Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

de cuong nghien cuu full

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.49 KB, 12 trang )

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
Đề tài: Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất cà phê của hộ nông
dân tại xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
Giáo viên hướng dẫn: TRƯƠNG VĂN TUYỂN
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THÁI NGUYÊN
MSSV: 13L4021066


Đề cương Nghiên cứu thực tập cuối khóa
- Họ và tên: NGUYỄN THÁI NGUYÊN

Lớp:

QLDA47

- Tên cơ quan quản lý thực tập: UBND Xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh
Quảng Trị
- Tên đề tài: Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất cà phê của hộ nông dân
tại xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
- Điểm nghiên cứu: xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

1. Đặt vấn đề:

Cây cà phê từ lâu đã được coi là một trong những cây trồng chính trong cơ
cấu cây trồng tại xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Đây là một loại
cây có giá trị kinh tế cao, phù hợp cả cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Một số
công dụng của cây cà phê có thể kể đến như: tạo hưng phấn, tăng cường sự tập
trung, hạn chế buồn ngủ, kéo dài sự tỉnh táo và tập trung. Ngoài ra, cà phê còn được
cho là chứa nhiều chất chống oxi hóa, giúp hạn chế quá trình lão hóa, làm đẹp da,
đặc biệt đối với nữ giới.
Với điều kiện tự nhiên- xã hội đặc biệt phù hợp cho việc canh tác và mở rộng


quy mô trồng cây cà phê, xã Hướng Tân đã được Nhà nước quan tâm đầu tư trở
thành một trong những địa phương trọng điểm về trồng cây cà phê. Từ đó, địa
phương đã cùng với các vùng trồng cà phê khác trên cả nước không ngừng mở rộng
quy mô trồng cà phê, đồng thời nâng cao cả về năng suất và chất lượng để đem cà
phê Việt Nam trở thành một thương hiệu cà phê có tính nhận diện cao trên trường
quốc tế, có khả năng cạnh tranh với các thương hiệu cà phê nổi tiếng trên toàn thế
giới.
Tuy nhiên, vài năm trở lại đây địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của biến
đổi khí hậu làm giảm năng suất cây trồng nói chung cũng như năng suất cây cà phê
nói riêng, gây nên những hệ lụy không nhỏ đối với sinh kế của người dân trên địa
bàn xã Hướng Tân. Ngoài ra, do những biến động bất thường và khó lường trước
của thị trường nông sản trên thế giới cũng như ở trong nước làm cho giá trị của cây
cà phê tăng giảm không ổn định gây nên nhiều khó khăn cho các cấp chính quyền


và cho chính người dân. Theo báo cáo Kinh tế- xã hội của Ủy ban nhân dân xã
Hướng Tân, năng suất của cây cà phê trung bình năm 2006 đạt trên 13.000 kg/
ha/năm. Nhưng đến năm 2013, năng suất của cây cà phê đã giảm mạnh chỉ còn
khoảng 12.000kg/ha/năm gây thiệt hại không nhỏ cho người dân cũng như cho
doanh nghiệp kinh doanh cà phê.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu những tác động tích cực cũng như tiêu cực của
việc trồng cây cà phê trên địa bàn xã Hướng Tân để tìm ra những biện pháp cải tạo
là hết sức cần thiết và cấp bất nhằm đảm bảo cho việc phát triển cây cà phê bền
vững và mang lại năng suất chất lượng cao nhất phục vụ cho việc phát triển kinh tế
của địa phương nói riêng và của cả nước nói chung.
2. Mục tiêu nghiên cứu:

2.1. Mục tiêu tổng quát: Tìm hiểu tình hình trồng cây cà phê trên địa bàn xã
Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị và những yếu tố tác động đến việc
trồng cây cà phê.

2.2. Mục tiêu cụ thể
-

Đánh giá những tác động của việc trồng cây cà phê đối với sinh kế và đời

sống người dân trên địa bàn xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
-

Phân tích những thuận lợi và khó khăn của địa phương ảnh hưởng đến khả

năng sinh trưởng và phát triển của cây cà phê
-

Tìm ra những yếu tố tác động đến năng suất , chất lượng và hiệu quả sản

xuất của cây cà phê.
3. Tổng quan tài liệu:

3.1. Cơ sở lý luận
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh
tế quốc gia. Nông nghiệp Việt Nam từ một nền nông nghiệp lạc hậu, tiến lên xây
dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của nhà nước. Nông nghiệp nước ta là khu vực kinh tế truyền thống, tập
trung tuyệt đại đa số lao động của xã hội, phát triển hiệu quả kinh tế cây cà phê phụ
thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên như: đất đai, khí hậu… và từ cây cà phê tạo ra
thu nhập chủ yếu cho các hộ nông dân.


