Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cho đến nay, xây dựng lối sống mới trở thành một trong những mục tiêu
của xây dựng xã hội mới ở nước ta. Trước bối cảnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế thế giới, mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, những tác động tích cực rất
nhiều, nhưng đã bộc lộ những mặt trái của nó, trong đó có ảnh hưởng tiêu cực đến
tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta, nhất là đối với lối sống của thanh
niên. Bởi thanh niên là lớp người có phản ứng nhanh, nhạy bén với cái lạ, cái
mới. Những năm gần đây, một bộ phận thanh niên có nhiều biểu hiện nghiêng về
tự do cá nhân, bất chấp lợi ích công đồng. Xét về triết lý sống, bởi họ thiếu nhân
sinh quan đúng đắn trong giải quyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Thanh niên là lực lượng rường cột của nước nhà, góp phần tạo nên cục
diện mới cho đất nước. Vấn đề thanh niên và lối sống thanh niên luôn có tầm
quan trọng đặc biệt trong mỗi thời đại. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
tư, khoá VII của Đảng đã chỉ rõ: “Sự nghiệp đổi mới có thành hay không, đất
nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
không, cách mạng Việt Nam có vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa hay
không phần lớn phụ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn
luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là
một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [5, tr. 82]. Để
thanh niên xứng đáng và phát huy vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần xây dựng lối sống mới cho đối tượng này.
Hiện nay các lực lượng chống phá chủ nghĩa xã hội đang tiến hành chiến
lược “Diễn biến hoà bình”, nhắm trọng tâm vào chuyển biến các thế hệ thanh
niên, làm chuyển đổi hệ giá trị tư tưởng, nhân sinh quan của thanh niên. Đây là
chiến lược được chủ nghĩa đế quốc xác định là lâu dài, có thể 20 năm, 30 năm
hoặc lâu hơn nữa để chuyển hoá các nước xã hội chủ nghĩa theo hướng tự do tư
bản chủ nghĩa. Do vậy, xây dựng lối sống mới cho thanh niên không những là yêu
cầu khách quan của xã hội mà còn để chúng ta phòng chống chiến lược “Diễn
biến hoà bình”.
Thanh niên Việt Nam đang hướng tới những hệ giá trị mới mang tính
toàn cầu, đồng thời mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Họ đang cần định hướng
- 1 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
các giá trị để xây dựng nhân sinh quan mới, từ đó làm cơ sở xây dựng lối sống
mới – đó là nhân sinh quan cách mạng của triết học Mácxít. Trong đó quan điểm
rất quan trọng là “Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội”. Hiểu đúng
mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội cho chúng ta thế giới quan, nhân
sinh quan cách mạng để xây dựng những nội dung mới làm chuẩn mực xây dựng
lối sống mới.
Trong quá trình xây dựng lối sống mới này, tổ chức Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức của thanh niên, có vai trò quan trọng đối với
công tác này. Cho nên, việc xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM là một
vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách.
Bản thân tôi trưởng thành phần lớn nhờ sự giáo dục của Đoàn TNCS
HCM ở tỉnh An Giang, với ước mong Đoàn TNCS HCM được phát triển là một
niềm hạnh phúc to lớn của tôi. Hơn nữa, cuộc sống sau này của tôi gắn bó lâu dài
với nghề dạy học Giáo dục công dân, đem lại những giá trị mới cho lối sống mới
của lớp thanh niên học trò của mình. Từ những điều đó, tôi quyết định chọn đề tài
khoá luận tốt nghiệp của mình là “Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo triết
học Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng lối sống mới của Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh tỉnh An Giang từ năm 2002 đến nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội theo quan
điểm triết học Mác – Lênin với tư cách là thế giới quan, nhân sinh
quan cách mạng, là cơ sở lý luận cho lối sống mới của người
thanh niên hiện nay.
- Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội trong thực tiễn xây dựng lối sống mới
của tổ chức Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang.
- Góp vào thực tiễn những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa hiệu
quả xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang
trong những năm sắp tới.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội.
- Những chuẩn mực của lối sống mới được Đoàn TNCS HCM tỉnh
An Giang hướng tới để xây dựng.
- 2 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
- Những phong trào hành động thiết thực trong thực tiễn xây dựng
lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang từ năm 2002
đến nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo quan điểm triết học Mác –
Lênin.
3.2 Khóa luận nghiên cứu những chuẩn mực thuộc nội dung xây dựng
lối sống mới chủ yếu ở góc cạnh thể hiện quan hệ giữa cá nhân trong quan hệ với
xã hội, tổng hợp các quan hệ ứng xử của cá nhân trong xã hội.
3.3 Chương trình hành động và hiệu quả xây dựng lối sống mới của
Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang từ năm 2002 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng các nguyên tắc của logíc biện chứng như: nguyên tắc toàn
diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thực tiễn…để xem xét giải quyết vấn
đề trên cơ sở các tài liệu khoa học và thông tin mới nhất.
5. Đóng góp của khóa luận
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần:
5.1 Làm rõ vai trò thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng đối với
việc định hướng hệ giá trị mới nhằm xây dựng lối sống mới.
5.2 Nắm được thực trạng và nêu lên một số giải pháp đóng góp cho tổ
chức Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang để công tác xây dựng lối sống mới cho
thanh niên đạt hiệu quả hơn nữa.
6. Dàn ý của khóa luận
Khóa luận bao gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục và phần nội dung khóa luận gồm hai chương:
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ QUAN HỆ
GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI – MỘT CƠ SỞ LÝ LUẬN
ĐÚNG ĐẮN CỦA LỐI SỐNG MỚI
1.1 Khái niệm lối sống
1.2 Những quan điểm khác nhau về quan hệ giữa cá nhân và xã hội
1.2.1 Những quan điểm triết học trước Mác
1.2.2 Những quan điểm của triết học phương Tây hiện đại
- 3 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
1.3 Quan điểm của triết học Mác – Lênin về quan hệ giữa cá nhân và
xã hội
1.3.1 Khái niệm cá nhân
1.3.2 Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
1.4 Nội dung xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang
1.4.1 Lối sống mới kết tinh từ lối sống truyền thống của người Việt
Nam
1.4.2 Lối sống mới dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương năm Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam
1.4.3 Lối sống mới phù hợp với mục tiêu, phương hướng của Nghị
quyết Đoàn TNCS HCM từ năm 2002 đến nay
CHƯƠNG 2
THỰC TIỂN XÂY DỰNG LỐI SỐNG MỚI CỦA ĐOÀN THANH
NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH AN GIANG
TỪ NĂM 2002 ĐẾN NAY
2.1 Thực tiễn xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang từ năm 2002 đến 2007
2.1.1 Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
2.1.2 Những chương trình hành động của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang
2.1.3 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
2.2 Thực tiễn xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang từ năm 2007 đến nay
2.2.1 Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
2.2.2 Những chương trình hành động của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang
2.2.3 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
2.3 Giải pháp thực hiện việc xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS
HCM tỉnh An Giang
- 4 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ QUAN HỆ
GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI – MỘT CƠ SỞ LÝ LUẬN
ĐÚNG ĐẮN CỦA LỐI SỐNG MỚI
1.1 KHÁI NIỆM LỐI SỐNG
Khi giải thích phạm trù lối sống, các nhà xã hội học Mácxít thường nhắc
đến luận điểm nổi tiếng trong “Hệ tư tưởng Đức” của C.Mác và Ph.Ăngghen nói
về mối quan hệ giữa phương thức sản xuất và lối sống. Trong tác phẩm đó,
C.Mác đã khẳng định, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của cá nhân và
phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con người, là phương
thức sinh sống cơ bản của con người, là mặt cơ bản của lối sống.
