Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Nguyên tắc toàn diện trong triết học mác lênin với việc phân tích đường lối đổi mới toàn diện ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.95 KB, 16 trang )

TiÓu luËn triÕt häc
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Dưới ngọn cờ lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh
và Bác Hồ vĩ đại, nhân dân ta đã từng đánh bại 2 đế quốc hùng mạnh nhất thế
giới đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay trong công cuộc xây dựng phát
triển đất nước, đặc biệt là công cuộc xây dựng kinh tế, Đảng lại lãnh đạo nhân
dân đi hết từ thành công này đến thành công khác, mang lại sự đổi thay từng
ngày từng giờ cho bộ mặt đất nước. cũng như mamg đến sức sống mới cho nhân
dân cả nước. Tuy rằng trước đây chúng ta đã mắc khá nhiều sai sót trong quản
lý cũng như việc duy trì nền kinh tế bao cấp, đã làm trì trệ sự phát triển của đất
nước, thế nhưng Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt tình thế và đã vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào tình hình mới thời đại mới. Đảng ta đã chủ trương
chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
đồng thời đổi mới tư tưởng và phương pháp quản lý của Nhà nước vào những
năm 1986. Công cuộc xây dựng kinh tế thị trường đã đưa nước ta thoát khỏi
khủng hoảng trầm trọng sang phát triển nhanh chóng. Hiện nay Việt Nam chúng
ta là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, năng động bậc
nhất trên thế giới, được bạn bè trên thế giới đánh giá cao và ghi nhận .
Dựa trên quan điểm toàn diện của triết học Mác - Lênin để nhìn nhận
những thành tựu đạt được sau 15 năm đổi mới, có thể khẳng định đường lối
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, hợp với ý nguyện của
nhân dân. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới toàn diện ấy đã nảy sinh nhiều vấn
đề hiện chúng ta phải băn khoănsuy nghĩ, nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn cũng
như nhiều quan điểm cần được làm sáng tỏ.
Ngay từ khi đổi mới toàn diện có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau đứng
trên ngoài quan điểm toàn diện mà xét thì chúng có rất nhiều hạn chế, không ít
những quan điểm sai lạc, xuyên tạc, trái với chủ trương, đường lối của Đảng.
Những ý kiến phản hồi từ nhân dân cũng có nhiều ý kiến đúng đắn. Hơn nữa
tình trạng một bộ phận Đảng viên bị tha hoá, biến chất là vấn đề đáng lo ngại và
cần lên tiếng báo động mà Đảng ta đã thừa nhận trong báo cáo chính trị của Ban
1




TiÓu luËn triÕt häc
chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, cũng như trong Đại hội Đảng lần thứ IX.
Hơn nữa những hạn chế lớn về hệ thống hành chính, vấn đề tiền lương cần phải
có những chính sách mới phù hợp để tiến hành cải cách triệt để và những mâu
thuẫn lớn trong xã hội cần được giải quyết có như vậy thì mới có thể biến Việt
Nam thành con rồng của Châu á, đưa Việt Nam sánh ngang cùng các cường
quốc năm Châu như Bác Hồ từng mong mỏi và hơn thế nữa còn để xây dựng
Việt Nam là một nước “Công băng dân chủ văn minh” như Đại hội IX của
Đảng đã xác định.
Do đó mà em đã chọn đề tài “Nguyên tắc toàn diện trong triết học Mác
- Lênin với việc phân tích đường lối đổi mới toàn diện ở Việt Nam”. Đây là
một đề tài mang ý nghĩa to lớn trong việc đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Hiện
nay chúng ta ở trong thế kỷ XXI, thế kỷ nhiều thời cơ và thách thức, nhiều nguy
cơ lớn đang chờ ở phía trước. Chúng ta cần phải dựa vào quan điểm toàn diện
của triết học Mác - Lênin để tìm ra những biện pháp thích ứng tự tìm ra con
đường cho mình, do đó nó còn có ý nghĩa phương pháp luận to lớn. Trong
khuân khổ hạn hẹp, em không thể trình bày kỹ càng mà chỉ đi sâu vào một số
vấn đề quan trọng nên khó tránh khỏi khiếm khuyết, phiếm diện khi đánh giá,
nhìn nhận: em chân thành mong được thầy giáo, bổ xung, phê bình để em được
mở rộng tầm nhìn, thấy được khiếm khuyết của mình. Em xin chân thành cảm
ơn.

