Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tìm hiểu phản biện xã hội tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.79 KB, 15 trang )

KHU VỰC CÔNG VÀ QUẢN LÝ CÔNG
Nhóm 10

Tìm hiểu về công tác phản biện xã hội tại Việt Nam

Mục lục
I-Phản biện xã hội: Khái niệm, chức năng và điều kiện hình thành
1.1. Khái niệm phản biện xã hội - Social criticism

1.2.Chức năng của phản biện xã hội trong đời sống thực tiễn
1.3.Các điều kiện nền tảng để hình thành phản biện xã hội
II.Các chủ thể tham gia PBXH tại Việt Nam
2.1 Về cơ sở pháp lý
2.2,Các chủ thể tham gia
III.Quy trình phản biện xã hội
IV.Hình thức ,phương pháp,công cụ PBXH
V. Công tác phản biện xã hội trong vụ chặt cây xanh tại Hà Nội
5.1. Giới thiệu vấn đề
5.2.Quá trình PBXH của một số tổ chức cá nhân
VI. Thực trạng và định hướng giải pháp để thực hiện phản biện xã hội có hiệu quả
a. Thực trạng về phản biện xã hội ở Việt Nam
b. Định hướng lâu dài
c. Trước mắt


VII. Kết luận

I-Phản biện xã hội: Khái niệm, chức năng và điều kiện hình thành
1. Khái niệm phản biện xã hội - Social criticism
Có thể hiểu phản biện xã hội là sự phản biện của xã hội (hay là sự phản biện mang tính xã hội),
tức là sự biện luận, thẩm định, đánh giá của các lực lượng xã hội đối với những chủ trương, chính sách,


đề án, dự án xã hội... liên quan đến quyền lợi và đời sống của thành viên trong xã hội. Như vậy, phản
biện xã hội là tiếng nói nhận thức của xã hội, của các lực lượng xã hội. Đó là những lập luận có chứng cứ
(khoa học, thực tiễn) nhằm phát hiện, bổ sung, chứng minh, khẳng định hoặc bác bỏ, phủ định một chủ
trương, chính sách hay đề án xã hội được công bố hay đang hình thành.
(ThS. VŨ THỊ NHƯ HOA
Khoa Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực 1)

1.2.Chức năng của phản biện xã hội trong đời sống thực tiễn
(1)Phản biện xã hội giúp điều tiết xung đột lợi ích giữa các nhóm xã hội để tạo ra
đồng thuận xã hội
Xã hội là một tập hợp của nhiều nhóm lợi ích, ở đó, mỗi nhóm theo đuổi một chiến
lược sinh tồn riêng. Trong quá trình phát triển, các nhóm có nguy cơ mâu thuẫn về
quyền lợi, dẫn đến những ẩn ức, ức chế xã hội (trong trường hợp không được giải
tỏa); cao hơn, có thể dẫn đến các hoạt động chống đối, bạo lực, gây nên tình trạng
căng thẳng xã hội thường trực, thậm chí là tiền đề cho các cuộc khủng hoảng chính
trị - xã hội trên diện rộng
Phản biện xã hội góp phần tái tạo, phục hồi trạng thái cân bằng vốn đã bị phá vỡ
trước đó, mở đường cho trạng thái đồng thuận xã hội xuất hiện. Khi một xã hội trở
nên đồng thuận, bản thân nó đã tự tạo cho mình những tiền đề phát triển mới. Vì
đồng thuận xã hội là điều kiện cần để phát triển các nguồn vốn cộng đồng, mở rộng
mạng lưới xã hội mà ở đó, các thành viên dễ dàng tương tác với nhau nhờ cùng
chia sẻ những niềm tin và giá trị chung
(2) Phản biện xã hội góp phần khắc phục những khiếm khuyết của các kiến tạo
chính sách - thể chế, qua đó nâng cao chất lượng quản trị của bộ máy nhà nước
Phản biện xã hội không có mục đích phủ định sạch trơn hay tìm cách đánh đổ kiến
tạo chính sách của cơ quan công quyền. Ngược lại, nó giúp cơ quan kiến tạo chính


sách nhận ra những vết rạn hay lỗ hỏng của bản thân chính sách, kể cả việc đề xuất
các hướng đi hay giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế ấy