Việt Nam là nơi có số dân nông thôn đông chiếm khoảng 80% dân số cả nước
và 70% lao động xã hội. Ngoài ra nước ta là một nước có nhiều tiềm năng về đất

đai, khí hậu, điều kiện sinh thái để sản xuất mặt hàng cà phê xuất khẩu, tạo điều
kiện cho lao động nông thôn nước ta có công ăn việc làm, ổn định đời sống cho
nông dân. Trong những năm vừa qua ngành nông nghiệp đã có những bước phát
triển đáng kể làm thay đổi bộ mặt kinh tế, xã hội nông thôn của cả nước, trong đó
ngành nông nghiệp là ngành mũi nhọn đã đem về cho người dân nhiều thành tựu
kinh tế đáng kể. Một trong những thành tựu nổi bật là các mặt hàng cà phê tiếp tục
tăng, trong đó có mặt hàng cà phê.
3.1.1 Các khái niệm
3.1.1.1 Cây cà phê:
Cà phê là tên một chi thực vật thuộc họ Thiến thảo (Rubiaceae). Chi cà phê
bao gồm nhiều loài cây lâu năm khác nhau. Tuy nhiên, không phải loài nào cũng
chứa caffein trong hạt, một số loài khác xa với những cây cà phê ta thường thấy.
Chỉ có hai loài cà phê có ý nghĩa kinh tế. Loài thứ nhất có tên thông thường trong
tiếng Việt là cà phê chè (tên khoa học: Coffea arabica), đại diện cho khoảng 61%
các sản phẩm cà phê trên thế giới. Loài thứ hai là cà phê vối (tên khoa học: Coffea
canephora hay Coffea robusta), chiếm gần 39% các sản phẩm cà phê. Ngoài ra còn
có Coffea liberica và Coffea excelsa (ở Việt Nam gọi là cà phê mít) với sản lượng
không đáng kể.
3.1.1.2. Khái niệm Hộ nông dân
+

Hộ nông dân là người chung sống dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có

chung ngân quỹ (weberster 1990 )
+

Hộ nông dân là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái sản xuất đến tiêu

dùng và các hoạt xã hội khác( Martin 1988 ).
+


Là tập hợp những người có chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với nhau

trong quá trình sáng tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính bản thân và cộng đồng ( Raul
1989)


3.2. Cơ sở thực tiễn
3.2.1. Tình hình sản xuất cà phê trên thế giới
Trên thế giới hiện nay có 75 nước trồng cà phê với diện tích trên 10 triệu ha
và sản lượng hàng năm biến động trên dưới 6 triệu tấn. Năng suất bình quân chưa
vượt quá 6 tạ nhân / ha. Trong đó ở Châu Phi có 28 nước năng suất bình quân không
vượt quá 4 tạ nhân/ ha. Nam Mỹ đạt dưới 6 tạ nhân / ha. Bốn nước có diện tích cà
phê lớn nhất đó là: Brazil trên 3 triệu ha chiếm 25% sản lượng cà phê thế gới,
côted’lvoire (châu phi) indonesia (châu á) mỗi nước 1 triệu ha và Côlômbia có gần
1 triệu ha với sản lượng hàng năm đạt trên dưới 700 nghàn tấn. Do áp dụng một số
tiến bộ kỹ thuật mới như giống mới và mật độ trồng dày nên đã có hàng chục nước
đưa năng suất bình quân đạt trên 1 tấn /ha. Điển hình có CostaRica ở Trung Mỹ với
diện tích cà phê chè là 85000 ha những đã đạt năng suất bình quân trên 1400kg/ha.
Do sự suất hiện và gây tác hại của bệnh gỉ sắt cà phê tại nhiều nước Trung và
Nam Mỹ từ năm 1970 trở lại đây đã gây thêm những khó khăn và tốn kém cho
người trồng cà phê ở khu vực này, cà phê chè hiện nay chiếm 70% sản lượng của
thế giới. Diện tích cà phê được trồng tập trung chủ yếu ở Trung và Nam Mỹ, một số
nước ở Đông Phi như: Kenya, Cameroon, Ethiopie, Tanzan và một phần ở Châu Á
như: Indonesia, Ân độ, Philippin .
Cà phê là nước uống cao cấp, nhu cầu đòi hỏi của người tiêu dùng vẫn
không ngừng tăng lên chưa có những sản phẩm nhân tạo được chấp nhận để thay
thế cho cà phê, vì vậy việc trồng, xuất khẩu, nhập khẩu, loại hàng hoá đặc biệt này
vẫn có một ý nghĩa kinh tế lớn đối với nhiều nước.Vấn đề quan trọng cần có nhận
thức đầy đủ là: Sản phẩm cà phê đem ra thị trường phải đảm bảo chất lượng, trong

