Tải bản đầy đủ (.pdf) (243 trang)

Luận án tiến sĩ ngữ văn Tình h̀ình song ngữ khmer-việt tại đồng bằng sông cửu long - một số vấn đề lư thuyết và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.93 MB, 243 trang )

8

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________________

ĐINH LƯ GIANG

TÌNH HÌNH SONG NGỮ KHMER-VIỆT
TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011


9

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________________

ĐINH LƯ GIANG

TÌNH HÌNH SONG NGỮ KHMER-VIỆT TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 62.22.01.10


LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGÔN NGỮ HỌC
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS BÙI KHÁNH THẾ
PHẢN BIỆN
1. PGS.TS ĐINH LÊ THƯ
2. PGS.TS ĐOÀN VĂN PHÚC
3. TS. PHÚ VĂN HẲN
PHẢN BIỆN ĐỘC LẬP
1. GS.TS NGUYỄN VĂN KHANG
2. PGS. ĐÀO THẢN

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011


12

QUY ƯỚC VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU PHIÊN ÂM
1. Ký hiệu phiên âm: Để tiện theo dõi và in ấn, ở một số nội dung trong luận án,
một số chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt sẽ được dùng để thay thế cho ký hiệu
phiên âm quốc tế, cụ thể như sau:
Ký hiệu nguyên âm đôi/nguyên âm
chuyển sắc

Ký hiệu nguyên âm:
i [i]

ư [ɨ]

u [u]
ie [i]


ê [e]
e []

ơ [ǝ]; â [ə̌]
a [ɐ]; ă [ɐ̌]

ae [ʌ]

ua [uʌ]

ô [o]
o [ɔ]

iê [ie]

uô [u ɔ]

êy [i]

uơ [u ǝ]

Ký hiệu phụ âm:
ph [ph]

th [th]

ch [ch]

kh [kh]


p [p]

t [t]

c [c]

k [k]

b [b]

d [d]

j [ɟ]

g [g]

b [ʔb]

đ [ʔd]

m [m]

n [n]

nh [ɲ]

ng [ŋ]

s [s]


y [j]

l [l]
r [r]
2. Một số từ viết tắt

q [ʔ]

h [h]


13

CPC = Cămpuchia
CTV = cộng tác viên
ĐBSCL = đồng bằng sông Cửu
Long
KV = Khmer-Việt
tr. = trang
VK = Việt-Khmer
UBND = Uỷ ban Nhân dân
> biến đổi thành
< có nguồn gốc từ
? vẫn còn là nghi vấn


8

MỤC LỤC

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 8
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 9
2. Tính cấp bách, cần thiết, ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ............................. 9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 10
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 10
5. Cơ sở lý luận ....................................................................................................... 14
6. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 14
7. Cấu trúc luận án................................................................................................... 17

Chương 1: BỐI CẢNH TIẾP XÚC NGÔN NGỮ KHMER-VIỆT Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG ................................................................................... 19
1.1 Ngôn ngữ học tiếp xúc .................................................................................... 19
1.1.1 Các định nghĩa và khái niệm ................................................................... 19
1.1.2 Các lĩnh vực nghiên cứu của Ngôn ngữ học tiếp xúc .............................. 21
1.1.3 Các hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ........................................................... 22
1.2 Bối cảnh tiếp xúc ngôn ngữ KV ở ĐBSCL ...................................................... 25
1.2.1 ĐBSCL và cộng đồng dân tộc Khmer ..................................................... 25
1.2.2 Các trường hợp nghiên cứu điển hình ..................................................... 32
1.2.3 Tiếng Việt, tiếng Khmer và sự phát triển quy tụ của các ngôn ngữ Đông
Nam Á .................................................................................................... 38
1.3 Xác định cảnh huống tiếng Khmer ở ĐBSCL .................................................. 48
1.3.1 Tiêu chí phân loại ................................................................................... 48
1.3.2 Các loại hình cảnh huống ngôn ngữ ........................................................ 49
1.3.3 Loại hình của cảnh huống tiếng Khmer................................................... 51
1.4 Tiểu kết chương .............................................................................................. 53


9


Chương 2: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CỘNG ĐỒNG SONG NGỮ KHMERVIỆT Ở ĐBSCL ..................................................................................................... 55
2.1 Các môi trường song ngữ ở ĐBSCL .................................................................. 55
2.1.1 Môi trường song ngữ về mặt địa lý ........................................................... 55
2.1.2 Môi trường song ngữ về mặt xã hội .......................................................... 57
2.2 Phân loại người Khmer về mặt song ngữ ........................................................... 63
2.2.1 Phương pháp và tiêu chí phân loại ............................................................ 64
2.2.2 Kết quả phân loại ..................................................................................... 67
2.2.3 Khuynh hướng phát triển của các nhóm người Khmer song ngữ .............. 73
2.2.4 Người Khmer song ngữ nhìn từ một số tham tố xã hội ............................. 75
2.3 Phân loại vùng địa lý về mặt song ngữ .............................................................. 78
2.3.1 Các tiêu chí và phương pháp phân loại ..................................................... 78
2.3.2 Kết quả phân vùng và một số đặc điểm vùng song ngữ KV ...................... 79
2.4 Vị thế và việc sử dụng các ngôn ngữ trong cộng đồng song ngữ ........................ 82
2.4.1 Vị thế ngôn ngữ và các lĩnh vực giao tiếp ................................................ 82
2.4.2 Sự phân công chức năng tiếng Việt và tiếng Khmer ................................. 85
2.5 Tiểu kết chương ................................................................................................. 91

Chương 3: MỘT SỐ HỆ QUẢ CỦA SỰ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ KHMERVIỆT Ở ĐBSCL..................................................................................................... 92
3.1 Các cơ sở lý thuyết và phân biệt ........................................................................ 92
3.1.1 Khái niệm “mã”........................................................................................ 92
3.1.2 Một số hiện tượng về mã qua tiếp xúc ngôn ngữ....................................... 93
3.1.3 Một số hiện tượng về biến đổi ngôn ngữ qua tiếp xúc............................... 95
3.1.4 Một số phân biệt giữa các khái niệm ........................................................ 96
3.2 Chọn mã và luân phiên mã ở song ngữ KV ........................................................ 99
3.2.1 Chọn mã, vay mượn và sao phỏng trong tiếng Khmer .............................. 99
3.2.2 Chuyển mã ............................................................................................. 113
3.3 Giao thoa KV .................................................................................................. 122


10


3.3.1 Giao thoa thanh điệu tiếng Việt của người Khmer .................................. 123
3.3.2 Lỗi chính tả của học sinh Khmer ............................................................ 131
3.4 Tiểu kết chương ............................................................................................... 135

Chương 4: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH VÀ GIÁO DỤC SONG NGỮ
KHMER-VIỆT Ở ĐBSCL .................................................................................. 137
4.1 Chính sách ngôn ngữ đối với dân tộc Khmer ................................................... 137
4.1.1 Tình hình nghiên cứu và chính sách ngôn ngữ dân tộc của Việt Nam ..... 137
4.1.2 Chính sách ngôn ngữ cho vùng song ngữ KV ......................................... 143
4.2 Giáo dục song ngữ KV .................................................................................... 156
4.2.1 Một số kiểu loại giáo dục song ngữ ........................................................ 158
4.2.2 Tình hình giáo dục song ngữ KV hiện nay .............................................. 160
4.2.3 Giáo dục tiếng Việt cho đồng bào Khmer ............................................... 166
4.2.4 Vài lưu ý về việc học và viết chữ Khmer ................................................ 169
4.3 Tiểu kết chương ............................................................................................... 176