Theo quan điểm của triết học Mácxit, lối sống là tổng hợp các hoạt động
sống của con người chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. Tuy nhiên, lối
sống không phải là sản phẩm thụ động của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và những điều kiện sống khác. Ngoài những hoạt động vật chất, con người còn có
các hoạt động chính trị, xã hội, nghệ thuật…
Lối sống phản ánh các hoạt động sống của chủ thể bao gồm: nhận thức,
tình cảm, động cơ, hành vi, ứng xử…và cả những mối liên hệ giữa chúng. C.Mác
cho rằng, ở những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sẽ có lối sống khác nhau.
Đặc biệt, trong những hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp, lối sống mang tính
giai cấp.
Ở Việt Nam, “lối sống” là một danh từ ghép. Lối là lề lối, thể thức, kiểu
cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật của con
người và xã hội. Hiện nay, khái niệm lối sống được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau: triết học, xã hội học, tâm lý học…
- 5 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề lối sống được Đảng Cộng sản Việt Nam
quan tâm sâu sắc như hiện nay. Tháng 7 năm 2004, Hội nghị lần thứ mười, Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX họp để tổng kết, đánh
giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết năm, khóa VIII, Đảng ta đã 17 lần đề
cập khái niệm lối sống. Trong các Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam,
khái niệm “lối sống” được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội Đảng Toàn
quốc lần thứ IV, các Đại hội sau đó, Đảng ta đều đề cập vấn đề lối sống, quan tâm
sâu sắc đến vấn đề lối sống.
Hiện nay, vấn đề lối sống được nhiều nhà nghiên cứu ở nước ta quan tâm
nhiều hơn và nghiên cứu sâu hơn.
Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lối sống, GS.
Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam, xã hội và con người” đã quan
niệm lối sống theo nghĩa rất rộng:
Lối sống là phạm trù khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai
cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động
và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và
văn hóa [25, tr. 514].
Xét lối sống gắn liền với hoạt động của con người trong một hình thái kinh
tế - xã hội, GS. Thanh Lê quan niệm: “Lối sống là một hệ thống những nét căn
bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội, các cá
nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [27, tr.
24].
Ở góc độ xem xét tổng hòa các mặt cơ bản, khắc họa những đặc điểm cá
nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS.Nguyễn Văn Huyên cho rằng:
Lối sống là tổ hợp toàn bộ các mô hình, cách thức và phong thái sống của
con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản
xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con
người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tiện
và mục đích sống [ 24, tr. 29].
GS.TS. Đỗ Huy khẳng định: “Lối sống là tổng hòa những dạng hoạt động
sống điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định” [23,
tr. 353].
Như vậy, điểm giống nhau cơ bản của các tác giả khi định nghĩa về lối
sống là ở chỗ cho rằng, lối sống bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống cơ
- 6 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
bản của con người như: lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội – chính trị, giải
trí…
Có thể nêu khái quát một số đặc điểm cơ bản của lối sống sau đây:
Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hòa các hoạt động sống ổn định
của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân trong
cộng đồng. Vì vậy, có thể phân loại lối sống theo ba cấp độ: lối sống của dân tộc
(hay quốc gia), lối sống của giai cấp (hay nhóm xã hội), lối sống của cá nhân.
Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều
kiện sống của con người.
Thứ ba, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống là
hoạt động lao động sản xuất, bởi nó là hoạt động có tính chất nền tảng, có tính
người trong việc sáng tạo các giá trị vật chất cũng như các giá trị tinh thần.
Thứ tư, lối sống cá nhân và lối sống cộng đồng được thể hiện là sự tổng
hợp các khuôn mẫu ứng xử được vận hành theo một hệ giá trị xã hội, với những
thể chế nhất định.
Thứ năm, theo khuynh hướng phát triển của thế giới, lối sống có tính văn
hóa, bởi vì trong các hoạt động xã hội, các quan hệ xã hội, thể chế xã hội, các
khuôn mẫu ứng xử…lối sống có ý nghĩa văn hóa, nó hướng đến cái chân - thiện -
mỹ.
Lối sống được xây dựng trên cơ sở một hệ giá trị xã hội, hướng tới chân -
thiện - mỹ. Hệ giá trị xã hội được hình thành và phát triển có nguồn gốc từ đời
sống vật chất của xã hội, nhưng đồng thời hệ giá trị xã hội cũng được định hướng
bởi các quan điểm triết học, vì triết học có vai trò thế giới quan và phương pháp
luận cho con người trong nhận thức và hành động.
Do vậy, quan điểm triết học về “Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội” trở
thành thế giới quan và nhân sinh quan cho con người xác định lối sống của mình
trong quan hệ với người khác và xã hội.
Thực tiễn cho thấy, con người bị chi phối một cách tự phát hoặc tự giác
bởi nhiều quan điểm triết học khác nhau trong quá trình hình thành lối sống.
Quan điểm duy vật biện chứng về thế giới và về xã hội đem lại cho con
người thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn trong quá trình nhận thức và
giải quyết các mối quan hệ, giúp con người đạt được những thành quả tích cực
trong thực tiễn, giúp họ tránh được những sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, siêu
hình, của chủ quan duy ý chí…Từ thế giới quan và nhân sinh quan đó định hướng
đúng đắn việc lựa chọn các hệ chuẩn mực giá trị phù hợp đưa vào nhân sinh quan
- 7 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
và lý tưởng của cuộc đời. Hệ chuẩn mực xã hội được cá nhân thừa nhận và trở
thành tư tưởng đúng đắn chỉ đạo mọi hoạt động của lối sống.
Có thể nói, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một loại quan hệ xã hội một
khi được con người nhận thức đúng đắn sẽ trở thành nhân sinh quan đúng đắn
trong quá trình xây dựng lối sống. Với thế giới quan và phương pháp luận đúng
đắn, các tổ chức xã hội lấy đó làm một cơ sở lý luận cho tư tưởng xã hội và xây
dựng những thể chế xã hội, ở đó lối sống con người được hình thành.
1.2 NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ QUAN HỆ GIỮA CÁ
NHÂN VÀ XÃ HỘI
1.2.1 Những quan điểm triết học trước Mác
Vấn đề quan hệ giữa cá nhân và xã hội từ lâu vẫn tồn tại như một câu đố
lịch sử. Trước C.Mác, có rất nhiều câu trả lời nhưng nhìn chung các đáp án đều
có xu hướng tuyệt đối hóa một mặt nào đó: hoặc thủ tiêu cá nhân hoặc quá đề cao
cá nhân.