2


TiÓu luËn triÕt häc
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Quan điểm toàn diện và cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện.

a. Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác - lênin đã khẳng định được vai trò
định hướng, phương pháp luận cho mọi khoa học, là kim chỉ nam cho mọi hành
động của con người. Trong cuộc sống đầy biến động và phức tạp này, giúp con
người nhận thức đúng đắn hơn về thế giới. Mỗi một quan điểm của nó là một
cách nhìn nhận về cuộc sống, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong triết học
Mác - Lênin với nội dung: “các sự vật và hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong
thế giới, không cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng ta là một thể
thống nhất, trong đó các sự vật, hiện tượng tồn tại bằng cách tự tác động nhau,
ràng buộc nhau quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Mối liên hệ này chẳng những
diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy mà
còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện
tượng ” (Chủ biên. PGS. Vũ Ngọc Pha - Giáo trình “Triết học Mác - Lênin”) NXB Giáo dục, 10997, trang 130). Mối liên hệ phổ biến là khách quan, là cái
vốn có của các sự vật, hiện tượng, nó bắt nguồn từ tính thống nhất của vật chất
của thế giới biển hiện trong các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy.
b. Vì sao cần phải thực hiện quan điểm toàn diện của triết học Mác - lênin/
Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm
toàn diện khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng, bởi vì trong đánh giá nhìn nhận
một vấn đề chúng ta thường nhìn nhận phiến diện, một chiều, bỏ qua nhiều các
yếu tố tác động, do đó khi giải quyết các công việc trong cuộc sống chúng ta
thường thất bại do nhiều tình huống bất ngờ, không lường trước. Mà thực ra nếu
vận dụng đúng quan điểm toàn diện thì mọi công việc có thể trở nên suôn xẻ,
đơn giản “Nguyên lý mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm
toàn diện khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng, tức là xem xét sự vật hiện tượng
khác, xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kê cả các khâu trung gian, thấy được
vị trí của từng mối liên hệ trong tổng thể của nó, có như vậy mới nắm được
3


TiÓu luËn triÕt häc

bản chất của sự vật ” [Chủ biên: PGS. Vũ Ngọc Pha NXB Chính trị Quốc gia,
1997, trang 41], tức là khi giải quyết một vấn đề trong cuộc sống chúng ta phải
đặt vấn đề trong một môi trường không gian, thời gian xác định, xem xét các
mối liên hệ tác động vào nó, xác định vị trí và vai trò của mỗi mặt trong tổng
thể những nhân tố tác động vào sự vật hiện tượng xem đâu là nhân tố chủ quan,
khách quan, đâu là nhân tố trực tiếp, đâu là nhân tố gián tiếp có như thế chúng
ta mới có những giải pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động kinh tế mang tầm quan
trọng hàng đầu trong công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta.
2. Nguyên tắc toàn diện trong quản lý kinh tế.
a. Trong nền kinh tế không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái
cô lập tách rời những sự kiện khác.
Bất kỳ một sự kiện kinh tế nào cũng chỉ tồn tại với tư cách là nó trong
mối liên hệ với những sự kiện kinh tế khác.
Ví dụ: giá cả thị trường của mỗi loại hàng hoá chỉ biểu hiện ra trong mối
quan hệ với sự biến động cung - cầu về loại hàng hoá khác (tỉ giá với các loại
hàng hoá cạnh tranh cùng chủng loại, nhu cầu các loại hàng hoá bổ xung).
b, Các thị trường hàng hoá dịch vụ cụ thể.
- thị trường hàng hoá, thị trường vốn, thị trường lao động không tồn tại
trong trạng thái cô lập tách biệt nhau mà trong sự liên hệ tác động qua lại chế
ước lẫn nhau. Mỗi sự biến động về giá cả trên thị trường vốn (lãi suất kéo theo
hàng loạt các sự biến động lan truyền trên các thị trường lao động, thị trường
hàng hoá ).
Ví dụ: khi lãi xuất trên thị trường vốn giảm (giá của tiền) các doanh
nghiệp có cơ hôịi mở rộng đầu tư phát triển sản xuất làm cho giá cả sức lao
động, tiền công, tiền lương tăng lên do đó giá cả trênông thôn hàng hoá cũng
tăng lên..v.v...
c. Bản thân nền kinh tế thị trường cũng không tồn tại trong trạng thái cô
lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế - Chính
4