(3)Phản biện xã hội góp phần nâng cao trách nhiệm xã hội của cộng đồng, phát
triển ý thức về quyền và nghĩa vụ của người công dân, qua đó từng bước hình
thành môi trường xã hội dân chủ, tiến bộ.
Do bản chất xã hội của nó, các hoạt động phản biện thường gây ảnh hưởng đáng kể
lên đời sống cộng đồng. Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, vai trò tích cực
của cộng đồng truyền thông càng giúp đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các hoạt
động phản biện. Bởi vậy, diễn trình của hoạt động phản biện thường đi từ quan
điểm của một nhóm hạt nhân ban đầu rồi lan tỏa dần ra cộng đồng. Thông qua quá
trình này, cộng đồng dần nắm bắt được căn nguyên xuất hiện của hoạt động phản
biện, từ đó dấy lên nhu cầu quan tâm, nhận thức vấn đề đang được đặt ra. Dư luận
xã hội sẽ được hình thành trong điều kiện đó. Dư luận này một mặt hậu thuẫn cho
nhóm hạt nhân trực tiếp tham gia phản biện, mặt khác, ít nhiều tác động tới quan
điểm, thái độ của giới qui hoạch chính sách – giúp họ có thêm một thông tin “đầu
vào” (input) từ phía cộng đồng
1.3.Các điều kiện nền tảng để hình thành phản biện xã hội
(1)

Hệ thống thể chế minh bạch, dân chủ, tiến bộ
Ở các quốc gia phát triển, với sự tồn tại của một nhà nước pháp quyền dân chủ
và một nền kinh tế thị trường lành mạnh, phản biện xã hội diễn ra như một hiện
tượng tất yếu, tự nhiên của đời sống dân sự. Sự tương tác qua lại thường xuyên
giữa nhà nước – thị trường – các tổ chức xã hội thông qua cơ chế phản biện xã
hội đã giúp các quốc gia này giảm thiểu được xung đột, căng thẳng xã hội, điều
chỉnh năng lực quản trị của bộ máy nhà nước, cũng như phát triển trách nhiệm
xã hội, ý thức cộng đồng ở từng cá thể công dân lẫn các tập đoàn doanh nghiệp

(2)

Sự hiện diện của các tổ chức xã hội
Trong tình trạng các tổ chức xã hội chưa được phát huy hết khả năng, thì phản

biện xã hội khó lòng được hiện thực hóa một cách triệt để. Một khi tình trạng
này vẫn chưa được giải quyết, thì không chỉ quá trình dân chủ hóa xã hội bị
chậm lại, mà bản thân nhà nước cũng chịu nhiều thiệt thòi do thiếu một đối tác
chia sẻ gánh nặng và thiếu một đối trọng quyền lực để buộc nhà nước phải
không ngừng nâng cao năng lực quản trị nếu không muốn rơi vào tha hóa và tụt
hậu

(3)

Năng lực và trách nhiệm xã hội của giới trí thức


Công tác phản biện xã hội thuộc về trách nhiệm của toàn cộng đồng. Tuy nhiên,
với ưu thế đặc biệt về năng lực và do sự thôi thúc lương tâm, người trí thức luôn
nhận lãnh trách nhiệm của người tiền phong. Họ thường nhạy cảm phát hiện ra
các vấn đề mới của cuộc sống, đặt chúng trong một hệ qui chiếu rộng lớn của
đời sống cộng đồng, từ đó đánh giá những tác động lợi - hại của chúng đối với
lợi ích trước mắt và lâu dài của xã hội. Dĩ nhiên, rất nhiều vấn đề như thế đã
trực tiếp bắt nguồn từ các kiến tạo chính sách của cơ quan công quyền và các
kiến tạo này, đến lượt chúng trở thành đối tượng của công tác phản biện.
(4)