Khi bàn về tự do cá nhân, tựu trung có hai khuynh hướng chính: chủ nghĩa
duy tâm thần bí dưới mọi hình thức quan niệm rằng tự do cac nhân là tự do tuân
thủ mệnh lệnh siêu nhiên, tự do là tự do tinh thần, tự do duy ý chí, tự do là trạng
thái nội tâm của cá thể tách biệt mọi quan hệ hiện thực…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật thừa nhận tự do cá nhân
có thực ở trần gian. Con người có được tự do khi thoát khỏi niềm tin thần thánh.
Tự do gắn liền với dân chủ và bình đẳng xã hội. Đây là những quan điểm tiến bộ.
Tuy nhiên, chưa ai xác định đúng đắn con đường khắc phục tôn giáo và xây dựng
xã hội bình đẳng. Nhìn chung do những hạn chế về lịch sử, văn hóa, khoa học và
hạn chế về lập trường, giai cấp của triết gia nên vấn đề tự do cá nhân chưa được
phản ánh đúng đắn. Nguyên nhân của những sai lầm đó được C.Mác chỉ ra như
sau:
Một là, chưa giải quyết đúng đắn vấn đề bản chất con người, mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, con người là sản phẩm của
thượng đế với một số phận nhất định. Con người là con người tôn giáo và thế
giới được thần thánh hóa. C.Mác viết: “…Con người chính trị, con người pháp
luật và con người đạo đức, xét cho cùng là “con người” thì được coi là con người
tôn giáo” [34, tr. 265]. Ngay cả đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời kỳ ấy cũng
chỉ nhìn thấy con người như một thực thể tự nhiên, là “loài”, sự gắn bó cá nhân
với nhau chỉ là sự gắn bó tự nhiên mang tính “chủng loại”. Cả với Lútvích
Phoiơbắc, con người được hiểu một cách chung chung trừu tượng với bản chất
- 8 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
tôn giáo mà tôn giáo ấy là tình yêu giữa người với người. Lútvích Phoiơbắc
không thấy quá trình lịch sử chi phối con người và Ông đã ấn cho con người cái
bản chất tôn giáo như cái gì tự thân, đồng thời coi con người như là một cá nhân
trừu tượng, cô lập. Lútvích Phoiơbắc không thấy rằng bản thân “tình cảm tôn
giáo” cũng là một sản phẩm xã hội và trên thực tế cá nhân trừu tượng mà Lútvích
Phoiơbắc phân tích cũng là một hình thức xã hội nhất định.
Hai là, không đánh giá đúng mức vai trò của hoạt động thực tiễn của con
người trong cải tạo xã hội. Chủ nghĩa duy tâm xem sự phát triển của xã hội là sự
phát triển của tự ý thức và con người tự do là con người hoàn thiện và phát triển
tự ý thức. Vì vậy mà họ tin tuởng vào sự phê phán xã hội cũ sẽ mang lại nền dân
chủ và tự do cho cá nhân. Cho nên, C.Mác chỉ ra: “Cần phải hiểu rằng đời sống
xã hội, về thực chất có tính thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đều được giải đáp
một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy”
[34, tr. 258].
Ba là, trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội quá đề cao vai trò lý trí
trong quá trình phát triển của tự do cá nhân. Vì vậy, ngay cả các nhà xã hội chủ
nghĩa không tưởng cũng phải nhờ đến lý trí để đặt nền móng cho xã hội tương lai.
Trong khi vạch ra những hạn chế khách quan của chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII, XVIII và của chủ nghĩa xã hội không tưởng, Mác – Ăngghen đã kế thừa,
chọn lọc chúng và luận giải mối quan hệ cá nhân và xã hội trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử.
1.2.2 Những quan điểm của triết học phương Tây hiện đại
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nói nhiều đến cá nhân, cá tính, tự do
cá nhân…thực chất là nói đến cá nhân của giai cấp tư sản. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ, trong lao động làm thuê người vô sản mất hết cá tính. Lợi ích của giai
cấp công nhân và lợi ích cá nhân người công nhân. Các thành viên của giai cấp tư
sản thống trị, là những con người có đặc quyền, đặc lợi được khẳng định với tư
cách cá nhân và trở thành kiểu cá nhân đặc trưng của thời đại.
Triết học tư sản hiện đại có rất nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội. Họ đề cập rất nhiều về tự do cá nhân trong quan hệ với xã
hội. Nổi lên có những quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa thực dụng.
Chủ nghĩa hiện sinh nêu nhiều luận giải về tự do cá nhân và chỉ ra những con
đường để thực hiện tự do cá nhân đó. Có thể thấy có hai khuynh hướng hiện sinh
chủ đạo:
Theo chủ nghĩa hiện sinh, tôn giáo trong quan hệ với xã hội, con người
đánh mất cái tôi “tha nhân chính là sự tranh chấp, người “giẫm chân” lên cái tôi
- 9 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
chủ thể. Cho nên, chính “tha nhân là địa ngục”. Chủ nghĩa hiện sinh coi tha hóa là
một hiện tượng vĩnh cửu, nó thuộc bản chất của con người. Bởi vì, tha hóa bắt
nguồn từ cuộc sống có những tương quan hiện sinh giữa tôi và tha nhân. Tất cả
mọi cái mà con người tiếp xúc trong cái “hiện thực phi lý” của cuộc đời, tức tha
nhân đều đã làm cho con người tha hóa bằng cách chiếm đoạt tự do đích thực của
nó. Mất tự do, con người không phải là mình nữa. Chủ nghĩa hiện sinh giải thích
nguyên nhân làm con người mất tự do và con người đã xa lìa chúa con người trở
thành tội lỗi. Do vậy, họ chủ trương để chấm dứt tội lỗi (tức sự tha hóa) tín hữu
phải quay về chúa”.
Một trường phái khác chủ nghĩa hiện sinh gọi là chủ nghĩa hiện sinh vô
thần phản đối và phủ nhận sự tồn tại phổ biến của những nguyên tắc đạo đức. Họ
cho rằng, tự do là bản chất của sự hiện sinh của cá nhân con người, nó không
phục tùng thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào, cũng không chịu sự ràng buộc
của bất cứ tính tất yếu khách quan nào, nó là tuyệt đối. Giá trị hiện sinh của cá
nhân được thể hiện trong sự lựa chọn tự do của cá nhân. Chủ nghĩa hiện sinh còn
đặt tự do của cá nhân không bị gò bó bởi người khác và bởi bất kỳ lực lượng xã
hội nào.
Chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt đối, cho rằng chỉ có
cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh của
cá nhân, hơn nữa là phương thức hiện sinh không chân thực. Bởi vì cá nhân bị
mất cá tính do bị ràng buộc với người khác và với xã hội, cá nhân bị tập thể, xã
hội và người khác lấn át. Xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người.
Để khôi phục sự hiện sinh chân chính của mình, con người cần thoát khỏi sự ràng
buộc của những người khác và của xã hội. Động lực phát triển của lịch sử tất
nhiên cũng không nằm trong bản thân xã hội mà là do sự hiện sinh của cá nhân
quyết định. Do đó cần tìm tiến trình và đặc điểm của lịch sử ở thế giới bên trong
cá nhân con người: “Lịch sử chẳng qua chỉ là sự biểu hiện ra ngoài của tồn tại của
con người, mà sự tồn tại của con người là không thể biết được. Cho nên, đối với
con người thì lịch sử xã hội mãi mãi chỉ là một vùng đen tối. Lịch sử xã hội đã
không thể biết thì đứng trước xã hội con người tất nhiên cảm thấy yếu đuối, bất
lực” [22, tr. 645].