TiÓu luËn triÕt häc
trị - ngoại giao; kinh tế, chính trị, đạo đức - Pháp quyền; kinh tế chính trị - khoa
học - nghệ thuật.
Ví dụ: nền kinh tế nước ta khi chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì những sự thay đổi trong quan
điểm kinh tế, cơ cấu kinh tế và cơ chế kinh tế kéo theo sự thay đổi trong quan
niệm về vai trò, vị trí và chức năng của các hiện tượng chính trị, ngoại giao, đạo
đức, pháp quyền, khoa học và nghệ thuật ....
Vì mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại, và chỉ biểu hiện với tư cách là nó trong
mối quan hệ với những sự kiện khác cho nên nguyên tắc toàn diện đòi hỏi.
- Khi nghiên cứu một sự kiện kinh tế nào đó, để có thể nhận thức được
bản chất của sự kiện cần phải xem xét nó trên tất cả các mặt, các mối liên hệ có
thể có. Bản chất của sự kiện sẽ là cái chung, được chứa đựng trong tất cả các
mối liên hệ đó tính chân lý và xác thực của tri thức khoa học được rút ra phụ
thuộc vào độ lớn của tổng thể các mối quan hệ có thể thu nhập được. Tuy nhiên,
vì số lượng các mối liên hệ có thể có là vô cùng, người nghiên cứu không thể
nào bao quát hết, cho nên sai lầm vẫn có thể xảy ra. Chính vì vậy chân lý - sai
lầm là hai mặt cùng tồn tại trong một tri thức.
- Trong khi hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước
phải tính đến tất cả các mối liên hệ trên các bình diện có thể có, chẳng hạn:
+ Tương quan giữa nền kinh tế dân tộc với kinh tế của các nước trong
khu vực và quốc tế để thấy lợi thế so sánh.
+ Tương quan giữa các nguồn lực đang hiện có với nhu cầu về hàng hoá
dịch vụ của dân cư.
+ Tương quan giữa đầu tư cho tương lai với tiêu dùng hiện tại.
+ Tương quan giữa tiêu dùng xã hội với tiêu dùng cá nhân.
+ Tương quan giữa các tầng lớp dân cư, các vùng kinh tế ..v.v...
Một chiến lược phát triển kinh tế xã hội được xem xét trong tổng thể các

mối liên hệ càng rộng bao nhiêu, khả năng sai lầm càng ít bấy nhiêu, tính hiện
thực của nó càng nhiều bấy nhiêu.
5