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 178
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 185
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................................................... 200
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 201


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự cộng cư lâu đời và hoà hợp giữa hai dân tộc Việt và Khmer cũng như sự
tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer đã tạo nên tình hình song ngữ KV tại nhiều

khu vực ở ĐBSCL với các kiểu loại người, các vùng song ngữ khác nhau, cũng như
những biến đổi, phát triển của hai ngôn ngữ trong tiếp xúc. Trong chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia, nhất là quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, từ ngôn ngữ, đến
giáo dục, đến phát triển xã hội là con đường mà các nhà làm chính sách cần phải
tính đến, và ba yếu tố này cũng tạo nên một tam giác tương hỗ. Đề tài “Tình hình
song ngữ Khmer-Việt tại ĐBSCL – Một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn.” được lựa
chọn trên cơ sở đó và quan tâm đến mối quan hệ tương hỗ này ở mắt xích đầu tiên
(ngôn ngữ), và các kết quả nghiên cứu sẽ làm nền tảng cho việc hoạch định hai mắt
xích còn lại một cách hợp lý trường hợp cộng đồng người Việt gốc Khmer tại
ĐBSCL. Đề tài được thực hiện với những lý do chủ yếu sau:
-

Lý do thứ nhất: Nghiên cứu dân tộc thiểu số là một mảng nghiên cứu quan
trọng ở một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam. Ở vùng ĐBSCL - một khu
vực kinh tế trọng điểm của Việt Nam, dân tộc Khmer đóng vai trò rất quan
trọng về các mặt lịch sử, văn hoá, kinh tế, xã hội và chính trị. Vì vậy, việc
nghiên cứu tiếng Khmer và tình hình song ngữ KV, như là một phần của
nghiên cứu dân tộc, sẽ đóng góp vào sự phát triển của bản thân cộng đồng
dân tộc này và vào sự ổn định kinh tế, văn hoá, xã hội và chính trị.

-

Lý do thứ hai: Vấn đề song ngữ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học xã hội, một
khuynh hướng nghiên cứu cần được phát triển ở Việt Nam, đặc biệt là giữa
tiếng Việt với ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Đây là một lĩnh vực mà chúng tôi
quan tâm từ lâu và thích thú, bởi tính ứng dụng của nó trong việc giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài, vốn là nghề nghiệp của chúng tôi hiện nay.

-


Lý do thứ ba: Luận án tiến sĩ này được phát triển từ luận văn cao học của
chúng tôi về đề tài song ngữ KV. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài này sẽ giúp


2

chúng tôi tận dụng được các kết quả nghiên cứu trước đó và khai thác được
khía cạnh mô tả lịch đại thông qua so sánh.
-

Lý do thứ tư: Khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp một
phần nhỏ cho sự phát triển của cộng đồng dân tộc mà chúng tôi đã nhiều năm
tiếp xúc, nghiên cứu và trở nên yêu mến.

2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở một số lý thuyết mới về nghiên cứu song ngữ, cũng như số liệu,
ngữ liệu thu thập được qua thực địa, mục đích nghiên cứu là mô tả các đặc điểm
môi trường, đặc điểm cộng đồng, đặc điểm ngôn ngữ học, qua đó cung cấp một bức
tranh toàn cảnh về tình hình song ngữ KV hiện nay của đồng bào Khmer ĐBSCL.
Bức tranh đó sẽ bao gồm việc mô tả khả năng và việc sử dụng song ngữ của người
Khmer trong giao tiếp, sự hành chức của hai ngôn ngữ trong xã hội, thái độ của
cộng đồng đối với các ngôn ngữ, sự phát triển biến đổi của các ngôn ngữ trong tiếp
xúc và từ đó cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chính sách
dân tộc, chính sách giáo dục cho cộng đồng Khmer ở ĐBSCL.
Để thực hiện các mục tiêu trên, nhiệm vụ cụ thể của luận án là: hệ thống hoá
và giới thiệu một cách có chọn lọc các lý thuyết liên quan đến nội dung luận án;
giới thiệu khái quát về ĐBSCL cũng như các địa bàn nghiên cứu; miêu tả và chỉ ra
các đặc điểm của cộng đồng song ngữ KV qua các nghiên cứu trường hợp cả ở góc
độ định tính lẫn định lượng; mô tả và phân tích các hệ quả của quá trình tiếp xúc
ngôn ngữ KV; và, tổng thuật, phân tích, đánh giá cũng như gợi ý những chính sách

ngôn ngữ, chính sách giáo dục song ngữ và giáo dục ngôn ngữ cho người Khmer
vùng song ngữ.
3. Tính cấp bách, cần thiết, ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Hiện nay, tình hình song ngữ KV ở ĐBSCL tương đối đa dạng và phức tạp.
Một bộ phận người Khmer vẫn còn chưa thông thạo tiếng Việt - ngôn ngữ giao tiếp
chung - và cả tiếng Khmer. Đặc biệt tỷ lệ mù chữ Khmer còn khá cao. Vấn đề song
ngữ này ít nhiều cản trở cho giao tiếp, và một cách gián tiếp ảnh hưởng đến nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội của dân tộc Khmer nói riêng và của địa phương nói chung.


3

Nếu không kịp thời nghiên cứu, mô tả và từ đó đưa ra những gợi ý về mặt chính
sách, thì những bất cập, những khuynh hướng biến đổi tiêu cực, sẽ làm chậm lại sự
phát triển.
Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần củng cố các lý thuyết về Ngôn ngữ
học tiếp xúc, gợi ý các hướng nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu song ngữ
trên cơ sở liên ngành giữa ngôn ngữ học, xã hội học và dân tộc học. Ở góc độ thu
thập tư liệu nghiên cứu, luận án kết hợp hai hướng định lượng và định tính, kết hợp
nghiên cứu ngôn ngữ học điền dã và dân tộc học. Luận án còn làm nổi bật các giá trị
khoa học qua việc nghiên cứu sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ có đặc thù đơn lập, ở
một nước đang phát triển. Hơn nữa, luận án cung cấp các tư liệu phục vụ cho các đề
tài tương tự. Đặc biệt, luận án còn đóng góp một vài khía cạnh lý thuyết mới trong
nghiên cứu song ngữ ở các ngôn ngữ đơn lập.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận án sẽ cung cấp thêm sự hiểu biết về tình hình sử
dụng ngôn ngữ của cộng đồng Khmer ở ĐBSCL, cung cấp các kết quả khoa học
làm cơ sở cho các cơ quan chức năng trong việc hoạch định các chính sách dân tộc,
chính sách giáo dục, chính sách ngôn ngữ, cũng như là cơ sở cho công tác quản lý
giáo dục, quản lý chính quyền tại các địa phương ở góc độ song ngữ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là tiếng Việt Nam Bộ và tiếng Khmer ở ĐBSCL trong
sự so sánh đối chiếu, trong việc sử dụng và trong quá trình tiếp xúc. Về mặt đối
tượng, đề tài nghiên cứu giới hạn trong việc nghiên cứu người Việt gốc Khmer và
không nghiên cứu đối tượng song ngữ là người Việt1. Đó là lý do cách gọi Khmer –
Việt thay vì Việt – Khmer, bởi nó cho thấy chủ thể của nghiên cứu. Về mặt thời
gian, đề tài này được thực hiện trong 3 năm 2007 đến 2010 với các dữ liệu, vấn đề
song ngữ trong thời gian 10 năm trở lại đây (2000 – 2010). Về mặt không gian địa
lý, luận án chỉ nghiên cứu ở khu vực ĐBSCL, thuộc lãnh thổ Việt Nam2, trong đó
tập trung ở ba tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, những nơi có nhiều người
Khmer sinh sống, và mở rộng ra một số khu vực khác của ĐBSCL và CPC với mục
đích chủ yếu là so sánh và kiểm chứng.