Lịch sử loài người chỉ là một bi kịch không có kết thúc. Vậy con người
làm thế nào để thoát khỏi sức mạnh tha hóa và bi kịch của họ? Chủ nghĩa hiện
sinh nhận định rằng “Không thể dựa vào khoa học và lý tính hay bất cứ cái gì
khác mà chỉ có thể tự cứu mình bằng những hành động tự phát, mạo hiểm hoặc
- 10 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
chờ mong sự giải thoát ở các lực lượng tôn giáo thần bí. Đó là con đường bế tắc
mà chủ nghĩa hiện sinh chỉ ra cho con người” [22, tr. 645].
Chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ánh của con người trước tình trạng bất ổn
về xã hội trong thời kỳ khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa tư bản như lo sợ
chiến tranh, không tin vào khoa học, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng…Vì thế nó
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành lối sống của xã hội phương Tây, nhất là
ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Quan điểm về tự do của chủ nghĩa hiện
sinh là quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Một thời kỳ chủ nghĩa hiện
sinh đã ảnh hưởng xấu đến một bộ phận thanh niên miền Nam sống trong chế độ
cũ. Nhưng nay trong quá trình giao lưu với thế giới, tư tưởng của chủ nghĩa hiện
sinh càng ảnh hưởng đến một bộ phận thanh niên muốn được tự do tuyệt đối,
phản kháng lại những yêu cầu và trật tự xã hội.
Cùng với chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực chứng đề cao hiệu quả thực
tế, hiệu quả cảm tính của con người. Các nhà thực dụng cho rằng, trong mối quan
hệ với hoàn cảnh xã hội, con người lấy lợi ích thực tế làm tiêu chuẩn của chân lý.
Không có chân lý khách quan, chân lý phụ thuộc vào lợi ích thực tế của đời sống
dựa trên cảm nhận của cá nhân. Một số cá nhân đã lợi dụng lý luận về chân lý của
chủ nghĩa thực dụng để biện hộ cho mục đích vụ lợi tầm thường, nhằm thỏa mãn
nhu cầu cá nhân của mình.
Do vậy, khi lợi ích cá nhân phù hợp với lơi ích xã hội thì hành động của
con người đem lại giá trị chân thực. Ngược lại, khi lợi ích cá nhân mâu thuẫn với
lợi ích xã hội thì hành động của cá nhân trở thành điều ác. Từ đó lối sống thực
dụng có đặc trưng là chạy theo lợi ích cụ thể của đời thường trên các lĩnh vực.
Những lợi ích, giá trị thuộc về lý tưởng, niềm tin, hoài bão ít được chú ý. Một bộ
phận của chủ nghĩa thực dụng cho rằng tôn giáo là lợi ích thiêng liêng.
Qua đó có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa thực dụng lấy hiệu quả thực tế
của đời sống làm nguyên tắc bền vững để thỏa mãn nhu cầu của con người dựa
trên phương châm sống của con người.
1.3 QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ QUAN HỆ
GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt
trong các học thuyết về xã hội. Các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác – Lênin
đã đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện, sâu sắc có hệ thống trên cơ sở của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. C.Mác đã đúc kết lịch sử và tìm ra lời giải đáp đúng
đắn cho mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
1.3.1 Khái niệm cá nhân
- 11 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
Triết học Mác – Lênin đã chỉ ra rằng: con người là sự thống nhất biện
chứng giữa mặt sinh học với mặt xã hội. C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [31, tr. 11]. Bản chất
xã hội của con người đó không thể hiện một cách chung chung mà biểu hiện cụ
thể trong từng cá nhân. Nói một cách khác con người tồn tại thông qua mỗi cá
nhân.
Với tư cách là một thực thể sinh học, mỗi cá nhân là cá thể người mang
đặc điểm chung của giống loài “người”, nhưng lại khác nhau về cấu tạo cơ thể
riêng của mỗi người. Sự khác nhau về phương diện sinh học ấy chủ yếu bị chi
phối bởi “bộ gen” riêng ở mỗi người. Mỗi cá nhân có một thể chất riêng, hình
dáng riêng, đặc điểm riêng về kiểu thần kinh, có sự nhạy cảm riêng đối với những
yếu tố tác động của môi trường sống…
Xét về mặt xã hội, cá nhân là một thực thể xã hội, cá nhân là cá thể người
được hình thành và phát triển trong lịch sử, là chủ thể của lao động của mọi quan
hệ xã hội và là chủ thể của nhận thức. Cá nhân là một con người hoàn chỉnh trong
sự thống nhất của những khả năng riêng có của người đó với chức năng xã hội mà
người đó thực hiện. Trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân thể hiện là một chỉnh
thể đơn nhất, độc đáo có vai trò chủ thể trong lịch sử.
Với tư cách là một thực thể có tâm lý, ý thức, mỗi cá nhân có một bản sắc
độc đáo riêng. Bản sắc độc đáo ấy thể hiện qua “nhân cách” của cá nhân. Nhân
cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất của cá nhân tạo thành một chỉnh thể
đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt
động của mình. Nhân cách không phải là cái trời phú cho, cũng không phải là cái
bẩm sinh của cơ thể sinh học. Nhân cách được hình thành và phát triển phụ thuộc
vào các yếu tố như:
Một là, yếu tố sinh học, ở đây tư chất di truyền có ảnh hưởng đến sự hình
thành nhân cách.
Hai là, yếu tố môi trường: đây là yếu tố bên ngoài có vai trò rất quan trọng
tác động vào cá nhân như: yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, gia đình…
C.Mác viết: “Những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một phương thức
nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất định” [34, tr.
275].
Ba là, hoạt động của cá nhân: đây là yếu tố quyết định sự hình thành nhân
cách vì cá nhân quan hệ với môi trường, với hoàn cảnh không phải chỉ chịu tác
động thụ động của hoàn cảnh mà thông qua họat động tác động trở lại đối với
hoàn cảnh. Thông qua hoạt động của mình ở nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính
- 12 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
trị, văn hóa, xã hội, khoa học, mọi hoạt động ứng xử đạo đức…mỗi người hình
thành cho mình một nhân cách riêng. Mỗi cá nhân có một thế giới quan riêng bao
gồm những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, định hướng giá trị chung của cá nhân.
Thế giới quan riêng của cá nhân khi được hình thành nó trở lại chi phối hoạt động
của cá nhân.
Nói tóm lại, sự hình thành và phát triển nhân cách là sự thống nhất của ba
chiều sinh học, tâm lý và xã hội trong quá trình xác lập “cái tôi”.
Như vậy, ngoài những đặc điểm chung của “con người”, cá nhân rất khác
nhau. Xét cho cùng, sự khác nhau đó từ đâu? C.Mác chỉ ra rằng sự khác nhau ấy
là do phương thức sinh sống của họ quy định: “…Những cá nhân đúng y như
trong hiện thực, nghĩa là đúng y như họ đang hành động, sản xuất một cách vật
chất, tức là đúng y như họ đang hành động trong những giới hạn, tiền đề và điều
kiện vật chất nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ”. Đồng thời C.Mác chỉ
rõ: “Những cá nhân biểu hiện đời sống của họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với
sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách mà họ sản xuất. Do
đó, những cá nhân là thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của
sự sản xuất của họ” [34, tr. 269].