cơ chế thị trường: Tiền nào- của nấy, lại càng đúng với mặt hàng cà phê.
3.2.2. Tình hình sản xuất cà phê ở Việt Nam
Lịch sử phát triển cà phê ở Việt Nam: Theo YvesHenry, tác giả cuốn kinh tế
nông nghiệp Đông Dương thì cà phê được đưa trồng vào Việt Nam năm 1857 tại
một số vùng thuộc tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, do các nhà truyền giáo. Năm 1870,
cà phê được trồng ở các tỉnh phía bắc, chủ yếu là cà phê chè những do năng suất
thấp nên giảm dần. Năm 1905, để cứu vãn tình thế, người pháp đưa cà phê vối ,cà
phê mít vào trồng để thay thế cà phê chè ở các vùng có độ cao thấp, sinh thái không


thích hợp với cà phê chè. Cà phê được trồng ở Hà Tĩnh năm 1910, Yên Mỹ (Thanh
Hoá) : 1911; Nghĩa Đàn ( Nghệ An): ,1915, Tây Nguyên: 1925.
Năm 1976, cả nước ta chỉ có xấp xĩ 20.000 ha cà phê . Trong đó khá lớn diện
tích sinh trưởng xấu kém. Đến 1990, cả nước có gần 120.000 ha với sản lượng gần
65000 tấn. Đến năm 1998, cả nước có khoảng 300.000 ha, sản lượng vụ cà phê
năm 1997- 1998 đạt 400.000 tấn, xuất khẩu hơn 390.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu
đạt xấp xĩ 600 triệu USD, chỉ sau lúa gạo.
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam chủ
yếu xuất sang Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, chỉ một lượng
nhỏ xuất sang Hồng Kông và Singapore thì nay cà phê đã xuất khẩu tới 51 nước
trên các châu lục.
3.2.3. Tình hình sản xuất cà phê tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
Diện tích trồng cà phê của huyện Hướng Hoá hiện nay là 4.459,8 ha, trong
đó diện tích cà phê chè là 4.197,2 ha với giống cà phê chè Catimor (chiếm 99%).
Điều này chứng tỏ cà phê chè Catimor rất thích hợp với điều kiện sinh thái
nơi đây. Điều đặc biệt đáng lưu tâm nhất hiện nay là trong số 3.832 ha cà phê kinh
doanh ở huyện Hướng Hoá thì có gần 1.600 ha cà phê kinh doanh đã bị già cổi (12 17 tuổi).
4. Nội dung nghiên cứu
4.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên của địa bàn nghiên cứu
Xã Hướng Tân là một xã miền núi thuộc huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị,

ở đây điều kiện về đất đai, khí hậu có khả năng phát triển cây cà phê chè (Arabica).
Tuy nhiên, do địa hình bị chia cắt nhiều, hình thành nên nhiều loại đất có cấp độ
dốc và tầng dày khác nhau. Sự phân hoá rõ nét nhất là các kiểu khí hậu: khí hậu
thung lũng và núi cao, khí hậu Đông - Tây Trường Sơn. Bởi vậy khả năng trồng
được cà phê chè trên những vùng đất này cũng không hoàn toàn giống nhau. Mặc
dầu cây cà phê được người Pháp đưa vào trồng ở khu vực Khe Sanh - Hướng Hóa
cách đây hơn 100 năm về trước, nhưng đối với cây cà phê chè (Arabica) người dân
ở đây đưa vào trồng trọt với thời gian chưa lâu.
Cà phê chè được coi là chủng loại cà phê rất khó trồng bởi phải được chăm
sóc kỉ lưỡng để tránh sâu bệnh và sự thay đổi thất thường của thời tiết. Vấn đề điều