4

5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt Nam, nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã được quan tâm và
nghiên cứu từ rất sớm. Cuốn “Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam từ những năm 90” của Viện Thông tin Khoa học Xã hội (Trung tâm KHXH &
NV Quốc gia) đã liệt kê thư mục nghiên cứu về ngôn ngữ dân tộc (từ trang 172 đến
trang 210) từ những năm 1990 cho đến 2002, trong đó có 58 công trình (sách, bài
viết) về vấn đề chung và 235 công trình về các ngôn ngữ dân tộc khác nhau. Từ đó
đến nay, hàng chục cuốn sách, luận văn, luận án, bài nghiên cứu v.v. đã được thực
hiện. Tình hình đó cho thấy nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam có một bề
dày đáng tự hào. Từ thời điểm cuối những năm 90, đầu những năm 2000, Bùi
Khánh Thế đã cung cấp một cái nhìn tổng thể về những đóng góp này:
“Hàng trăm khoá luận tốt nghiệp đại học cả ở phía Bắc lẫn ở phía
Nam, trong nước và ngoài nước khai thác đề tài từ những ngôn ngữ dân tộc
Việt Nam và con số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ trong lĩnh vực này lên
đến con số vài chục. Có thể dẫn ra đây một số tác giả Việt Nam và ngoại

quốc có công trình nghiên cứu về các ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam. Đó là
Hoàng Tuệ, Nguyễn Văn Tài (về dân tộc Mường), Nguyễn Văn Lợi (về tộc
Mèo/Hmông), Trần Trí Dõi (về tộc Chứt), Đoàn Văn Phúc (về tộc Êđê),
Hoàng Văn Ma (về tộc La ha), Tạ Văn Thông (về tộc Kơ ho), Hoàng Văn An
(về tộc Tày), Phạm Đức Dương, Bùi Khánh Thế, Vương Hữu Lễ, Nguyễn
Phú Phong, Nguyễn Bạt Tụy, Phạm Hữu Lai … Trong số các nhà nhà khoa
học nước ngoài viết về ngôn ngữ dân tộc Việt Nam ta thường gặp trên sách
báo tên các tác giả Haudricourt A.G.. Ferlus M., Martini F., Piat M., Savina
F.M., Aumonier E.F., Cabaton A., Adams K.L., Diffloth G., Banker J.E.,
Blood David và Dorothy, Edmonson J.A., Gregerson K.J., Miller J.D. và
V.G., Fuller E., Friberg T. và V., Pittman R.S., Watson L., Solnsev V.M.,
Solseva N.V., Alieva N.F., Efimov A.J., Sokolovskaja N.K., Pogibenko T.T.,
Blagonrarova J.L …” ([93], tr.60).


5

Và cho đến nay, đã có thêm nhiều tác giả Việt Nam và nước ngoài nữa. Đặc
biệt ở miền Nam còn có các nghiên cứu của Phú Văn Hẳn, Brunelle M. (tiếng
Chăm), Đinh Lê Thư, Thái Văn Chải, Trần Thanh Pôn, Nguyễn Thị Huệ, Phan Trần
Công (tiếng Khmer), Nguyễn Văn Huệ (tiếng Raglai), Lê Khắc Cường (tiếng
Stiêng), … cũng như một số khoá luận tốt nghiệp và luận văn cao học ở các trung
tâm đào tạo phía Nam.
Mảng đề tài tiếp xúc ngôn ngữ và song ngữ cũng đã được các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước quan tâm từ rất sớm giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ như tiếng
Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh và trong vài chục năm trở lại đây là giữa tiếng Việt và
một (hay hơn một) ngôn ngữ dân tộc. Mục đích của các nghiên cứu này là phục vụ
cho biên soạn từ điển, biên soạn giáo trình dạy tiếng, viết chuyên khảo, nghiên cứu
chính sách ngôn ngữ - dân tộc. Ngoài các công bố ở các tạp chí Ngôn ngữ (Viện
Ngôn ngữ học) và Ngôn ngữ và Đời sống (Hội Ngôn ngữ học Việt Nam), có một số

tài liệu nghiên cứu thành sách hay dưới dạng bài nghiên cứu mà chúng tôi đã tham
khảo trực tiếp từ các tác giả Hoàng Tuệ, Phan Ngọc, Bùi Khánh Thế, Hoàng Thị
Châu, Phạm Đức Dương, Đinh Lê Thư, Nguyễn Văn Lợi, Lý Toàn Thắng, Vương
Toàn, Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Văn Ma, Nguyễn Văn Chiến, Trần Trí Dõi,
Nguyễn Văn Khang, Tạ Văn Thông, Nguyễn Hữu Hoành, Đoàn Văn Phúc, Hoàng
Quốc… Có thể thấy tình hình nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ qua thư mục nghiên
cứu khá đầy đủ của Lý Tùng Hiếu ([49], tr.289-305) bao gồm 169 tài liệu công trình
bằng tiếng Việt và tiếng Anh.
Việc nghiên cứu tiếng Khmer, ngoài những nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài đối với tiếng Khmer ở CPC được công bố ở tạp chí Mon-Khmer Studies3
(Xem Phụ lục 1), JSEALS và một số tạp chí quốc tế khác, ngoài một số nghiên cứu
của các nhà dân tộc học như Lê Hương ([54]) (nghiên cứu từ vay mượn Khmer),
Nguyễn Đình Đầu, Lê Trung Hoa ([42], [43]) (nghiên cứu về địa danh và nhân
danh) …, Trần Thanh Pôn (trong [100]) (nghiên cứu về giáo dục tiếng Khmer),
ngoài các công trình ngôn ngữ học của Phan Ngọc ([77]), Thái Văn Chải ([9])
Nguyễn Văn Chiến ([12]), Mai Ngọc Chừ ([13]), Vũ Đức Nghiệu ([76]), Ch. Bauer