1.3.2 Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có ý nghĩa như một luận điểm
xuất phát để luận giải những vấn đề khác của lịch sử ngay từ khi triết học Mác ra
đời.
Khái niệm xã hội được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, cao nhất là xã
hội loài người (toàn thể nhân loại), thấp hơn là những hệ thống xã hội như quốc
gia, dân tộc, giai cấp.
Vậy, xã hội là gì?
Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này
lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm
nền tảng. “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số
những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau” [33, tr. 355].
Theo C.Mác, “Xã hội – cho dù nó có hình thức gì đi nữa – là cái gì? Là sản phẩm
của sự tác động qua lại giữa những con người” [32, tr. 657].
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, trong bất cứ giai đoạn nào, cá
nhân cũng không thể tách rời khỏi xã hội. Quan hệ cá nhân – xã hội luôn vận
động, biến đổi và phát triển, trong đó sự thay đổi càng rõ khi có sự thay thế hình
thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.
- 13 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội” [31, tr. 11]. Điều đó cũng có nghĩa, trong sự tác qua lại
giữa người với người sẽ tạo ra một hệ thống các mối giao lưu và quan hệ xã hội.
Hệ thống quan hệ xã hội đó quy định cuộc sống đối với từng cá nhân. Trong toàn
bộ quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người trong sản xuất là quan hệ quyết
định xét đến cùng. Do đó, phương thức sinh sống và hoạt động của cá nhân sẽ
hình thành lối sống của họ, mà lối sống đó phụ thuộc vào phương thức sản xuất
của xã hội. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác vạch ra rằng phân công lao động xã
hội chi phối các hình thức giao tiếp của con người, vì vậy mỗi thời kỳ lịch sử có
một kiểu cá nhân với tính đặc thù của nó. Những cá nhân biểu hiện đời sống của
họ như thế nào thì họ là như thế ấy; do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với
sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách họ sản xuất. Do đó,
những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất
của sự sản xuất của họ.
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội biến đổi trong sự phát triển của lịch sử.
Điều đó không chỉ liên quan đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình
độ văn hóa, văn minh mà liên quan tới sự thay đổi của phương thức sản xuất, của
hình thái kinh tế - xã hội. Chỉ khi cách mạng làm thay đổi hình thái kinh tế - xã
hội thì quan hệ cá nhân và xã hội mới có sự thay đổi căn bản.
Trong chủ nghĩa tư bản, người công nhân gánh chịu mọi hậu quả nặng nề
của sự tha hóa. Kết quả hoạt động của con người, của công nhân ngày càng biến
thành một lực lượng thoát ra khỏi con người, xa lạ với con người, thống trị lại con
người, thù địch với con người, lực lượng đó là tư bản. Các điều kiện lao động của
người công nhân đối lập lại người công nhân. Trong những điều kiện đó, tự do
của người lao động chỉ mang tính hình thức, cá nhân con người không thể có sự
phát triển hài hòa và toàn diện. Điều kiện sống và làm việc của công nhân tồi tệ
hơn khi họ mất việc làm; khi đó người lao động càng không thể khẳng định mình
với tư cách cá nhân. Chỉ khi nào các đối kháng giai cấp trước toàn xã hội đã bị
loại bỏ, khi người lao động thực sự làm chủ các điều kiện vật chất của người lao
động, họ mới thực sự trở thành người lao động tự do. Và cá nhân người lao động,
với tư cách con người mới được khẳng định.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có những nội dung thống nhất với
quan hệ giữa cá nhân và tập thể, chúng đều dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện mối
quan hệ giữa cái bộ phận với cái toàn thể, giữa khách quan và chủ quan.
Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển của xã hội về nhiều mặt.
Mặt chủ quan biểu hiện ở năng lực nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù
- 14 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
hợp với mục đích của con người. Do vậy, việc tổ chức các hoạt động xã hội có
vai trò to lớn trong việc kết hợp giữa mặt khách quan và mặt chủ quan sao cho xã
hội được tiến bộ và mỗi cá nhân được tồn tại và phát triển nhân cách một cách hài
hòa.
Trong “Bút kí triết học”, Lênin đã chỉ rõ: “Thật ra mục đích của con người
là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề” [28,
tr. 201]. Thật vậy, toàn bộ quan hệ xã hội hàng ngày kết hợp với những đặc điểm
cá nhân tạo thành nhu cầu cá nhân (nhu cầu về vật chất và tinh thần). Những nhu
cầu đó được cá nhân ý thức trở thành lợi ích và mục đích của họ. Một trong
những lợi ích đó là được phát triển tự do và toàn diện, vì vậy nó trở thành yếu tố
quan trọng của sự lựa chọn tự do. Mặt khác những điều kiện khách quan, những
quan hệ xã hội của cá nhân cũng tạo khả năng thỏa mãn những nhu cầu đó. Khả
năng ấy được cá nhân tiếp thu chuyển hóa thành cái chủ thể và sử dụng nó như
một lực lượng riêng để đạt được mục đích riêng của họ. Trong những điều kiện
nhất định thì nhu cầu, lợi ích, mục đích riêng của cá nhân phù hợp với nhu cầu,
lợi ích và mục đích chung của xã hội. Trong quá trình thống nhất biện chứng giữa
cá nhân và xã hội, vai trò quyết định thuộc về tính chất của các quan hệ xã hội.
Tính chất của các quan hệ xã hội tạo điểu kiện cho cá nhân tiếp thu khả năng
khách quan và chuyển hóa thành khả năng chủ quan trong việc thực hiện mục
đích của mình, tạo điều kiện cho sự kết hợp giữa nhu cầu, lợi ích, mục đích của
xã hội và cá nhân hài hòa hay ngăn trở nó.
Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích
nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế,
xã hội cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội ngày càng phát triển thì cá nhân
ngày càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và
tinh thần. Vì vậy, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của
cá nhân là một trong những mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Dù ở phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, khi lợi ích cá nhân
hài hòa với lợi ích xã hội thì ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực
chung vì một tương lai tốt đẹp.
Vấn đề chăm sóc và phát triển những nhu cầu và năng lực phong phú, đa
dạng của mỗi cá nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với sự phát triển của xã hội.
Đồng thời, nhân cách mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển thì càng có điều
kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Do đó, cá nhân tác động đến xã hội tùy thuộc ở
trình độ phát triển của nhân cách. Những cá nhân có đạo đức và tài năng thường
- 15 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
đóng góp tích cực và xứng đáng vào sự nghiệp của xã hội. Những cá nhân kém
cõi về nhân cách thì tác động xấu đến xã hội, kìm hãm sự phát triển.
Một xã hội tiến bộ là một xã hội mà mỗi cá nhân phát triển nhân cách của
mình theo hướng tích cực, phát huy vai trò động lực, chủ thể sáng tạo của mỗi cá
nhân. Chủ nghĩa xã hội, vừa khắc phục chủ nghĩa cá nhân cực đoan, vừa tạo ra
những điều kiện mới cho cá nhân phát triển và sáng tạo. Tinh thần đó được Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” [4, tr. 8-9].