Trình độ dân trí của cộng đồng
Thứ nhất, trong một xã hội có nền dân trí cao, người dân nhận thức rất rõ về
quyền lợi và trách nhiệm công dân của họ. Sự tham gia tích cực vào đời sống
công cộng thông qua các đoàn thể dân sự giúp mỗi thành viên có điều kiện hình
thành ý thức công dân và nhân cách dân chủ.
Thứ hai, nền dân trí cao là điều kiện nền tảng để hình thành nên một đội ngũ trí
thức cho cộng đồng - đội ngũ mà về sau sẽ đảm nhận sứ mệnh tiền phong trong
công tác phản biện xã hội. Trong một xã hội, trí thức là sản phẩm trực tiếp của

hệ thống giáo dục và nếu xét đến tận ngọn nguồn, trí thức còn là tầng lớp mang
dấu ấn cụ thể của một nền văn hóa mà họ sinh ra và trưởng thành trong đó

II.Các chủ thể tham gia PBXH tại Việt Nam
2.1 Về cơ sở pháp lý
Cụ thể tại Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 quy định "Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp… giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước..."; Hiến pháp Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định “ Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân… giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ,
viên chức Nhà nước’; Khoản 1, Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định ''...Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận
xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt
động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Lần đầu tiên


trong Hiến pháp, chức năng giám sát và phản biện xã hội được đề cập một cách
có hệ thống và được cụ thể hóa bằng Quy chế.
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Điều lệ Đảng;
Quy chế làm việc và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa XI; ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã
ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội.
2.2,Các chủ thể tham gia
Chủ thể giám sát phản biện xã hội là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở, bao gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Phản biện xã hội về thực chất là sự phản biện của nhân dân. Nhân dân là
chủ thể của phản biện xã hội với hai tư cách
-Thứ nhất, với tư cách là người chủ, nhân dân có quyền giám sát đối với mọi
hoạt động của Nhà nước. Bằng hình thức phản biện xã hội, nhân dân có công cụ
hữu hiệu, có điều kiện tốt hơn thực hiện quyền giám sát các hoạt động của Nhà
nước.
-Thứ hai, với tư cách là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước, nhân dân
có quyền bảo vệ những lợi ích, quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình trước
những chủ trương, chính sách, đề án của Nhà nước chưa đáp ứng đầy đủ hoặc xâm
phạm các quyền lợi đó.

III.Quy trình phản biện xã hội





Xác định vấn đề phản biện
Thu thập thông tin
Viết các văn bản phản biện
Theo dõi việc tiếp thu kiến nghị.


IV.Hình thức ,phương pháp,công cụ PBXH
Cơ chế thực hiện sự phản biện xã hội phải bằng: Luật, pháp lệnh; báo chí, xuất bản
và các phương tiện thông tin đại chúng; các đoàn thể chính trị - xã hội mà nòng cốt
là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đối tượng phản biện xã hội là các văn bản dự thảo về chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc
gia) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình
Phản biện xã hội phải bảo đảm 4 nguyên tắc:
(1)
(2)
(3)

(4)

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ các đoàn thể chính trị - xã hội
có sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội với các cơ quan, tổ chức có liên quan
không làm trở ngại các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám
sát và phản biện xã hội; bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang
tính xây dựng
Tôn trọng các ý kiến khác nhau, nhưng không trái với quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của thành viên, đoàn viên, hội viên, lợi ích quốc gia, dân
tộc.