6

([3]), Cl. Gotze-Sam ([35]), Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Thị Huệ ([67]) về các đặc
điểm khác nhau của tiếng Khmer… thì những nghiên cứu về đặc điểm của tiếng
Khmer Nam Bộ hay từ điển Khmer – Việt, Việt - Khmer phần lớn được các nhà
giáo, nhà giáo dục học người Khmer nghiên cứu với mục đích sư phạm, như Lâm
Es, Trần Chinh, Lâm Sai, Lâm Khu, Châu Ngọc Phước, Thái Chợt, Trần The, Ngô
Chân Lý, Trịnh Thới Cang, Sơn Song Sơn… biên soạn. Việc nghiên cứu về tiếng
Khmer Nam Bộ còn được một số các khoá sinh viên thuộc khoa Văn hóa học (Đại
học Trà Vinh), khoa Ngữ văn và Báo chí (trước đây) và khoa Văn học và Ngôn ngữ
(bây giờ) (ĐHKHXH và NV – ĐHQG TP Hồ Chí Minh), Trung tâm nghiên cứu
giáo dục (ĐHSP TP HCM)… thực hiện dưới hình thức khoá luận tốt nghiệp hay báo

cáo thực tập, báo cáo khoa học.
Riêng việc nghiên cứu vấn đề song ngữ KV có thể nói là còn chưa nhiều.
Song ngữ KV chủ yếu được đề cập sơ lược trong các cuốn địa chí, trong phần mở
đầu của các nghiên cứu xã hội học, nhân học, lịch sử về ĐBSCL và về cộng đồng
Khmer. Năm 2003, luận văn thạc sĩ của chúng tôi đã được thực hiện về tình hình
song ngữ KV tại ấp Trà Sết, thuộc xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
trong hoàn cảnh ít tài liệu tham khảo. Gần đây hơn, một vài nghiên cứu của Bùi
Khánh Thế, Đinh Lê Thư, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Công Đức,
Nguyễn Thị Huệ, Trần Thanh Pôn, Phan Trần Công, Nguyễn Chí Tân … đã bắt đầu
cung cấp những tư liệu ở các góc độ từ chính sách ngôn ngữ, đến giáo dục song ngữ,
đến các vấn đề cấu trúc ngôn ngữ. Luận án đang hoàn thành của Nguyễn Thị Huệ
do GS.TS Nguyễn Văn Lợi hướng dẫn là tư liệu gần nhất với luận án của chúng tôi,
trong đó Nguyễn Thị Huệ tập trung nghiên cứu tình hình song ngữ KV ở Trà Vinh.
Tuy nhiên, chúng tôi chưa tham khảo được nhiều ngoài những trao đổi trực tiếp với
tác giả, ngoài việc nghe trình bày luận án tại hội đồng bảo vệ cấp cơ sở và một bài
viết đã công bố về thanh điệu của người Khmer nói tiếng Việt trong năm 2008 [67].
Việc nghiên cứu song ngữ KV được chúng tôi tiến hành bắt đầu từ năm 2001
khi thu thập tài liệu cho luận văn thạc sĩ [38]. Cho đến nay, khoảng 12 đợt điền dã
đã được thực hiện, mỗi đợt kéo dài từ 1 tuần đến hơn 1 tháng, với khoảng 1,2 Gb dữ


7

liệu âm thanh dạng .wav, khoảng 300 hình ảnh và tiếp xúc gần 60 CTV (ngoài số
300 đối tượng được phỏng vấn bằng bảng hỏi). Từ nguồn tư liệu đó, chúng tôi đã
công bố một số bài nghiên cứu về tiếng Khmer và song ngữ KV tại các hội thảo
quốc tế (SEALS 19), hội thảo ngôn ngữ học toàn quốc (Cần Thơ – 2008; Hà Nội –
2009; TP.HCM - 2010), và đăng bài nghiên cứu tại một số tạp chí nghiên cứu.
Trên đây là bức tranh có thể chưa đầy đủ về lịch sử nghiên cứu tiếng Khmer
và song ngữ KV, tuy nhiên, đó là số lượng tài liệu tham khảo trực tiếp mà chúng tôi

có trong tay khi thực hiện luận án này.
6. Cơ sở lý luận
Về mặt lý luận, luận án được nghiên cứu trên hai cơ sở lý thuyết, đó là Ngôn
ngữ học tiếp xúc (Contact Linguistics), trước đây được gọi là lý thuyết Tiếp xúc
ngôn ngữ (Theory of Language Contact), và lý thuyết Ngôn ngữ học đối chiếu
(Theory of Contrastive Linguistics).
Lý thuyết Tiếp xúc ngôn ngữ được đánh dấu bằng công trình của H.
Schuchargt (1842-1927) về ngôn ngữ pha trộn (mixed language), về các biến thể
pidgin và créole của ngôn ngữ và được phát triển thành một lý thuyết qua công trình
Language in contact: Findings and Problems (1953) của U. Weinreich được xuất
bản ([142], tr.1). Lý thuyết này được sử dụng xuyên suốt luận án và sẽ được mô tả
chi tiết ở chương 1.
Lý thuyết Ngôn ngữ học đối chiếu là khuynh hướng nghiên cứu theo hướng
thực hành ngôn ngữ (practice-oriented approach) nhằm mô tả những tương đồng và
khác biệt giữa các ngôn ngữ ([157]). Lý thuyết này được sử dụng trong luận án khi
khảo sát những khác biệt giữa hai ngôn ngữ KV trong các hiện tượng hòa mã,
chuyển mã, chuyển di và giao thoa, vay mượn và sao phỏng.
7. Phương pháp nghiên cứu
Về mặt phương pháp, luận án có sự kết hợp giữa định lượng và định tính,
trên cơ sở các giáo trình về phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội ([63]; [110]).
Sự kết hợp này được mô tả chi tiết trong công trình của Robert Murray Thomas
([180]). Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu còn có sự tham khảo các bài giảng về


8

nghiên cứu định lượng và định tính của PGS.TS Phan Thị Yến Tuyết, và TS. Phan
Ngọc Lan (trong chương trình Cao học Việt Nam học, năm 2010).
7.1 Hướng tiếp cận định lượng
Ở hướng định lượng, dữ liệu được thu thập qua phương pháp thống kê xã hội

học như là phương pháp chủ đạo. Phương pháp này lấy cơ sở trên việc chọn mẫu
phân tầng, sử dụng bảng hỏi tổng hợp và việc xử lý số liệu bằng phần mềm MS
Excel và SPSS.
Chọn mẫu: Mẫu được chọn theo từng phân tầng, với tỷ lệ lấy từ cơ cấu toàn
ĐBSCL (trên cơ sở Niên giám thống kê năm 20074 của 3 tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng
và An Giang). Cách chọn mẫu theo phương pháp phân tầng này có thể nói là phù
hợp với tính chất và quy mô nghiên cứu, cũng như số lượng đối tượng nghiên cứu.
Do các mẫu được chọn trên cơ sở phần trăm các tiêu chí, nghĩa là tập hợp mẫu phản
ánh cấu trúc của toàn bộ đối tượng nghiên cứu, nên kết quả nghiên cứu thu được về
mặt lý thuyết mới có thể khái quát được cho toàn bộ đối tượng nghiên cứu. Tuy vậy,
chúng tôi vẫn nhấn mạnh đến tính chất tương đối của nghiên cứu định lượng, do số
lượng mẫu là ít so với tập hợp đối tượng nghiên cứu. Ba phân tầng được sắp xếp
theo thứ tự như sau:
-

Phân tầng thứ nhất – giới tính, có hai biến độc lập là nam và nữ.