TiÓu luËn triÕt häc
- Đối với một doanh nghiệp việc quyết định một phương thức sản xuất
kinh doanh: sản xuất ra loại hàng hoá dịch vụ nào bằng công nghệ kỹ thuật nào
và bán cho ai, cũng cần phải tính cả các mối liên hệ có thể có như:
+ Các mối liên hệ chính trị - pháp lý.
+ Mối liên hệ cung cầu của loại hàng hoá được lựa chọn.
+ Tính thời vụ của nó.
+ Mối liên hệ tỉ giá giữa loại hàng hoá này với các hàng hoá đối thủ với
các hàng hoá bổ xung.
Doanh nghiệp càng tính toán được nhiều mối liên hệ bao nhiêu, thất bại
rủi ro càng ít bấy nhiêu.
Làm thế nào để trong khi ứng dụng nguyên tắc toàn diện không bỏ sót,
không tính trùng? Để khắc phục tình trạng bỏ sót cần phân loại các mối liên hệ
thành từng nhóm. Mỗi chuyên ngành khác nhau có cách phân nhóm các mối
liên hệ theo phương pháp khác nhau. Trên bình diện triết học người ta thường
quan tâm đến các nhóm chủ yếu sau đây:
+ Mối liên hệ bên trong - bên ngoài.
+ Mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp.
+ Mối liên hệ nhân quả.
+ Mối liên hệ cái chung - cái riêng.
+ Mối liên hệ bản chất - hiện tượng.
+ Mối liên hệ tất nhiên - ngẫu nhiên, tự do - tất yếu.
+ Mối liên hệ doanh nghiệp - hình thức, yếu tố - hệ thống.
+ Mối liên hệ khả năng - hiện thực.
+ Mối liên hệ chất lượng - định tính - định lượng.

+ Mối liên hệ giữa các mặt đối lập.
+ Mối liên hệ giữa các hình thức tồn tại: quá khứ - hiện tại - tương lai.
3. Đường lối đổi mới toàn diện ở Việt Nam.
a. Thực trạng kinh tế Việt Nam trước Đại hội VI của Đảng và yêu cầu
đổi mới.
6


TiÓu luËn triÕt häc
Để thấu hiểu triệt để nguyên tắc toàn diện, chúng ta cần tìm hiểu xuất
phát điển hình kinh tế nước ta bắt đầu đổi mới. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua gia đoạn tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế trước đó là kinh tế nông nghiệp
vô cùng lạc hậu, hơn nữa lại chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, chúng ta
thiếu một cái “cốt vật chất ” để tiến hành xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói nền kinh tế Việt Nam từ trước năm 1975 cho đến năm 1985 đã trải
qua nhiều thăng trầm và xáo trộn dữ dội, đất nước từng bị chia cắt, kinh tế bị
tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Hậu quả là sau những năm giải phóng, bức
tranh chung của kinh tế Việt Nam 10 năm trước khi đổi mới là tăng trưởng thấp
dưới 3,7%và chủ yếu là khắc phục hậu quả sau chiến tranh. Thực tế chúng ta
làm không đủ ăn, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 USD, đặc biệt là
những sai lầm trong cải cách giá cả, tiền lương cùng đợt đổi tiền cuối năm 1985
đã đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, siêu lạm phát 774,7%
kéo theo giá cả leo thang, vô phương kiểm soát. Trong khi đó thì tình hình các
nước hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng. Năm 1986, Liên Xô cũng đã tiến hành cải cách. Lúc này tổng thống
Nguyễn Gia Linh phải lên tiếng “Đổi mới hay là chết”. Đảng ta đã nhận thức
được vấn đề, chúng ta không thể chậm trễ hơn được nữa. Việc cải cách toàn bộ
nền kinh tế đã từng bước đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng và
phát triển.
b. Công cuộc đổi mới ở nước ta và thành tựu đạt được.

* Về kinh tế.
Đại hội lần VI của Đảng cộng sản Việt Nam là cột mốc đánh dấu sự đổi
mới mạnh mẽ trong nền kinh tế Việt Nam, công cuộc cải cách diễn ra nhanh
chóng đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Việt Nam. Đảng ta xác định đổi mới cơ
chế kinh tế là một tất yếu khách quan, hoàn toàn đúng đắn, việc “Xây dựng kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng
cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ” [văn
kiện đại hội VII] Đảng ta coi kinh tế thị trường chỉ là phương thức phát triển
7