V. Công tác phản biện xã hội trong vụ chặt cây xanh tại Hà Nội
5.1. Giới thiệu vấn đề
Cuối năm 2014, đầu 2015, Sở Xây dựng thành phố Hà Nội đề xuất và được đồng ý
thực hiện đề án "Thay thế, cải tạo cây xanh". Theo đó, thủ đô sẽ trồng lại hơn 6.700
cây xanh trên 190 tuyến phố với nguồn kinh phí thực hiện hơn 73 tỷ đồng. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện đề án, thành phố Hà Nội đã vấp phải sự phản ứng
dữ dội từ truyền thông và nhân dân thành phố vì nhiều sai phạm, thiếu sót trong quá
trình thực hiện
5.2.Quá trình PBXH của một số tổ chức cá nhân



Tổ chức, cá nhân

Việc làm

Báo Tuổi trẻ

Đăng 47 bài viết xung quanh vụ chặt cây

Báo VNexpress
Trung tâm Con
người và thiên nhiên
phối hợp với Trung
tâm Truyền thông giáo
dục cộng đồng thuộc
Liên hiệp các hội khoa
học kỹ thuật Việt Nam
(VUSTA)

Đăng 38 bài viết xung quanh vụ chặt cây

GS Ngô Bảo Châu

Đưa ra một số các quan điểm về sai phạm trong quá
trình chặt cây

tổ chức tọa đàm "Từ Đề án 6.700 nhìn lại quy hoạch
cây xanh Hà Nội


300-400 người dân HN Tập trung đông đảo tại nhiều địa điểm trong thành phố
để biểu tình chống lại quyết định chặt 6.700 cây xanh
của UBND thành phố
tổng lượng comment trên các bài viết về loạt bài
Trên mạng xã hội
thay thế cây xanh trên tuoitre.vn là khoảng 1.808
commetn. Con số này trên Vnexpress.net là 6.034
comment.

Ý kiến của các chuyên gia


Kết luận thanh tra do ông Nguyễn Văn Tuấn Dũng- Chánh thanh tra thành phố Hà
Nội ký đã chỉ rõ những hạn chế trong việc việc cải tạo, thay thế cây xanh đô thị
trên địa bàn Hà Nội
Về cải tạo thay thế cây xanh trên đường Nguyễn Chí Thanh còn một số thiếu sót
trong quá trình thực hiện như chưa tranh thủ ý kiến của các chuyên gia, các nhà
khoa học, và nhân dân là việc làm nóng vội, giản đơn.
Sáng 21/7, UBND thành phố Hà Nội công bố kết luận xử lý trách nhiệm sau thanh


tra việc cải tạo, thay thế cây xanh trên địa bàn. "UBND thành phố đã xem xét toàn
diện tính chất, mức độ, động cơ, mục đích, nguyên nhân và hậu quả của các sai
phạm; với tinh thần nghiêm túc tự phê bình, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với
từng tập thể và cá nhân liên quan", thông báo nêu.
Theo đó, Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Thế Thảo nhận trách nhiệm với tư
cách là người đứng đầu đã để các cơ quan, đơn vị có những thiếu sót, tồn tại trong
việc cải tạo, thay thế cây xanh.
Trực tiếp phụ trách dự án, Phó chủ tịch Nguyễn Quốc Hùng nghiêm túc kiểm điểm
và nhận trách nhiệm cá nhân trước UBND về những tồn tại, thiếu sót trong chỉ đạo,