-

Phân tầng thứ hai – nghề nghiệp. Ở phân tầng này có sự phân biệt nhỏ giữa
nam – nữ bởi tính chất hoạt động nghề nghiệp khác nhau. Đối với nam, các
biến được chọn là nông dân; người buôn bán; cán bộ địa phương; sư sãi,
giáo viên; lái xe ôm, xe ba gác và người làm thuê làm mướn. Đối với nữ, đó
là các biến nông dân; người buôn bán; cán bộ địa phương; giáo viên; làm
thuê làm mướn; nội trợ.

-

Phân tầng thứ ba – độ tuổi. Phân tầng này bao gồm 3 biến tố, thể hiện ở 3
nhóm: 1 – 30 tuổi; 31 – 60 tuổi, trên 60 tuổi.

Sau khi các mẫu đã được phân bổ, thì việc chọn mẫu tiếp theo dựa trên

nguyên tắc ngẫu nhiên và thuận lợi: bên trong mỗi nhóm, chúng tôi chọn phỏng vấn
và thu thập thông tin ở những người chúng tôi gặp, miễn là những người này thỏa


9

mãn các yêu cầu của biến và có khoảng cách không gian đã được khoanh vùng. Sau
khi tính được tỷ lệ mẫu theo từng biến tố, 300 mẫu đã được chọn (và 30% mẫu dự
phòng - để đảm bảo mỗi biến có ít nhất là 1 mẫu dự phòng), và được phân bổ đều
cho 3 xã của ba trường hợp nghiên cứu điển hình sẽ được đề cập ngay sau đây. Việc
phân bố 300 mẫu trên được thể hiện ở Phụ lục 2.
Nghiên cứu đa trường hợp: Một số trường hợp điển hình có những điểm
tương đồng và cả dị biệt đã được chọn để nghiên cứu. Do địa bàn nghiên cứu rất
rộng, nên chỉ 3 huyện được chọn nghiên cứu điển hình, đó là các huyện Trà Cú
(tỉnh Trà Vinh), huyện Vĩnh Châu (tỉnh Sóc Trăng) và huyện Tri Tôn (tỉnh An
Giang), là các huyện đông đồng bào Khmer nhất ở ĐBSCL. Trong các huyện đó, 3
xã được chọn để triển khai nghiên cứu định lượng. Ba xã này chưa hẳn đã thể hiện
hết các đặc thù của ĐBSCL, vì vậy, trừ các nghiên cứu định lượng, các nghiên cứu
mô tả, định tính còn sử dụng cả dữ liệu ở các địa phương khác nữa.
Các xã trên được lựa chọn dựa trên một số đặc điểm tương đồng và đại diện,
sẽ được đề cập chi tiết hơn ở chương 1 của luận án. Bảng hỏi phỏng vấn 300 mẫu
có thể thấy ở Phụ lục 3a.
7.2 Hướng tiếp cận định tính
Nghiên cứu ngôn ngữ học điền dã: Phương pháp này thường được sử dụng
trong nghiên cứu thực địa, nhất là nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc. Nó bao gồm việc
quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thu âm ngữ liệu, quan sát các tình huống giao tiếp,
chụp và sao lưu tài liệu để tiến hành phân tích. Phương pháp này được sử dụng
trong luận án để đi sâu vào chi tiết và kiểm chứng, mô tả thêm về kết quả định

lượng.
Nghiên cứu tư liệu: Phương pháp này được sử dụng trong việc tham khảo
các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn trước đó về tiếng Việt, tiếng Khmer
cũng như song ngữ nói chung. Phần lớn chương 4 của luận án sử dụng phương pháp
này.
Nghiên cứu hồi cố (lịch sử lời kể): Phương pháp này được sử dụng ở các
cuộc phỏng vấn sâu nhằm tìm lại những thông tin trong quá khứ. Đặc biệt, phương


10

pháp này được chúng tôi sử dụng trong việc mô tả sự khác biệt của tình hình sử
dụng cũng như khả năng song ngữ của người Khmer trong hiện tại và trong quá khứ,
trong khảo sát sự biến đổi ngôn ngữ, cũng như những nghiên cứu về song ngữ KV
trước 1975.
7.3 Các phần mềm xử lý thông tin. Luận án cũng sử dụng một số phần mềm để xử
lý các dạng thông tin, ngữ liệu, số liệu khác nhau:
Phần mềm xử lý ngữ âm Praat: PRAAT (Tiếng Hà Lan nghĩa là "NÓI") được
sử dụng trong luận án để phân tích các mẫu âm thu được khi nghiên cứu về giao
thoa ngôn ngữ và lỗi phát âm của người Khmer song ngữ.
Speech Tools: Speech Tools là bộ các ứng dụng do Hội ngữ học Mùa hè phát
triển, được sử dụng để tìm ra sự biến đổi thanh điệu, sự khác biệt phương ngữ giữa
các phương ngữ Khmer Nam Bộ và một số dấu hiệu đơn tiết hoá.
MS. Excel: Đây là một sản phẩm phần mềm phục vụ cho thống kê, tính toán
bằng bảng biểu. Phần mềm này được sử dụng để thống kê và phân loại người song
ngữ cũng như một số phân tích số liệu về từ vay mượn và hoà mã.
MapInfo (Thông tin bản đồ) MapInfo Professional là phần mềm hệ thống
thông tin địa lí do công ty MapInfo (nay là Pitney Bowes) sản xuất. Đây là phần
mềm vẽ và biên tập các bản đồ. MapInfo được sử dụng với sự hỗ trợ của Google
Earth để xác định các vùng song ngữ KV trong các nghiên cứu trường hợp.

8. Cấu trúc luận án
Cấu trúc luận án gồm 4 chương (không kể phần dẫn nhập và kết luận):
Chương 1: BỐI CẢNH TIẾP XÚC NGÔN NGỮ VIỆT – KHMER Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG. Chương này giới thiệu về lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ,
mô tả bối cảnh và môi trường tiếp xúc ngôn ngữ KV, mô tả và đối chiếu các đặc
điểm của tiếng Việt và tiếng Khmer trong tiếp xúc cũng như hệ quả và xu hướng
biến đổi do quá trình tiếp xúc ngôn ngữ tạo nên. Ngoài ra, chương còn dành một
phần quan trọng để xác định loại hình cảnh huống tiếng Khmer dựa trên một số tiêu
chí phổ quát.