Cùng với quá trình phát triển của thực tiễn, con người từng bước tạo ra
thiên nhiên tươi đẹp hơn và hoàn cảnh xã hội có tính người hơn. Trong hoàn cảnh
có tính người, cá nhân từng bước bộc lộ năng lực, bản chất của mình. Vì vậy,
từng bước cá nhân được tự do. Xã hội càng tiến bộ, càng tạo điều kiện cho sự giải
phóng cá nhân với nội dung thực tế và càng thúc đẩy tự do sáng tạo của cá nhân.
Ph.Ăngghen viết: “Mỗi bước tiến của văn minh nhân loại là một bước tiến tới tự
do” [30, tr. 192]. Mức độ giải phóng của xã hội biểu hiện ở sự tự do của từng cá
nhân và sự tự do của mỗi cá nhân là điều kiện cho sự tự do của xã hội. Giải phóng
cá nhân tạo nên động lực khơi nguồn cho công cuộc giải phóng xã hội, còn giải
phóng xã hội là tạo lập môi trường cho sự giải phóng cá nhân. Giải phóng cá nhân
và sự giải phóng xã hội trong điều kiện hiện nay của nước ta đồng nghĩa với việc
thường xuyên chăm lo, nâng cao mức sống và cải thiện môi trường xã hội, từng
bước nhân đạo hóa các điều kiện lao động, ăn, ở, sinh hoạt…khắc phục sự tha hóa
và tăng cường các khả năng hướng thiện; dân chủ hóa các lĩnh vực hoạt động, văn
hóa và thẫm mỹ hóa đời sống tinh thần của con người.
Những hoàn cảnh hợp với tính người sẽ có được trong xã hội bình đẳng,
không có áp bức giai cấp. Đó là xã hội theo dự báo của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
là xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Dựa trên cơ
sở triết lý này, chúng ta xây dựng lối sống mới.
1.4 NỘI DUNG XÂY DỰNG LỐI SỐNG MỚI CỦA ĐOÀN TNCS
HCM TỈNH AN GIANG
Một trong những yêu cầu xây dựng lối sống mới là xác định nội dung lối
sống mới cho xã hội và thanh niên.
Trong những năm gần đây, những vấn đề tư tưởng và lối sống của thanh
niên được Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức quan tâm. Đảng ta luôn xác định
thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
- 16 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
vấn đề thanh niên luôn ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và
nguồn lực con người của Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thức IX tiếp tục
khẳng định: “Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề
nghiệp; giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò
xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [8, tr. 126]. Với đường
lối đó, thanh niên sẽ là lực lượng xung kích trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đồng thời đặt ra cho Đảng, Nhà nước, Đoàn TNCS HCM
và xã hội nhiệm vụ quan trọng là đào tạo, bồi dưỡng và phát huy sức sáng tạo của
thanh niên.
Lối sống của xã hội biểu hiện qua lối sống của nhiều tầng lớp, nhiều thành
phần xã hội khác. Đối với thanh niên do có những đặc điểm về tâm lý và sinh lý
của lớp người trưởng thành, nên trong khi tuân theo những chuẩn mực của lối
sống xã hội, thanh niên có những nét riêng trong lối sống mà xã hội quan tâm.
Nội dung xây dựng lối sống mới trong thanh niên hiện nay rất phong phú, nhưng
phải thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
1.4.1 Lối sống mới kết tinh từ lối sống truyền thống của người Việt
Nam
Trong lịch sử, cùng với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, lối
sống của thanh niên được hình thành và phát triển mang cốt cách và bản chất của
người Việt. Về lối sống của người Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một số
nét cơ bản như sau: “Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, thờ kính tổ tiên,
yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, yêu thương nòi
giống, tôn trọng lẽ phải, ghét xa hoa, không ham tiền tài, khinh ghét vũ lực,
không sợ gian khổ hy sinh” [35, tr. 42-43]. Xuất phát từ các nghiên cứu của các
học giả Việt Nam có thể thấy lối sống của thanh niên là sự kế thừa, kết tinh từ các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, khoan dung, cần
cù, hiếu học, thông minh, sáng tạo, nhẹ nhàng, tế nhị, kín đáo, linh hoạt, dễ thích
nghi…các giá trị văn hóa truyền thống này đã góp phần tạo nên bản sắc dân tộc
Việt Nam. Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
khẳng định:
“Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã - Tổ quốc,
- 17 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý đến tính cần cù, sáng tạo trong
lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong đời sống…” [6, tr.56].
Cơ sở bền vững của lối sống mới được kế thừa vẫn là lao động, bởi lao
động là nguồn sống, nguồn hạnh phúc chân chính, là nghĩa vụ…góp phần hoàn
thiện nhân cách cho thanh niên. Có thể nói, chỉ trong lao động, thanh niên mới
hoàn thiện nhân cách của mình, mới hình thành lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Tách
rời lao động, cướp đoạt hoặc sống bám vào lao động của người khác, con người
sẽ bị tha hóa và không còn là con người chân chính nữa. Trong tác phẩm “Biện
chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ: lao động là điều kiện cơ bản
đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý
nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người.
Do đó, tuổi trẻ nói chung cũng như mỗi thanh niên, muốn tự khẳng định
mình, xã hội xem xét và đánh giá thế hệ trẻ cũng như mỗi thanh niên cụ thể, trước
hết phải lấy lao động làm thước đo, làm bảng thang giá trị.
Cuộc sống hôm nay cũng như ngày mai của chúng ta như thế nào đều phụ
thuộc vào lao động của mỗi người quyết định. Thế hệ thanh niên Việt Nam cần
nhận thức rằng, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, hạnh phúc của mỗi người
không phải từ trên trời rơi xuống, cũng không từ dưới đất mọc lên, hoặc từ một
nơi xa lạ nào bay tới, mà do lao động của chúng ta sáng tạo nên. Chủ nghĩa cộng
sản, chủ nghĩa xã hội đến sớm hay muộn đều do lao động của chúng ta hôm nay
quyết định.
Trong tình hình đất nước ta còn gặp nhiều khó khăn, đời sống nhân dân ta
còn nghèo, Văn kiện Đại hội Toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
chỉ rõ: “Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển là thể hiện sự nhìn
nhận nghiêm túc, khách quan về tình hình đất nước hiện nay, đồng thời cổ vũ
nhân dân ta vươn lên với tinh thần tự tôn dân tộc và quyết tâm cao để đưa đất
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển…” [9, tr. 24]. Do đó, vấn đề tiêu dùng
của từng cá nhân cũng như của toàn xã hội gắn liền với cuộc đấu tranh nhằm xây
dựng một lối sống mới giản dị và tiết kiệm.
Phải sống bằng kết quả của chính bản thân mình, không thể tiêu dùng quá
mức chúng ta sản xuất được. Phải bảo đảm nhu cầu đời sống nhưng phải chịu
đựng khó khăn để tích lũy, để trợ giúp đồng bào ta thoát nghèo, để bảo vệ độc lập
tự do của Tổ quốc, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và làm nghĩa vụ
quốc tế cũng là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng lối sống mới của
nhân dân và thanh niên ta hiện nay.