tra quy hoạch vùng trồng cà phê tại xã Hướng Tân chưa được tập trung đồng bộ,
người sản xuất chỉ chú ý đến vấn đề mở rộng diện tích khi cà phê bán được giá mà
chưa thực sự quan tâm đến các biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng năng suất và chất
lượng cà phê. Thực tế là các diện tích cà phê thuộc nông trường, công ty, xí nghiệp
do được trồng tập trung và làm tốt công tác quản lý kỹ thuật nên chất lượng vườn
cây khá đồng đều và năng suất hơn hẳn các vườn cà phê do các hộ nông dân tự
trồng và chăm sóc.
4.2. Những chính sách của Nhà nước đối với hoạt động đẩy mạnh phát triển
cây cà phê trên cả nước
Các khuyến khích của chính phủ kể từ cuối những năm 1970 bao gồm tín
dụng ưu đãi cho người trồng và xuất khẩu, thưởng xuất khẩu và một chương trình
quốc gia nhằm tạo thuận lợi cho việc tiếp cận đất đai, đặc biệt là ở một số vùng xa
xôi của Tây Nguyên, Ở cấp tỉnh, hỗ trợ công nghệ và khuyến nông được cung cấp
chủ yếu thông qua các nông trại quốc doanh vốn chiếm vị trí chủ đạo ngành cà phê
cho tới tận cuối những năm 80
Chính phủ đã tiến hành hỗ trợ ngành cà phê một cách nhất quán vào thời
điếm giá hạ thấp, bằng một loạt các biện pháp và trợ cấp khác nhau
Như vậy, sự phát triển của ngành cà phê được thực hiện gần như hoàn toàn

bằng nguồn đầu tư trong nước, cả của nhà nước và tư nhân.
Việc cung cấp công nghệ và tư vấn sản xuất đã góp phần đẩy mạnh sự tăng
trưởng của ngành nông nghiệp, mặc dù trong ngành cà phê đa phần những hỗ trợ
này là sự học hỏi lẫn nhau giữa những người nông dân, người mới đến học hỏi kinh
nghiệm từ những người đã thành công. Giống như nhiều nước sản xuất cà phê khác,
Việt Nam, việc cung cấp các tín hiệu về sản xuất và giá cả cho người nông dân rất
nghèo nàn. Việt Nam tỏ ra không chuẩn bị trước về những tác động mà chính sách
sản xuất của mình gây ra cho thị trường trong nước cũng như thế giới.


4.3. Những chính sách của chính quyền địa phương nhằm thúc đấy hoạt động
sản xuất cây cà phê
Nhận thấy cây cà phê là một trong những loại cây chủ lực của địa phương,
chính quyền xã Hướng Tân đã không ngừng thực hiện những hoạt động đánh giá,
nghiên cứu nhằm thúc đẩy hơn nữa các hình thức sản xuất cà phê tại địa phương.
Về nguồn giống, địa phương có hẳn một vườn ươm giống hiện đại do Công
ty chế biến cà phê Thái Hòa hợp tác xây dựng, đảm bảo cung ứng con giống chất
lượng cao và không bi thiếu hụt cho nông dân trong xã. Vườn ươm từ khi đi vào
hoạt động đã đem lại những lợi ích to lớn, giải quyết được công ăn việc làm cho bà
con trong xã, đồng thời đảm bảo được nguồn cây giống chất lượng cao, hạn chế
được sâu bệnh và không còn bị phụ thuộc vào bên ngoài. Vườn ươm có diện tích
hơn 2 hecta có khả năng gieo trồng trung bình 150.000 cây giống chất lượng cao
Cây cà phê đã được địa phương đầu tư từ những năm 90, do đó đến nay phần
lớn diện tích đã già cỗi dẫn đến năng suất giảm sút rất nhiều. Để giải quyết vấn đề
này, chính quyền địa phương đã ra sức kêu gọi người dân thực hiện tái sinh vườn cà
phê dưới hai hình thức, đó là cưa gốc hoặc trồng mới hoàn toàn. Hình thức cưa gốc
có thể nói được nhiều người dân lựa chọn nhất do chi phí thấp, khả năng khôi phục
cũng như cho trái nhanh, thường từ sau 1 năm là cây đã lớn và đã có thể thu hoạch.
Tuy nhiên biện pháp này không được khuyến khích do về lâu dài thì tỏ ra không
hiệu quả do gốc cây già cỗi vẫn còn, tiềm ẩm khả năng gây bệnh cho cây tái sinh.