11

Chương 2: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CỘNG ĐỒNG SONG NGỮ
KHMER – VIỆT Ở ĐBSCL. Chương này đề cập đến các môi trường (địa lý và xã
hội), nơi hai ngôn ngữ KV tiếp xúc với nhau. Các kiểu loại người Khmer và các
nhóm người Khmer về mặt song ngữ cũng được phân loại trên cơ sở nghiên cứu
định tính. Cuối chương là nghiên cứu về vị thế và sự phân công chức năng của tiếng
Việt và tiếng Khmer ở ĐBSCL.
Chương 3: MỘT SỐ HỆ QUẢ CỦA SỰ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ KHMERVIỆT Ở ĐBSCL. Chương này đề cập đến các khái niệm về mặt lý thuyết liên quan
đến các ngôn ngữ trong môi trường song ngữ, mô tả các hiện tượng khác nhau trong
giao tiếp song ngữ KV tại địa phương. Một phần của chương được dành để nghiên
cứu về các hiện tượng giao thoa và lỗi phát âm của người song ngữ Khmer nói tiếng
Việt và của học sinh dân tộc Khmer viết tiếng Việt.
Chương 4: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH VÀ GIÁO DỤC SONG NGỮ
KHMER-VIỆT Ở ĐBSCL. Vấn đề thực tiễn được rút ra trên cơ sở kết quả nghiên
cứu của luận án, bao gồm những đề xuất thực tiễn cho chính sách ngôn ngữ, chính
sách giáo dục song ngữ và một số giải pháp cho việc dạy và học tiếng Việt và tiếng
Khmer.
Cuối cùng là phần kết luận, thư mục tham khảo và hơn 10 phụ lục minh hoạ

thêm cho nội dung của luận án.


12

Chương 1: BỐI CẢNH TIẾP XÚC NGÔN NGỮ
KHMER-VIỆT Ở ĐBSCL
Ở Đông Nam Á và ở Việt Nam, lịch sử tiếp xúc giữa các ngôn ngữ đã được
quan tâm nghiên cứu, bởi quá trình này là tác nhân quan trọng của sự biến đổi của
các ngôn ngữ trong khu vực, trong đó có tiếng Việt và tiếng Khmer. Từ những cơ
sở lý thuyết về ngôn ngữ học tiếp xúc, chương này sẽ giới thiệu bối cảnh nơi sự tiếp
xúc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer diễn ra.
1.2 Ngôn ngữ học tiếp xúc
1.2.1 Các định nghĩa và khái niệm
Tiếp xúc ngôn ngữ, ở góc độ nhân học văn hóa, được xem là một bộ phận
của quá trình tiếp biến văn hoá (acculturation). Việc nghiên cứu vấn đề này là
nhiệm vụ của Ngôn ngữ học tiếp xúc (Contact Linguistics), và các cơ sở lý thuyết
đúc kết được đã xây dựng nên lý thuyết Tiếp xúc ngôn ngữ (Theory of Language
Contact). Lịch sử nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ đã được Winford D. ([184]) mô tả
một cách chi tiết5, trong đó cho thấy công trình xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX của H.
Schuchardt (1842-1927) về “sự pha trộn ngôn ngữ” là nghiên cứu tiên phong (theo
Bùi Khánh Thế, trong [112], tr.11). Sau đó, các tác giả Boudouin de Courtenay
(1845-1929) với “Bàn về tính chất pha trộn của tất cả các ngôn ngữ” (1900), “Bàn
về khái niệm pha trộn ngôn ngữ” (1926 và 1958), rồi L.V. Scerba (1880-1940) với
“Thổ ngữ Đông Lugits” (1915) là những tác giả đặt tiền đề cho con đường Ngôn
ngữ học tiếp xúc được hình thành. Theo Bùi Khánh Thế ([112], tr.12), từ tiếp xúc
(contact), thuật ngữ mở đầu cho khuynh hướng nghiên cứu này xuất phát từ
Martinet A. trong “Sự lan truyền ngôn ngữ và ngôn ngữ học cấu trúc” (1950). Tuy
vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự mở đầu đích thực của lý thuyết Tiếp xúc
ngôn ngữ được đánh dấu bằng Language in contact: Findings and Problems (1953)

của U. Weinreich6. Sau đó, hàng loạt công trình đã được xuất bản, trong đó gần đây
và nổi bật nhất là các công trình của Sarah Thomason và Terrence Kaufman (1988)7,
Sarah Thomason (2001)8, Winford D. (2002)9, Ghil'ad Zuckermann (2003)10. Tại


13

Việt Nam, Phan Ngọc, Phạm Đức Dương11, Bùi Khánh Thế thuộc nhóm người tiên
phong nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ và đặt những nền móng lý thuyết và thực tiễn
thông qua các nghiên cứu của mình. Tiếp theo họ, nhiều công trình, như đã được
nêu ở phần dẫn nhập của luận án, cho thấy Ngôn ngữ học tiếp xúc đã đặt nền móng
vững chắc ở Việt Nam, cho dù những nghiên cứu theo hướng này đến nay vẫn chưa
nhiều.
Để tìm hiểu về vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ, có lẽ cần phải điểm qua một số
định nghĩa cơ bản. Theo từ điển International Encyclopedia of Linguistics (quyển 4,
tr. 310) thì tiếp xúc ngôn ngữ là:
“cảnh huống kề cận nhau về mặt địa lý và về mặt xã hội của các ngôn ngữ
hoặc phương ngữ, mức độ song ngữ dần xuất hiện trong phạm vi cộng đồng,
và do vậy các ngôn ngữ bắt đầu ảnh hưởng với nhau (như vay mượn từ hoặc
thay đổi trong cách phát âm.”
Từ điển Bách khoa Toàn thư thuộc Viện Từ điển học và Bách khoa thư (Việt
Nam) định nghĩa tiếp xúc ngôn ngữ là:
“quá trình ảnh hưởng, thâm nhập, thậm chí thay thế lẫn nhau giữa các ngôn
ngữ, do trong các điều kiện lịch sử, xã hội nhất định, các chủ nhân của
những ngôn ngữ này bằng nhiều hình thức, trạng huống khác nhau đã tiến
hành việc giao tiếp bằng lời với nhau. Tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng phổ
biến đối với toàn bộ ngôn ngữ nhân loại và là một tác nhân khá quan trọng
làm cho từng ngôn ngữ biến đổi và phát triển. Các hiện tượng ngôn ngữ
thường gặp khi nảy sinh tiếp xúc ngôn ngữ: vay mượn, sao phỏng, giao thoa,
hoà trộn, lai tạp hoặc thay thế hoàn toàn.”12

Bùi Khánh Thế ([112], tr.13) cũng dẫn ra hai định nghĩa về tiếp xúc ngôn
ngữ, trong đó, theo O.S. Akhmanova (1966) , tiếp xúc ngôn ngữ là:
“sự tiếp hợp nhau giữa hai ngôn ngữ do những điều kiện cận kề về mặt địa
lý, sự tương cận về mặt lịch sử, xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng
người vốn có những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với nhau.”