- 18 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
Trong khi cả nước ta, hàng triệu người đang ra sức lao động sản xuất quyết
tâm thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quyết tâm phấn
đấu đạt mục tiêu chiến lược “Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”
trước năm 2010, chúng ta không thể chấp nhận những biểu hiện của lối sống xa
hoa, đua đòi trong may mặc, nay “mốt” này, mai “mốt” khác; những lễ cưới và
những buổi tiệc ăn chơi linh đình quá mức; những cuộc “nhậu”, nghiện ngập ma
túy, cà phê, thuốc lá…đã làm kiệt quệ kinh tế của từng gia đình và toàn xã hội và
đã dẫn đến hàng loạt những tiêu cực khác, làm tổn thương đến nhân cách và tha
hóa lối sống của mỗi người.
Cùng với sự kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn TNCS HCM quyết tâm đấu tranh và xây
dựng trước hết trong thanh niên một ý thức và phong cách lao động đúng đắn,
một cuộc sống lành mạnh, giản dị và tiết kiệm.
1.4.2 Lối sống mới dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương năm
Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam
Lối sống là sự biểu hiện tập trung của toàn bộ quan hệ vật chất và tinh thần
của con người. Đảng ta xác định, lối sống là một trong những lĩnh vực cốt lõi của
văn hóa. Lối sống mới mà ta hướng đến xây dựng là sự kết tinh của nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và là sự biểu hiện bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Có thể nói, từ khi Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương năm khóa VIII
về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ra đời,
như Chỉ thị ngày 21 tháng 8 năm 1998 của Ban chấp hành Trung ương đã chỉ rõ:
“Có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước ta
trong giai đoạn mới”. Nghị quyết đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của
những lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Đó là lĩnh vực then chốt của văn
hóa.
Để xây dựng lối sống văn minh, hiện đại, Nghị quyết lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII đã đề ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt
Nam, trong đó có thanh niên trong giai đoạn cách mạng mới gồm năm đức tính cơ
bản:
Thứ nhất, có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thứ hai, có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- 19 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
Thứ ba, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Thứ tư, lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Thứ năm, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực [6, tr.59].
Năm đức tính này thể hiện lối sống mới trong quan hệ giữa cá nhân và xã
hội trên các phương diện: cá nhân đối với Tổ quốc, đối với Nhà nước, đối với xã
hội, đối với gia đình, đối với môi trường và đối với chính mình. Năm đức tính
này thể hiện đặc trưng lối sống mới của người Việt Nam trong đó có thanh niên
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề xây dựng lối sống mới, từ Đại hội
Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã chủ trương xây dựng và phát triển
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về
tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh cho sự phát triển xã hội. Các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng sau này tiếp tục
thực hiện những chủ trương của Đại hội VIII với nội dung trọng tâm “Xây dựng
lối sống mới thâm nhập vào mọi tầng lớp nhân dân”.
Trong phương hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam, được khẳng định: “Nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp văn hóa là bồi dưỡng
con người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,
nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa,
hướng con người tới những giá trị chân, thiện, mỹ” [8, tr. 38].
Đến Hội nghị lần thứ mười, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã
nhấn mạnh, một trong ba nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng nền văn hóa
trong thời gian tới là: “Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội” [9, tr. 65].
Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc để xây
dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và chiến
lược. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục chủ trương “Xây dựng và
hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” và một trong ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là “Xây
dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở, phát
- 20 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân” [10, tr.
33-34].
1.4.3 Lối sống mới phù hợp với mục tiêu, phương hướng của Nghị
quyết Đoàn TNCS HCM từ năm 2002 đến nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục thanh niên phải có lối sống
mới, có lý tưởng đạo đức. Lối sống mới đó được Người đề cập cả hai phương
diện: đối với mình và đối với xã hội, trong đó có đối với người, đối với nhân dân,
bạn bè, đồng chí và Tổ quốc. Trên cơ sở những lời dạy của Người và định hướng
của Đảng ta, Đại hội Đoàn TNCS HCM toàn quốc lần thứ IX khẳng định:
“Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ quan trọng của Đoàn là xây dựng lớp
thanh niên giàu lòng yêu nước, biết đặt lợi ích của mình trong lợi ích thống nhất
của quốc gia, dân tộc; có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng; có
tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi; có văn hóa và lối sống
tình nghĩa; có sức khỏe thể chất và tinh thần lành mạnh; giàu nhiệt huyết sáng tạo
và tinh thần tình nguyện” [12, tr. 19]. Người thanh niên của thời kỳ mới vừa biết
giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa biết làm giàu
văn hóa dân tộc bằng những giá trị, những tinh hoa văn hóa nhân loại, là hiện
thân tiêu biểu của giá trị văn hóa Việt Nam. Nghị quyết Đoàn TNCS HCM toàn
quốc lần thứ IX đã xác định mục tiêu xây dựng lối sống mới cho thanh niên hiện
nay: “Xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, có lối sống đẹp, có lý tưởng
cách mạng, có bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [12, tr. 19].
Tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương Đoàn, Đại hội Đoàn TNCS
HCM tỉnh An Giang lần thứ VIII xác định mục tiêu xây dựng lối sống mới cho
thanh thiếu nhi giai đoạn mới: “Tăng cường bồi dưỡng lý tưởng, đạo đức, lòng
yêu nước, nâng cao ý thức công dân, bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, năng lực hội nhập. Quan tâm giải quyết những nhu cầu, nguyện vọng, lợi
ích chính đáng của thanh niên; phát huy tinh thần xung kích tình nguyện của tuổi
trẻ trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội...” [16, tr. 28].
Thực chất của việc xây dựng lối sống mới cho Đoàn viên thanh niên tỉnh
An Giang được cụ thể hóa thành các tiêu chí: “Xây dựng tình đoàn kết, tương
thân, tương ái vì cộng đồng; chống bàng quan vị kỷ cá nhân. Xây dựng thái độ
học tập say mê, nghiêm túc, làm việc gì cũng phải học, học suốt đời, tiến quân
vào khoa học công nghệ; chống tiêu cực, gian dối, không trung thực. Xây dựng
tình thần lao động cần cù, sáng tạo; chống ỷ lại, lười lao động. Xây dựng ý thức
tiết kiệm, tiêu dùng đúng khả năng; chống tham nhũng, lãng phí, xa hoa. Xây
- 21 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
dựng ý thức công dân, thói quen ứng xử văn hóa; chống lai căng tự do, tùy tiện,
vô kỷ luật” [12, tr. 19].