điều hành, kiểm tra, đôn đốc việc cải tạo, thay thế cây xanh.
VI. Thực trạng và định hướng giải pháp để thực hiện phản biện xã hội có hiệu quả
a. Thực trạng về phản biện xã hội ở Việt Nam
thực tế ở Việt Nam hiên nay mặc dù ban hành nhiều văn bản, nghị quyết được
đưa ra nhưng việc thực hiện nó còn chưa có hiệu quả. Mặt trận, đoàn thể vẫn
chưa làm hết trách nhiệm trong khi đó người dân vẫn còn bàng quan với vấn đề
chính trị. Người dân vẫn tham gia vào quá trình xây dựng các quyết sách qua
nhiều kênh khác nhau trong đó có kênh MTTQ (Chẳng hạn MTTQ tổ chức để
đại diện cho nhân dân đóng góp ý kiến cho các dự án luật trước khi quốc hội
họp). Thực tế cho thấy nhân dân chưa có cơ hội tiếp xúc với các dự thảo quyết
sách mà mới chỉ tiếp xúc với các quyết sách đã được ban hành vì vậy việc phản
biện vấn chưa thực sự mang tính chuyên nghiệp.
Hiện nay ở nước ta tồn tại 3 hình thức Phản biện xã hội chủ yếu là hội nghị trao
đổi trực tiếp giữa ban thường trực UBNDMTTQ với ban lãnh đạo hội đồng
nhân dân, UBND, Hội nghị phản biện do UBMTTQ tổ chức với thành phần
tham gia là những nhà khoa học, chuyên gia, nhà hoạt dộng thực tiễn, nhà quản
lý am hiểu chủ đề mà dự thảo các quyết sách đề cập. UBMTTQ tập hợp các ý
kiến kiến nghị của cử tri đóng góp qua các cuộc tiếp xúc cử tri và dư luận báo
chí để phản ánh với chính quyền
Những hoạt động trên đây ta có thể thấy sự tham gia trực tiếp của người dân là
rất ít mà chủ yếu là thông qua các kênh trung gian như các nhà trí thức hay báo
chí. Trên thực tế có thể thấy người dân vẫn rất thờ ơ với các vấn đề chính trị.
Trong các cuộc họp muốn lấy ý kiến của người dân cũng là một vấn đề khó
khăn do đa phần người dân ngại, sợ đụng chạm đến vấn đề chính trị


. Về phía nhân dân:Có 3 vật cản về tâm lý đối với phản biện xã hội:
Sự khó chịu thường tình với ai trái ý. Người ta vẫn hay ca ngợi “người hay
cãi”cụ thể trong đơn vị mình, dưới quyền của mình. Theo lối thông thường mọi
người vẫn chuộng “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng

nhau” hơn là “Thẳng mực tàu, đau lòng gỗ.”
Sự lo ngại sẽ nảy sinh cái gì đó bất ổn, gây ảnh hưởng đến vị thế của cá nhân
hay cơ quan quyền lực. Lo lắng quá chuyện phản biện sẽ dẫn đến phản kháng
gây mất ổn định. Trong đa số trường hợp xuất phát từ căn bệnh ích kỉ của con
người . Mà căn bệnh ấy rất tự nhiên, rất khó tránh. Một số yếu tố rất ư chủ quan
của con người: Ngại việc, ngại mất việc, ngại mất thời gian, ngại tốn tiền bạc.
Chính tâm lý trên đã tạo nên một thói quen độc thoại, văn hóa tranh luận kém
Ngoài ra do nước ta có nửa già dân số làm nông nghiệp nên trình độ dân trí còn
thấp. Việc tiếp cận với các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà
nước còn hạn chế. Điều này gây hạn chế cho hoạt động phản biện xã hội nên
công tác sắp tới là phải nâng cao trìnhn độ dân trí. Trình độ dân trí càng cao thì
người dân càng tự nguyện thm gia nhiều hơn vào hoạt động phản biện xã hội.

Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH với mô hình tổng quát là:
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, xây dựng nền dân chủ XHCN … Chúng ta không phủ nhận
những đóng góp của các tổ chức XH trong việc phát huy dân chủ, xây dựng cơ
chế, chính sách, pháp luật và thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần xóa đói, giảm nghèo,
phát triển đất nước. Nhưng cần thấy rõ một thực tế là, các thế lực thù địch, phản
động luôn lợi dụng phản biện xã hội để tạo dựng các lực lượng đối lập với Nhà
nước, chống phá Đảng Cộng sản ngay trong lòng xã hội ta. để gây sức ép, đặt
điều kiện về “dân chủ”, “nhân quyền”, đòi Nhà nước ta cho phép thành lập các
tổ chức độc lập về chính trị; tác động thay đổi đường lối, chính sách, luật pháp,
nhằm làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, hạn chế vai trò của Nhà nước
đối với đời sống xã hội. Thực chất là họ muốn tạo cơ sở tư tưởng, pháp lý cho
sự ra đời của các tổ chức XHDS đối lập về chính trị.