14

còn từ điển Bách khoa về ngôn ngữ học (tiếng Nga do V.N. Jarceva chủ biên, 1990
- trích theo Bùi Khánh Thế trong [112], tr.13) thì viết:
“sự tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ, tạo nên ảnh hưởng đối
với cấu trúc và vốn từ của một hay nhiều ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội
của sự tiếp xúc ngôn ngữ được quy định bởi yêu cầu cần thiết phải giao tiếp
lẫn nhau giữa những thành viên thuộc các nhóm dân tộc và ngôn ngữ do
những nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội v.v. thúc đẩy.”
Tuy các định nghĩa trên có khác về nguồn gốc, thời điểm và cách tiếp cận,
nhưng tất cả đều đề cập đến góc độ môi trường xã hội của sự tiếp xúc và đến những
ảnh hưởng qua lại của các ngôn ngữ trong tiếp xúc. Đó chính là những đối tượng
trung tâm mà Ngôn ngữ học tiếp xúc nghiên cứu.
1.2.2 Các lĩnh vực nghiên cứu của Ngôn ngữ học tiếp xúc
Bằng việc tổng hợp tư liệu có được (Từ điển trực tuyến Wikipedia, các định
nghĩa ở trên, các bài viết, công trình của các tác giả trong và ngoài nước, và nhất là
từ mục lục của các sách chuyên khảo kinh điển), có thể thấy Ngôn ngữ học Tiếp xúc
quan tâm nghiên cứu các địa hạt sau:
Nghiên cứu môi trường. Môi trường địa lý, lịch sử, kinh tế, xã hội, chính trị
của sự tiếp xúc được quan tâm nghiên cứu, mô tả, phân loại nhằm tìm ra bản chất
của sự tiếp xúc ngôn ngữ. Đó có thể là môi trường cá nhân (lịch sử tiếp xúc ngôn
ngữ trong mỗi cá nhân, vấn đề tâm lý và bản sắc cá nhân giữa các ngôn ngữ tiếp
xúc), môi trường cộng đồng (trong đó có môi trường gia đình, hàng xóm, cộng đồng

địa phương, cộng đồng xã hội rộng lớn, cộng đồng quốc gia và khu vực). Các
nghiên cứu ở góc độ này có thể sẽ mô tả những yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội ảnh
hưởng đến sự tiếp xúc, mô tả và phân loại các môi trường tiếp xúc, các đối tượng
tiếp xúc và các không gian (khu vực địa lý) của sự tiếp xúc, vị thế và sức mạnh của
các ngôn ngữ trong mối tương quan lẫn nhau.
Nghiên cứu biến đổi. Các hiện tượng của tiếp xúc ngôn ngữ liên quan đến 3
vấn đề:


15

-

Sự duy trì ngôn ngữ nghiên cứu về các vấn đề vay mượn từ vựng, phổ biến
cấu trúc hay vay mượn cú pháp, sự chuyển di và giao thoa v.v.

-

Sự biến đổi ngôn ngữ nghiên cứu về sự phát triển quy tụ và khuếch tán, sự
chuyển mã, sự hoà mã v.v.

-

Sự tạo mới ngôn ngữ nghiên cứu về các ngôn ngữ pha trộn, sự thụ đắc ngôn
ngữ thứ hai, sự bào mòn ngôn ngữ, sự diệt vong của một ngôn ngữ, hiện
tượng bồi hoá ngôn ngữ (pidginization), sự nảy sinh créole.
Nghiên cứu hoạch định. Hướng nghiên cứu này quan tâm đến các vấn đề vĩ

mô như kế hoạch hoá ngôn ngữ, lập pháp ngôn ngữ, ngôn ngữ và chính trị, ngôn
ngữ và bản sắc văn hoá xã hội, duy trì bảo vệ các ngôn ngữ nguy cấp, phát triển,

hiện đại hoá, trí tuệ hoá các ngôn ngữ giao tiếp v.v và v.v.
1.1.3 Các hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ
Có rất nhiều hệ quả trực tiếp và gián tiếp của quá trình tiếp xúc, tuy nhiên, ba
trong số các hệ quả có thể nói là trực tiếp và có tính chất quy luật là sự phát triển
quy tụ, sự giao thoa ngôn ngữ và song ngữ. (Rozentzzveig V. 1972, trích theo [112],
tr. 14; [94], [104]).
1.1.3.1 Phát triển quy tụ (convergence)
Khi tiếp xúc với một cường độ và thời gian nhất định, hai ngôn ngữ sẽ có
những biến đổi theo xu thế giống nhau và làm cho một số đặc điểm của chúng gần
nhau hơn. Hiện tượng này được gọi là sự phát triển quy tụ (hay hội tụ). Khái niệm
này luôn gắn liền với khái niệm khu vực ngôn ngữ (linguistic area) hay liên minh
ngôn ngữ (sprachbund). Liên minh ngôn ngữ thường là một khu vực gồm những
ngôn ngữ cận kề về địa lý, có thể có hoặc không có quan hệ về nguồn gốc với nhau
([141]). Vùng ngôn ngữ gồm các tiếng Trung Quốc, Việt, Hàn, Nhật, hay vùng
ngôn ngữ Đông Nam Á là các thí dụ về một liên minh ngôn ngữ trong đó các ngôn
ngữ có khuynh hướng phát triển xích lại gần nhau và tham gia vào cùng một
khuynh hướng phát triển. Giữa tiếng Thái, tiếng Việt và một số ngôn ngữ trong khu
vực Đông Nam Á, sự phát triển hội tụ trong liên minh ngôn ngữ này chính là sự
hình thành thanh điệu và đơn tiết hoá.


16

Bùi Khánh Thế ([92], [93], [94]) sau một số nghiên cứu đã nhận xét rằng xu
hướng phát triển quy tụ của các ngôn ngữ ở Việt Nam và trong khu vực Đông Nam
Á là có quy luật và là xu hướng chủ đạo. Myers-Scotton ([167], tr.271) đã dành hẳn
một chương nói về hiện tượng quy tụ này và đã phát biểu rằng quy tụ là thứ ngôn
ngữ của những người song ngữ bao gồm trong nó tất cả những hình thức bề mặt từ
một ngôn ngữ, nhưng với những bộ phận của cấu trúc từ vựng trừu tượng nằm bên
dưới những khuôn mẫu bề mặt đến từ một ngôn ngữ khác. Mayers-Scotton cho rằng

quy tụ là một trong hai quá trình bao gồm sự quy tụ và sự bào mòn ngôn ngữ.
1.1.3.2 Giao thoa ngôn ngữ (interference)
Đã có những cách hiểu, những định nghĩa khác nhau về hiện tượng giao thoa
trong ngôn ngữ, và không phải lúc nào những cách hiểu và định nghĩa này cũng
thống nhất, ít nhất là ở các tác giả chúng tôi tham khảo, như Postman L. ([171]), R.
Wardhaugh R. ([182]), cũng như một số tác giả khác chưa tiếp cận được tài liệu như
Pimsen Buarapha (2006), Lehiste I. (1988), Thomason và Kaufman (1991). Một
cách ngắn gọn, giao thoa là sự ảnh hưởng của ngôn ngữ cho lên ngôn ngữ nhận
trong quá trình chuyển di một hình thái nào đó. Nguyễn Văn Khang ([56], tr.45-47)
đã tổng thuật hai bình diện của giao thoa: bình diện thứ nhất, coi giao thoa là “hiện
tượng tác động qua lại giữa cấu trúc và các yếu tố trong cấu trúc của hai (hoặc hơn
hai) ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp của cư dân song ngữ” – đây là bình diện
thuần tuý ngôn ngữ học; và bình diện thứ hai, bình diện ngôn ngữ học xã hội, trong
đó việc nghiên cứu giao thoa sẽ làm “sáng tỏ toàn bộ những hiểu biết về hai (hoặc
trên hai) ngôn ngữ”. Hiện tượng giao thoa ngôn ngữ sẽ được đề cập ở chương 3.
1.1.3.3 Song ngữ (bilingualism)
Song ngữ đôi khi được hiểu và nghiên cứu như là một khái niệm bao hàm cả
những vấn đề giao thoa và quy tụ. Phan Ngọc, Phạm Đức Dương ([78], tr.55) cho
rằng “Cơ sở của lý luận tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng song ngữ”. Ở Việt Nam và
trên thế giới, số lượng các chuyên khảo về ngôn ngữ học xã hội và về vấn đề song
ngữ nhiều bao nhiêu, thì những định nghĩa và cách tiếp cận song ngữ cũng nhiều
gần như vậy. Song ngữ là kết quả trực tiếp, cơ bản và rõ rệt nhất của sự tiếp xúc