TiÓu luËn triÕt häc
kinh tế để thực hiện mục đích xây dựng xã hội chủ nghĩa vì dân giàu nước
mạnh, một xã hội của dân, do dân, vì dân.
Vì sao Đảng và nhà nước ta lại chủ trương chuyển kinh tế nước ta sang
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng phải có sự quản lý
của Nhà nước. Chúng ta đã biết rằng “cơ chế thị trường không phải là hiện
thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật đặc biệt về mặt xã hội ”
[chủ biên PTS. Trần Sĩ Lộc - Giáo trình Kinh tế -Chính trị - NXB Giáo dục,
1998, trang 151]. Với mục đích hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp là lợi
nhuận tối đa. Vì vậy không chăm lo đến đời sống người lao động, gây ô nhiễm
môi trường sống mà xã hội sống mà xã hội phải gánh chịu. Do đó hiệu quả kinh
tế xã hội không được bảo đảm, sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự
phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Tác động đến đạo đức, tình cảm con người,
hơn nữa sự phát triển của kinh tế thị trường đã dẫn đến sự chệch hướng XHCN.
Trái ngược hoàn toàn với mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội với ước muốn
ngàn đời của nhân dân ta là được giải phóng mình, được sống trong một xã hội,
xã hội chủ nghĩa, xã hội của tự do dân chủ: “Một nền kinh tế do cơ chế thị
trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng có tính chu kỳ”
[chủ biên: PTS. Trần Sỹ Lộc - Giáo trình “Kinh tế chính trị” - NXB giáo dục,

trang 152]. Cùng với đó lạm phát, thất nghiệp đẩy các doanh nghiệp đến bờ vực
phá sản người lao động cơ cực. Do đó trong thời kỳ hiện nay, chúng ta xây
dựng kinh tế thị trường không thể thiếu sự điều tiêt của nhà nước đồn thời phải
thực hiện theo định hướng XHCN để biến quá trình phát triển cơ chế thị trường
là “quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại, trong xã hội
nhân dân, nhân ái, có văn hoá, có kỹ năng, xoá bỏ áp bức bất công. Tạo điều
kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” [văn kiện đại hội
VIII chiến lược phát triển và kinh tế xã hội đến năm 2000 - NXB sự thật - Hà
Nội 1996 trang 8].
Quá trình thực hiện xây dựng kinh tế thị trường của Việt Nam trong giai
đoạn (1996-1999) đây là thời kỳ chúng ta đưa ra quyết định quan trọng: xây
8


TiÓu luËn triÕt häc
dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần: chúng ta đã có những chính sách,
quyết định đúng đắn đưa nền kinh tế đưa nên khắc phục hậu quả do những
quyết định sai lầm cũ để lại. Nhưng phải thực sự đến giai đoạn sau từ 1991 đến
nay, giai đoạn này chúng tư thực sự bước sang kinh tế thị trường và mở cửa.
Đây là thời kỳ chúng ta chứng kiến nhiều thành công kỳ diệu, chứng kiến sự
lãnh đạo tài tình của Đảng: chúng ta đã có những bước đi phù hợp, tự do hoá
giá cả, với công cụ tài chính, tiền tệ chúng ta đã đẩylùi và kiểm soát được nạn
lạm phát từ khoảng 400% vào năm 1998 xuống Việt Nam thuộc vào loại năng
động nhất trên thế giới, trung bình cả giai đoạn là 7,5% trong giai đoạn (1986 1990 ) chỉ là 3,9%. Thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
(1991 -2000) đã đạt được thành tựu tolớn và rất quan trọng: “tổng sản phẩm
trong nước năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với năm 1990” [báo cáo chính trị tại
đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam, tháng 4/2000] chúng ta đã xoá bỏ
được cơ chế bao cấp sang xây dựng được kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, từ chỗ chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể sang nền kinh tế nhiều thành phần. Đời sống nhân dân được cải tạo đáng kể,