b. Định hướng lâu dài

Thứ nhất, cần ban hành luật quy định về các tổ chức xã hội . Cùng với quyền
ngôn luận, quyền báo chí, quyền hội họp, quyền biểu tình, thì quyền lập hội là
những quyền cơ bản của con người, không những trong các văn kiện quốc tế,mà
trong các bản Hiến pháp nước ta đều trịnh trọng ghi nhận.Những quyền này là
những quyền cơ bản nhưng mang tính sơ đẳng để đảm bảo vai trò của mỗi cá
nhân trong xã hội. Mỗi cá nhân đều có quyền thể hiện những điều mà mình
nghĩ, có quyền liên kết với nhau trên cơ sở chính trị, xã hội, tôn giáo, văn hóa…
Tuy nhiên, nếu chỉ là những cá nhân đơn độc, bị xé lẻ, bị cô lập thì tiếng nói, sự
phản biện của họ đối với Nhà nước bị hạn chế và họ cũng không thể tự làm chủ
xã hội, nếu chỉ bằng sự nỗ lực đơn lẻ của từng cá nhân. Thông qua quyền lập
hội, các tổ chức xã hội được thành lập và đó là tiếng nói có tổ chức của những
người dân được tập hợp lại với nhau để phản biện, kiểm soát Nhà nước, cùng
Nhà nước và các thiết chế chính trị khác trong hệ thống chính trị, xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như trong thời kỳ đấu tranh cách mạng,
nhân dân – Đảng – Nhà nước đã cùng đồng tâm hiệp lực. Đảng, Nhà nước cần
thực sự tôn trọng tính xã hội của các tổ chức này.
Thứ hai, nếu chúng ta thực sự cầu thị, thực sự tôn trọng các ý kiến khác nhau
trên nền tảng lợi ích dân tộc, thì báo chí và phương tiện truyền thông cần “tách”
khỏi Nhà nước. Nói cách khác, Nhà nước không nên trực tiếp “ôm” báo chí (và
các phương tiện truyền thông khác) mà quản lý bằng luật pháp. Nó là “của” xã
hội, bởi lẽ nhân dân chỉ trao cho Nhà nước ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, còn nhánh “quyền thứ tư” này nhân dân giữ lại. Mặt khác, chế độ “kiểm
duyệt” đối với báo chí và các phương tiện truyền thông cần phải được xem xét,
tiến tới loại bỏ, vì nó là tiếng nói của nhân dân, là phương tiện để nhân dân
phản biện và giám sát Nhà nước và các thiết chế quyền lực khác.
Thứ ba, để phản biện xã hội đa dạng về phương pháp, hình thức và có hiệu quả,
việc xây dựng hành lang pháp lý cho các quyền: quyền tự do ngôn luận, quyền
hội họp, quyền biểu tình là rất cần thiết.
Thứ tư, một việc làm không kém phần quan trọng là phải ban hành “Luật về
quyền được thông tin” của người dân. Để công dân làm chủ nhà nước, làm chủ