Biện pháp trồng mới là biện pháp khả thi nhất song cũng có những mặt hạn chế.
Hạn chế thứ nhất đó là chi phí đầu tư cây giống cao và hạn chế thứ hai đó là thời
gian chờ cây có khả năng thu hoạch lâu hơn, thường từ trên 2 năm trở lên cây mới
cho trái.
Nhằm tạo đầu ra cho cây cà phê, hạn chế tình trạng bị thương lái ép giá,
chính quyền đã cấp phép cho Công ty chế biến cà phê Thái Hòa hoạt động trên địa
bàn xã. Từ khi công ty đi vào hoạt động, tình trạng thương lái ép giá đã không còn
xảy ra do công ty đã cử người tới thu mua tận vườn cà phê của mỗi nông hộ, đảm
bảo giá thu mua cao nhất cho người nông dân, đồng thời người dân không còn lo
thiếu đầu ra cho cây cà phê. Bên cạnh đó, công ty Thái Hòa cũng tạo ra việc làm


cho một bộ phận không nhỏ lao động địa phương, góp phần nâng cao thu nhập cho
nông dân.
Chính quyền xã cũng thường xuyên phối hợp cùng các cán bộ khuyến nông
tổ chức các buổi tập huấn về cách thức chăm sóc cây cà phê, cũng như giới thiệu
các giống cây trồng mới, cho năng suất và chất lượng cao hơn.
4.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất cây cà phê của hộ nông dân
4.4.1. Nguồn vốn:
Vốn có vai trò tối quan trọng quyết định sự phát triển của cây cà phê cũng
như các ngành nghề khác tại địa phương. Nắm bắt được nhu cầu này, chính quyền
luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân có thể tiếp cận vốn một cách dễ dàng
nhất, cụ thể là nguồn vốn từ Ngân hàng Chính sách và Phát triển và Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Thông qua các hội nhóm như hội
Phụ nữ, hội Nông dân, hội Cựu chiến binh... nguồn vốn của nhà nước được phân bổ
đến từng hộ có nhu cầu về vốn, đáp ứng được mong mỏi của người dân về vấn đề
đầu tư mở rộng sản xuất. Ngoài ra, để cho một bộ phận hộ dân có điều kiện khó
khăn có thể yên tâm đầu tư sản xuất, Nhà nước luôn đảm bảo lãi suất cho vay hợp
lý nhất để tất cả người dân đều có thể tiếp cận được nguồn vốn theo Chính sách của
Nhà nước.

4.4.2. Trang thiết bị phục vụ sản xuất:
Canh tác cà phê không đòi hỏi nhiều trang thiết bị hiện đại. Tuy nhiên, để tạo
mọi điều kiện cho người dân đẩy mạnh sản xuất, chính quyền các cấp luôn chú
trọng đến việc cung ứng đầy đủ các trang thiết bị phục vụ sản xuất của người dân.
4.4.3. Cây giống:
Nếu như trước đây, người dân rất khó khăn trong việc tìm nguồn con giống
thì hiện nay, vấn đề đó đã được giải quyết nhờ sự ra đời của khu vườn ươm do Công
ty chế biến cà phê Thái Hòa đầu tư xây dựng. Vườn ươm cung ứng cây giống cho
toàn bộ hộ dân không những trên địa bàn xã Hướng Tân mà còn cung ứng cho nhiều
nơi khác nhau trong huyện Hướng Hóa. Cây giống ở đây có chất lượng ổn định, cho
năng suất cao, ít sâu bệnh và đặc biệt là giá thành rẻ hơn rất nhiều so với trước đây.
4.4.4. Thị trường:


Trên địa bàn xã Hướng Tân hiện có Công ty chế biến cà phê Thái Hòa là đơn
vị thu mua chủ yếu các sản phẩm từ cà phê cho hộ dân trên địa bàn xã, đảm bảo đầu
ra cho người dân, nên người dân trồng cà phê không còn lo lắng về vấn đề đầu ra
như trước đây
4.4.5. Nguồn lao động:
Lao động là một trong những nguồn lực không thể thiếu trong bất cứ ngành
nghề nào, số lượng và chất lượng lao động ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất.
Nhìn chung, lao động ở địa phương còn thiếu cả về số lượng và về chất
lượng, nguồn lao động chính thì lại ít chủ yếu là lao động phụ và những người
ngoài độ tuổi lao động nên đây là một gánh nặng cho gia đình
4.4.6. Khoa học kỹ thuật:
Hiện nay khoa học phát triển mạnh nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, là nhân tố làm tăng giới hạn sản xuất. Đối với sản xuất nông nghiệp nói chung
cũng như cây cà phê nói riêng thì khoa học kỹ thuật cũng đóng góp không kém
phần quan trọng, nó là nhân tố làm thay đổi trạng thái sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm.