đất nước ra khỏi khủng hoảng, sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lơn hơn
nhiều so với 10 năm trước. Nhưng không vì mải mê với thắng lợi mà chúng ta
không nhìn thấy những yếu kém những hạn chế của mình, mà nếu không sửa
chữa kịp thời sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường sau này.
* Về chính trị.
Thực hiện cải cách và phương thức hoạt động của nhà nước. Kiện toàn tổ
chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp. Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức trong sạch, có năng lực. Hiện nay, nạn tham nhũng diễn ra rất nghiêm
trọng, kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống
còn của chế độ ta. Chúng ta phải tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy

9


TiÓu luËn triÕt häc
mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ
thống chính trị, ở các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. Trước hết phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn
luyện đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân. Tiếp tục đổi mới công tác
cán bộ, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở hạ tầng, kiện toàn tổ chức đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng. Tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng
* Về xã hội:
Cùng vớ sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương giải quyết
tốt các vấn đề xã hội coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt
của chế độ ta. Các văn kiện đã nêu lên nhiều biện pháp nhằm giải quyết các vấn
đề xã hội: tạo thêm nhiều việc làm mới, mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và

an ninh xã hội, cải cách cơ bản chế độ tiền lương, đẩy mạnh các chương trình
xoá đói giảm nghèo, đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tội phạm. giữ gìn trật tự
kỷ cương xã hội, ngăn chặn và chống bài trừ các tệ nạn xã hội, xây dựng lối
sống văn minh lành mạnh chính vì thế xã hội nước ta từng bước ổn định và
phát triển, đời sống nhân dân không ngừng nâng cao.
* Các lĩnh vực khác
Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tăng cường quốc phòng và an ninh: bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ bảo vệ an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội và
nền văn hoá.
Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thực
hiện nhất quán đường lối đổi mới ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
10


TiÓu luËn triÕt häc
hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
c. Những hạn chế và tồn tại, những bài học kinh nghiệm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh tranh chấp,
một số vấn đề văn hoá, xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ
chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển tình
trạng tham nhũng, suy thoái một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất
nghiêm trọng, công cuộc cải cách tuy thành công nhưng còn nhiều hạn chế cần
khắc phục. Đặc biệt là sự thiếu đồng bộ và chỉ thực hiện trên chiều rộng mà

không triệt để tiến hành cải cách về kinh tế không đi đôi với cải cách về thể chế
chính trị vốn có nhiều khuyết tật, và đồng thời với nó là cải cách về mặt văn hoá
xã hội. Khi cuộc cải cách kinh tế được triển khai toàn diện và ngày càng đi sâu
nó sẽ đặt ra yêu cầu bức thiết phải cải cách thể chế chính trị như Đặng Tiểu
Bình - Kiến trúc sư trưởng và tổng công trình sư trưởng của kinh tế Trung Quốc
đã nêu ra: “cải cách thể chế chính trị và cải cách thể chế kinh tế phải dựa vào
nhau. Không cải cách thể chế chính trị, cải cách kinh tế sẽ không thành công”
có như vậy mới thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đồng thời, đất nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức bốn nguy cơ lớn
mà Đảng ta đã chỉ ra – tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nạn tham nhũng và tệ quan
liêu “ diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và
diễn ra hết sức phức tạp. đan xen, tác động lẫn nhau không thể xem nguy cơ
nào.
15 năm đổi mới (1986 - 2000) đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý
báu – những bài học đổi mới do các Đại hộiVI, VII, VIII. Của Đảng nêu lên đến
nay vẫn còn có giá trị lớn nhất là những bài học chủ yếu sau đây: Một là trong
quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là đổi mới
11


TiÓu luËn triÕt häc
phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn
sáng tạo. Ba là đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới.
c, Phương hướng phát triển cho tương lai.
Đại hội IX của Đảng đã kết thúc tốt đẹp, nhiều đường lối chính sách mới
được đề ra, Đảng đã nhận thức được hạn chế yếu kém của mình và đang có biện

pháp khắc phục. Đảng đề ra phương hướng cho giai đoạn sau: “Đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2000 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và
công nghệ kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng,an ninh. được tăng
cường: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành
về cơ bản. vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”[ văn kiện đại
hộiđại biểu toàn quốc lần thứ IX – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 2001 –
trang 24]. Hy vọng những năm tới đây đất nước ta bước vào thời kỳ mới, thời
kỳ phát triển và thịnh vượng.