17

ngôn ngữ. Từ điển The Encyclopedia of Language and Linguistics (năm 1994, cuốn
1, tr. 354) định nghĩa song ngữ (hay đa ngữ) là “sự cùng tồn tại của hai hay hơn hai
ngôn ngữ được sử dụng bởi các cá nhân và các nhóm trong xã hội”, và theo chúng
tôi, định nghĩa này đã bao hàm đầy đủ mà súc tích nội dung của song ngữ. Đối với

nghiên cứu song ngữ ở Việt Nam, Hoàng Tuệ ([114]) đã gợi ý vấn đề song ngữ là
vấn đề mang tính chất xã hội – tâm lý. Vương Toàn ([104]) đã mô tả một cách đầy
đủ các vấn đề cần nghiên cứu của hiện tượng song ngữ trong bài viết “Về hiện
tượng song ngữ” như nó được hiểu trong ngôn ngữ học hiện đại. Về mặt nghiên cứu
thực tiễn, Bùi Khánh Thế, từ rất sớm (các năm 1973, 1975, 1976, 1978), đã có một
số bài nghiên cứu về song ngữ ở miền Nam trong đó đặc biệt là nghiên cứu về song
ngữ Chăm – Việt. Đây có thể nói là nghiên cứu điển hình, bao hàm đầy đủ những
mối quan tâm của Ngôn ngữ học Tiếp xúc và nhất là về mặt thực tiễn đã đưa ra
được một mô hình nghiên cứu song ngữ, trong đó nghiên cứu song ngữ không thể
tách rời việc mô tả tỉ mỉ môi trường song ngữ, và cũng không thể tách rời với
nghiên cứu chính sách để đưa vào ứng dụng thực tiễn. Nguyễn Văn Khang ([56]) đã
thể hiện vấn đề song ngữ một cách cân đối giữa hai bình diện cá nhân và cộng đồng,
cũng như giới thiệu các vấn đề cần nghiên cứu bên trong và chung quanh hiện
tượng này.
Về nội dung nghiên cứu của song ngữ, khuynh hướng nghiên cứu hiện đại
([138], [156], [172], [176]) nhìn nhận song ngữ ở hai mặt: bản chất cá nhân và bản
chất xã hội, và thể hiện quan điểm này thành hai thuật ngữ: song ngữ cá nhân
(individual bilingualism, bilinguality13) và song ngữ xã hội (societal bilingualism,
collective bilingualism). Nếu như song ngữ cá nhân nghiên cứu về các quá trình thụ
đắc các ngôn ngữ, trạng thái hay mối tương quan giữa các ngôn ngữ, năng lực song
ngữ và cách đo năng lực song ngữ, các kỹ năng song ngữ, tâm lý song ngữ, việc xử
lý các ngôn ngữ trong hệ thần kinh, mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và các ngôn ngữ
khác, mối quan hệ giữa song ngữ, nhận thức và tư duy v.v. thì song ngữ xã hội lại
nghiên cứu về sự hình thành, tồn tại, biến đổi của các cộng đồng song ngữ, môi
trường song ngữ với sự sản sinh ngôn ngữ mới, sự bồi đắp cho các ngôn ngữ, sự lụi


18

tàn, diệt vong, hồi sinh của các ngôn ngữ, sức sống ngôn ngữ trong cộng đồng song

ngữ, các vấn đề song ngữ và song văn hoá, các vấn đề song ngữ và bản sắc, song
ngữ và chính trị, các kiểu loại người song ngữ và vùng song ngữ, các hiện tượng
diễn ra trong giao tiếp song ngữ, sự phân công chức năng xã hội của các ngôn ngữ
trong cộng đồng .v.v. Song ngữ cá nhân được xem là nguyên nhân của sự tiếp xúc,
còn song ngữ xã hội là kết quả của nó. Luận án của chúng tôi sẽ chỉ tập trung chủ
yếu vào nghiên cứu một số mặt chủ yếu và cơ bản thuộc bản chất xã hội của hiện
tượng song ngữ, và sẽ không đề cập nhiều đến vấn đề song ngữ cá nhân.
1.2

Bối cảnh tiếp xúc ngôn ngữ KV ở ĐBSCL

1.4.1 ĐBSCL và cộng đồng dân tộc Khmer
1.2.1.1 Lịch sử hình thành vùng ĐBSCL
ĐBSCL, hay còn gọi là khu vực Tây Nam Bộ là một khu vực tương đối bằng
phẳng, bao gồm 12 tỉnh và một thành phố14 trên một diện tích gần 40,000 km2 (11%
diện tích cả nước). Lịch sử hình thành vùng ĐBSCL hiện nay được đánh dấu bằng
sự xuất hiện của cư dân bản địa thuộc văn hoá Đồng Nai (từ khoảng 4000 năm đến
2500 năm trước). Từ thế kỷ thứ I đến thứ VI, ở ĐBSCL là sự xuất hiện của vương
quốc Phù Nam (Funan), chủ nhân của nền văn hoá Óc Eo. Đến thế kỷ thứ VII,
vương quốc Phù Nam bị Chân Lạp (Chenla, một thuộc quốc của Phù Nam của
người Môn cổ và người Khmer cổ) xâm chiếm. Và cũng từ đó, khu vực rộng lớn
này đã bị chia ra thành hai phần là Lục Chân Lạp (High Chenla) là lãnh thổ của
CPC hiện nay, và Thủy Chân Lạp (Low Chenla) là khu vực ĐBSCL hiện nay. Từ
khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII, khu vực Thủy Chân Lạp là khu vực hoang
vắng, và chỉ bắt đầu đón những nhóm nhỏ người Khmer từ CPC đến cư trú rải rác
tại đây từ thế kỷ thứ XIII. Các nhóm dân cư này chạy từ thủ đô Angkor sau những
cuộc nội chiến giữa các hoàng tộc CPC và nhất là để tránh cuộc chiến tranh với
quân Xiêm.
Từ cuối thế kỷ XV, khu vực ĐBSCL hình thành nên 3 vùng do sự rút dần
của nước biển, và những nơi này thu hút ngày càng đông cư dân đến sinh sống. Đó

là vùng Sóc Trăng – Bạc Liêu – Cà Mau (chủ yếu là khu vực Sóc Trăng, Vĩnh Châu,


×