Thực tế ở địa phương cho thấy việc áp dụng khoa học kỹ thuật còn thấp, thật
sự là các hộ vẫn còn thiếu về các loại máy móc cần thiết và hiện đại .Các hộ nông
dân chỉ sản xuất theo phương thức sản xuất cũ và kinh nghiệm là chính, chính vì
vậy mà năng suất chưa cao.
4.5. Thu nhập từ sản xuất cà phê
Thu nhập từ cây cà phê chiếm phần lớn trong thu nhập của hộ nông dân.
Người dân có thu nhập từ cây cà phê trung bình khoảng 50 triệu đồng/năm. Đây là
mức thu nhập có thể nói là khá cao so với các ngành nghề nông nghiệp khác, tạo
nguồn thu ổn định cho người dân. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do chịu nhiều
tác động của biến đổi khí hậu dẫn đến năng suất của cây có xu hướng giảm, đòi hỏi
phải có nhiều biện pháp thích ứng tốt hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu:
-

Địa điểm nghiên cứu: địa điểm được chọn nghiên cứu là xã Hướng Tân,

huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Đây là vùng có sinh kế chủ yếu là hoạt động


trồng cây cà phê, do đó thuận lợi cho việc thực nghiệm và đánh giá hiệu quả cũng
như những tác động của cây cà phê đối với người nông dân
-

Phương pháp chọn mẫu là phương pháp ngẫu nhiên phân loại: chọn 50 hộ

trồng cà phê tại địa phương, trong đó bao gồm 25 hộ có diện tích trồng cà phê lớn
nhất, và 25 hộ có diện tích trồng cà phê nhỏ nhất
-

Loại mẫu: mẫu hộ


-

Dung lượng mẫu: chọn 50 hộ theo phương pháp ngẫu nhiên phân loại

-

Tiến trình và phương pháp thu thập thông tin dữ liệu

+

Thông tin dữ liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn, cụ thể từ các nguồn

sau:


Internet, báo chí, truyền thông: thu thập thông tin về điều kiện tự nhiên của
vùng; đặc điểm sinh thái học của cây cà phê; những Chính sách của Đảng và
Nhà nước về đẩy mạnh phát triển cây cà phê trên cả nước và tại tỉnh Quảng
Trị; tình hình sản xuất cà phê trên thế giới, tại Việt Nam và tại huyện Hướng

Hóa
• Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội của Ủy ban Nhân dân xã Hướng Tân,
huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị: thu thập thông tin về số hộ, đặc điểm xã
hội của từng hộ dân, quy mô trồng cây cà phê của từng hộ
+

Thông tin dữ liệu sơ cấp: tình hình sử dụng tư liệu sản xuất của từng hộ, quy
mô, diện tích trồng cây cà phê, những yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế của hộ
nông dân; những đóng góp từ cây cà phê đối với sinh kế hộ nông dân; những

nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất cây cà phê của hộ nông dân; thu
nhập và chi phí sản xuất

+

Phương pháp phỏng vấn người dân có sự tham gia PRA

+

Phương pháp kiểm tra chéo thông tin: nhằm xác thực thông tin giữa người
dân và chính quyền


6. Kế hoạch nghiên cứu:
Tiến trình/ các bước nghiên

Thời lượng,

Địa điểm thực hiện

cứu
Xây dựng đề cương nghiên

thời gian
15 ngày

Trường Đại học Nông lâm

15 ngày


Huế
Mạng Internet, thư viện

60 ngày

trường
Thôn Tân Linh, xã Hướng

cứu
Thu thập thông tin thứ cấp về
đề tài nghiên cứu
Thu thập thông tin tại địa
phương, tìm hiểu hoạt động
trồng cà phê tại địa phương
Xử lí số liệu, viết báo cáo

Tân, Hướng Hóa, Quảng Trị
30 ngày

Thôn Tân Linh, xã Hướng
Tân, Hướng Hóa, Quảng Trị



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×