xã hội; để các tổ chức xã hội phản biện về chủ trương, chính sách, đề án; để
chức năng giám sát xã hội đối với Đảng, Nhà nước có hiệu quả; nếu chúng ta
thực tâm muốn chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền…,
thì không thể không thực hiện việc thông tin cho xã hội, cho công dân. Đó phải
là trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan nhà nước. Nếu không, hiệu quả của
phản biện xã hội và giám sát xã hội sẽ không cao.
c. Trước mắt
Do đó, trước mắt cần phải xây dựng cơ chế, nhất là cơ chế pháp lý thật cụ thể
về phản biện xã hội theo hướng:
Một là, cần phải có văn bản quy phạm pháp luật (tốt nhất là Luật của Quốc hội)
quy định cụ thể về đối tượng, phương thức, quy trình, cách thức tiếp thu ý
kiến… về phản biện xã hội. Việc quy định như thế nào: trong một đạo luật về
phản biện xã hội hay trong từng quyết định, đường lối, chủ trương, đề án… của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thực hiện phản biện xã hội – điều đó
thuộc về kỹ thuật lập pháp
Hai là, phải khắc phục tình trạng “hô hào” chung chung: trên cơ sở luật của
Quốc hội (hoặc văn bản pháp lý khác), phải đưa phản biện xã hội vào nội quy,
quy chế của từng bộ, từng ngành, từng cấp, từng cơ quan, đơn vị
Ba là, trong giai đoạn hiện nay, nói đến phản biện xã hội, dù muốn hay không,
không thể không nói đến vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân
phản biện xã hội cần tập trung vào những nội dung sau:
Một là,chống tham nhũng, lãng phí
hai là, giải quyết vấn đề đất đai và xây dựng cơ bản
ba là, vấn đề quy hoạch và phát triển nông thôn
bốn là, vấn đề cải cách hành chính
năm là, tính cạnh tranh của hàng hoá
sáu là, giá điện, nước, xăng dầu

bảy là, cước phí lưu thông, bảo đảm an toàn giao thông
tám là, thanh lọc các định chế tài chính


chín là, vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc (với những định chế xã hội trong một
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa) và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.
VII. Kết luận
Việt Nam ta, do đặc thù truyền thống văn hóa và giá trị nên chúng ta chưa nhìn
nhận đúng đắn về vai trò và đóng góp của giới phê phán xã hội, vì người Việt
chúng ta chưa quen với việc bị (được) ai đó “phê bình” hay “phê phán”. Chúng
ta thường phản ứng bằng cảm tính chứ không sẵn sàng đối thoại với người phê
phán bằng tiếng nói lý tính dựa trên tri thức.
Mọi việc có thể thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp cho Việt Nam ta, khi thói
quen phê phán xã hội trở thành một thói quen văn hóa mới, để góp phần làm
chính quyền vững mạnh và điều chỉnh chính sách tốt hơn, góp phần hình thành
một xã hội dân sự văn minh như phương Tây đã và đang trải qua. Phê phán xã
hội phải được mọi người xem trọng như tiếng nói lý tính mang tính phản/cảnh
tỉnh nhân loại nói chung.

Hiện nay , tiếng nói của người dân đối với các vấn đề quốc gia ngày càng được
chú trọng , thể hiện tinh thần dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân.Những
ý kiến của người dân về những vấn đề hiện nay như: chặt cây ở Hà Nội, giàn
khoan 981, xả thải Formonsa,… đã và đang được người dân quan tâm và cùng
nhà nước xây dựng, đề ra giải pháp góp phần giúp đất nước phát triển hơn
Không thể gọi là hạnh phúc, mà không tham gia vào công việc công cộng.
Không thể gọi là tự do nếu không thể nghiệm thế nào là tự do công cộng.
Không thể là tự do hay hạnh phúc mà không có chút quyền hành nào trong
quyền lực công cộng
Hannah Arendt
(1906-1975)



Tài liệu tham khảo
Dẫn theo Bùi Quang Minh (2011), Chia sẻ về sứ mệnh xây dựng
chungta.com, />
Dẫn theo Bùi Văn Nam Sơn (2011), Văn hóa và văn hóa chính trị,
/>Dẫn theo Paul Alexandre Baran (1961), Thế nào là người trí thức (Phạm Trọng Luật
dịch), )
John Stuart Mill (2008), Chính thể đại diện (Nguyễn Văn Trọng dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội, tr. 10.
Phạm Trọng Luật, Học thức và trí thức: lịch sử một trận phân
thân, />



×