất quán của Đảng ta, nhằm phát huy tính tích cực cách
mạng và khả năng to lớn của các dân tộc. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ mọi mặt, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số phát huy hết khả năng và năng lực vốn có của mình.
Để tồn tại và phát triển, mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc đều có nhu
cầu được giúp đỡ và có trách nhiệm giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau.
Bên cạnh sự quan tâm giúp đỡ của cán bộ người Kinh, cán bộ người
dân tộc thiểu số phải luôn cố gắng vươn lên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

cách mạng đặt ra, tránh tư tưởng mặc cảm, tự ti, ngăn ngừa những biểu hiện
dân tộc hẹp hòi, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, thực hiện theo tinh thần chỉ
dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đồng bào miền núi phải đoàn kết giúp đỡ
đồng bào miền xuôi và đồng bào miền xuôi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào
miền núi" [22, tr.135].
Phát triển vững mạnh đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số các cấp,
các ngành của cả nước nói chung, của tỉnh Tuyên Quang nói riêng là sự biểu
17


hiện cụ thể và sinh động nhất cho sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau
cùng phát triển, góp phần tạo động lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
1.1.3.3. Kết hợp hài hòa giữa yêu cầu uy tín với trình độ, năng lực
Phát huy vai trò của cộng đồng người dân tộc thiểu số, nhất là lực
lượng người có uy tín trong đổi mới các nội dung tạo nguồn là một phần giải
pháp quan trọng, có tính đặc thù đối với tạo nguồn cán bộ dân tộc. Với người
dân tộc thiểu số, tác động của cộng đồng dân tộc nhiều khi có ý nghĩa quyết
định phương hướng phát triển của một cá nhân, liên quan đến phương thức
sống quần tụ khá hẹp trong phạm vi làng xóm. Khi kinh tế thị trường len lỏi
vào cộng đồng dân tộc thiểu số, làm thay đổi quan niệm, chi phối lối sống của
một bộ phận đồng bào, gây những băn khoăn trong định hướng phát triển của
giới trẻ, thì lại một lần nữa, ý kiến của cộng đồng dân tộc, nhất là những
người có uy tín có một tác động rất tích cực. Người có uy tín trong cộng đồng
các dân tộc thiểu số thường là thầy cúng (trước đây), già làng, trưởng bản,
trưởng dòng họ, trí thức… Uy tín và uy quyền của họ từng tồn tại và phát huy
vai trò đối với sự phát triển của cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử. Khi
luật pháp Nhà nước cùng những công cụ bảo vệ pháp luật chưa xâm nhập sâu
vào đời sống đồng bào, thì những người có uy tín cùng dân làng xây dựng nên
luật tục và điều hành hoạt động của cả làng theo luật tục đó. Lúc cần trừng

phạt người vi phạm, họ phải thay mặt dân làng đứng ra phán xét. Lúc cần giáo
dục, khuyên bảo, động viên, họ cũng là người có tiếng nói thuyết phục nhất.
Trên tinh thần Chỉ thị 06/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 0102-2008 về việc phát huy vai trò của người có uy tín, tiêu biểu trong đồng bào
dân tộc thiểu số, các tỉnh miền núi đã xây dựng được lực lượng người có uy
tín theo phương thức người dân suy cử công khai, mỗi thôn, buôn, tổ dân phố
một người. Vai trò của người có uy tín trong công tác tạo nguồn cán bộ dân
tộc thiểu số thể hiện ở chỗ: Một mặt, một bộ phận người có uy tín đã là nguồn

18


cán bộ dân tộc, hoặc đang là đối tượng tạo nguồn cán bộ dân tộc. Những cố
gắng trong công tác của họ ở các địa phương và trong quá trình tham gia vào
các nội dung tạo nguồn sẽ có tác dụng trực tiếp đến hiệu quả tạo nguồn cán bộ
dân tộc. Mặt khác, bằng uy tín cá nhân, họ có thể nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng, điều kiện thực tế của con em các dân tộc thiểu số và gia đình của họ.
Qua đó họ vận động, thuyết phục, có ý kiến đóng góp đối với cả chủ thể lẫn
đối tượng tạo nguồn để công tác tạo nguồn nói chung, quá trình thực hiện các
nội dung tạo nguồn nói riêng đạt hiệu quả tốt nhất. Ngoài ra, họ có thể góp
phần giám sát, phản biện, góp ý điều chỉnh phương thức, mục tiêu tạo nguồn
cụ thể ở địa phương. Để phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng
các dân tộc thiểu số, trước hết phải xây dựng họ trở thành một đội ngũ có tổ
chức, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ huyện và xã. Ban Tổ chức,
Ban Dân vận cấp uỷ và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã là người tham mưu
và quản lý nhân sự, tổ chức các hoạt động. Thường xuyên bồi dưỡng, tập
huấn nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm công tác quần chúng cho họ. Vận dụng
linh hoạt chính sách của Nhà nước và sự đóng góp của cộng đồng để hỗ trợ
phương tiện hoạt động và khắc phục khó khăn cho các thành viên. Thăm hỏi,
động viên, khuyến khích các thành viên khi có thành tích đặc biệt và trong
những thời điểm nhạy cảm, cụ thể (như tang gia, hiếu hỉ, lễ tết…). Nghiên

cứu gắn trách nhiệm của người có uy tín trong từng nội dung cụ thể của tạo
nguồn cán bộ người dân tộc thiểu số sẽ phát huy tốt hơn vai trò của cả lực
lượng. Các cấp uỷ đảng cần tham khảo ý kiến của họ khi xác định cụ thể tiêu
chuẩn nguồn cán bô người dân tộc thiểu số, nhất là tiêu chuẩn nguồn xa là
người dân tộc thiểu số tại chỗ ở tại địa phương. Sử dụng người có uy tín trong
giám sát việc thực hiện tiêu chuẩn nguồn khi triển khai các nội dung tạo
nguồn; phát hiện, bồi dưỡng quần chúng người dân tộc thiểu số ưu tú trong
phong trào quần chúng; đề xuất và giám sát việc thực hiện chính sách cử
tuyển, hỗ trợ kinh phí cho con em người dân tộc thiểu số đi đào tạo nhằm hạn
chế những tiêu cực phát sinh. Nghiên cứu những cách làm hay của lực lượng
19


×