12


TiÓu luËn triÕt häc
PHẦN III. KẾT LUẬN
Sau hơn một thập kỷ đổi mới và phát triển chúng ta đã vượt quá nhiều
khó khăn , thử thách. Qua đó cho chúng ta bài học kinh nghiệm quý báu đổi
mới xây dựng kinh tế thị trường không tách rời “định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự quản lý của nhà nước ” có như vậy chính trị mới ổn định kinh tế nới phát
triển, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mới không bị chệch hướng. Đồng
thời muốn cải cách đồng bộ triệt để, cải cách kinh tế phải đi đôi với cải cách
chính trị, đổi mới về tư duy nhận thức, đề cao tinh thần dân tộc. Bản sắc văn
hoá riêng có của ta, giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở toàn
diện của chủ nghĩa Mác- Lênin: không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, công
tác tư tưởng lý luận phải theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu mới
nhanh chóng, liên tục. Yêu cầu sự lãnh đạo của Đảng hiệu lực quản lý, điều
hành của Nhà nước trong thời kỳ mới cần có sự phân công rõ ràng không bao
bao biện, không làm thay nhau cần sử lý tốt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và
dân, tạo sự tin tưởng tuyệt đối của dân và Đảng. Gia đoạn hiện nay chúng ta cần

có một hệ thông pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất tạo điều kiện thông thoáng
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
Hiện nay hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã sụp đổ bởi vận dụng
mô hình kinh tế không phù hợp: Mô hình kinh tế bao cấp, thế nhưng Việt Nam
chúng ta đã đứng vững qua cơn bão táp của thời kỳ trước, hiện nay chúng ta tự
dò tìm cho mình một con đường đi trong bao nhiêu khó khăn và thử thách. Qua
những thành công bước đầu của 25 năm đổimới, chúng ta có thể khẳng định
việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là một quyết định sáng suốt, mang
tính sáng tạo của Đảng. Chúng ta có thể tự hào mà nói với thế giới rằng: quá
trình đổi mới vì chủ nghĩa xã hội cũng là quá trình biến những quan niệm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đã từng bước thành hiện thực. Thành
tựu nổi bật trong những năm đổi mới vừa qua không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh
tế xã hội mà còn tạo niềm tin vào con đường đổi mới góp phần ổn định về chính
trị - xã hội của đất nước, đồng thời cảnh giác với mọi âm mưu “diễn biến hoà
13


TiÓu luËn triÕt häc
bình” của các thế lực phản động, tiếp tục đưa đất nước phát triển lên chủ nghĩa
xã hội - con đường đi đến dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn
minh và tiến bộ.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Triết học Mác - Lênin ” tập II.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội 1999.
2. Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” tập I.
Nhà xuất bản giáo dục - 1999.
3. Giáo trình “kinh tế chính trị Mác - Lênin”. Tập II.
Nhà xuất bản giáo dục 1999.
4. Tạp chí cộng sản số 18,19 năm 1998.

14


TiÓu luËn triÕt häc
5. Tạp chí triết học số 3 tháng 6 năm 1998.
6. Tạp chí kinh tế phát triển số 92,99 năm 1998.
7. Các văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX.
8. Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng .

15


TiÓu luËn triÕt häc

MỤC LỤC
Trang
PhầnI. Đặt vấn đề
Phần II. Giải quyết vấn đề
1. Quan điểm toàn diện và cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
2. Nguyên tắc toàn diện trong quản lý kinh tế
3. Đường Lối đổi mới toàn diện ở Việt Nam
Phần III. Kết luận
Tài liệu tham khảo

16

1
3
3
4

7
14



×