Tóm lại, nội dung xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang là xây dựng năm đức tính con người Việt Nam mới. Đồng thời được cụ thể
hóa các chuẩn mực vào trong nội dung “5 xây, 5 chống” trong thanh niên. Nội
dung xây dựng lối sống mới thể hiện rõ nhân sinh quan đúng đắn về mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội, đề cao ý thức cộng đồng, đoàn kết, tương thân tương ái,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong giai đoạn cách mạng mới.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỂN XÂY DỰNG LỐI SỐNG MỚI CỦA ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH AN GIANG
TỪ NĂM 2002 ĐẾN NAY
2.1 THỰC TIỂN XÂY DỰNG LỐI SỐNG MỚI CỦA ĐOÀN TNCS
HCM TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2002 ĐẾN NĂM 2007
2.1.1 Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
- Thực trạng xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM trước năm
2002
Việc xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang sớm
được chú trọng. Những năm trước 2002, phong trào đạt được những mặt tích cực
nhưng đồng thời cũng tồn tại những yếu kém:
Một là, nhận thức và thái độ chính trị của thanh niên ngày nay có tiến bộ
theo chiều hướng tích cực. Số đông thanh niên ngày càng quan tâm về những vấn
đề của đất nước, quốc tế, ủng hộ công cuộc đổi mới, tự nguyện tham gia các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội thông qua các phong trào do Đoàn
TNCS HCM khởi xướng, tích cực tham gia công tác xã hội, sẵn sàng hy sinh lợi
ích cá nhân vì lợi ích chung. Số Đoàn viên đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thanh niên vào Hội Liên hiệp thanh niên, vào Đoàn TNCS HCM
hàng năm điều tăng. Bên cạnh đó cũng còn một bộ phận thanh niên thờ ơ với
chính trị, thiếu ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, nhận thức
kém, dễ bị kích động vào những hoạt động không lành mạnh, vi phạm pháp luật.
- 22 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
Hai là, nhiều mâu thuẫn liên tục diễn ra trong quá trình rèn luyện lối sống
mới của thanh niên đòi hỏi họ phải có đủ bản lĩnh để giải quyết như: mâu thuẫn
giữa đầu tư cho học vấn, nghề nghiệp với hiệu quả của việc đầu tư đó trong thực
tế; giữa quá trình đấu tranh tự giáo dục, tự khẳng định mình của tuổi trẻ trước lối
sống tích cực và lối sống tiêu cực; giữa môi trường sống lành mạnh với không
lành mạnh; giữa các giá trị đạo đức truyền thống với sự sút giảm đạo đức của một
bộ phận không nhỏ những con người trong xã hội thậm chí có khi ngay trong gia
đình mình…. Trong thực tế, quá trình giải quyết các mâu thuẫn này diễn ra theo
chiều hướng tích cực. Đa số thanh niên vẫn nhận thức rõ giá trị của việc học và đã
trở thành nhu cầu của họ trong lập nghiệp. Các cấp ủy Đảng, Nhà nước, các
ngành, các tổ chức xã hội cũng đã có những đóng góp quan trọng cho việc chăm
lo, phát triển những tài năng trẻ của Tỉnh. Tuy nhiên, một bộ phận thanh niên
chưa đủ bản lĩnh giải quyết mâu thuẫn, cho nên còn nhiều hiện tượng như: thiếu
lý tưởng, thái độ và động cơ học tập chưa đúng, lười lao động; sự sút giảm đạo
đức đối với gia đình và xã hội như: xem thường pháp luật, đạo đức, truyền thống,
thờ ơ với những bất hạnh của người khác, chạy theo đồng tiền bất chấp tất cả, xu
hướng vọng ngoại quên đi cội nguồn…
Ba là, nhận thức về nghề nghiệp, về việc làm của thanh niên có bước phát
triển. Họ quan tâm hơn đến vấn đề thị trường, về chủ trương chuyển đổi cơ cấu
ngành nghề kinh tế, chú ý đến giá trị sức lao động, hiệu quả kinh tế. Họ hăng hái
đi vào những việc khó, những lĩnh vực mới có hiệu quả kinh tế, tư duy kinh tế
năng động hơn, nhạy bén hơn trước những dự báo, xuất hiện nhiều gương thanh
niên tự vươn lên sản xuất – kinh doanh giỏi hoặc tự trang bị, trau dồi cho mình
một cái nghề để ổn định cuộc sống. Nhiều thanh niên được hỗ trợ vốn, hỗ trợ việc
làm vươn lên thoát nghèo. Bên cạnh đó, vấn đề quan tâm hàng đầu hiện nay là
thanh niên An Giang chưa đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật,
tỷ lệ thanh niên có tay nghề còn rất thấp, số thanh niên thiếu việc làm ngày càng
tăng, đầu tư của nhà nước chưa thỏa đáng, vai trò của Đoàn chưa được phát huy
tốt. Số thanh niên lười lao động cũng không ít do trông chờ, ỷ lại vào gia đình.
Bốn là, sự phát triển các loại hình văn hóa, vui chơi giải trí, thể dục thể
thao ngày càng nhanh theo hướng xã hội hóa giúp cho thanh niên vốn nhạy cảm,
dễ nắm bắt và tiếp cận những giá trị văn hóa mới, tiếp cận cái đẹp vừa hiện đại
vừa mang bản sắc dân tộc tạo nên những phẩm chất tốt, tính tích cực hòa nhập
cộng đồng, tính năng động, sáng tạo. Tuy nhiên, các sân chơi, Nhà Văn hóa thanh
thiếu nhi chưa được triển khai rộng, nhất là ở tuyến huyện. Một bộ phận số đông
thanh niên ít có cơ hội giao lưu và điều kiện nâng cao hiểu biết tri thức, do vậy rất
- 23 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
cần sự quan tâm đầu tư toàn diện của các cấp ủy Đảng, Nhà nước và của Đoàn
TNCS HCM Tỉnh An Giang.
Thực tiễn đó cho thấy Đoàn TNCS HCM Tỉnh An Giang - một tổ chức
chính trị - xã hội to lớn và đại diện cho lợi ích của thanh niên đã tổ chức nhiều
hoạt động với nhiều loại hình phong phú, nhưng riêng công tác xây dựng lối sống
mới cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay nên được nâng cao cho xứng đáng
với tầm quan trọng của nó; cần được tách ra thành công tác riêng biệt. Bởi vì lối
sống của thanh niên đang có những biến đổi lớn, nhanh và là vấn đề được cả xã
hội quan tâm. Để làm tốt công tác này, phải nghiên cứu một cách toàn diện cả lý
luận và thực tiễn để có những biện pháp phù hợp. Trong đó, yêu cầu định hướng
nội dung cho việc xây dựng lối sống mới của Đoàn TNCS HCM An Giang là một
công tác quan trọng. Sự nỗ lực này được Đoàn TNCS HCM tập trung trí tuệ chỉ
ra cho giai đoạn 2002 đến nay.
Những năm đầu của thế kỷ XXI mở ra những cơ hội mới – thách thức mới.
Nền kinh tế An Giang tăng trưởng khá toàn diện, văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ,
đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đảng bộ các cấp thường xuyên
quan tâm lãnh đạo, giáo dục, chăm sóc, bồi dưỡng thế hệ trẻ phát triển toàn diện,
đặc biệt là chăm lo nhu cầu học tập, việc làm, thu nhập ổn định, giải trí của thanh
niên. Tuy nhiên, do cơ cấu kinh tế nông nghiệp An Giang phát triển chậm, tổ
chức phát triển thị trường còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề xã hội bức xúc như:
mặt bằng dân trí thấp, tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm tăng, giải quyết việc làm
chưa tương xứng với sự gia tăng lao động…
Theo số liệu thống kê đến năm 2002, dân số An Giang là 2.128.830 người.
Trong đó, thanh niên hiện có khoảng 923.153 người, với hơn 53.588 đoàn viên.
Theo kết quả điều tra xã hội học do Ban thường vụ Tỉnh Đoàn tiến hành cho thấy:
Thanh niên trong tỉnh năng động, sáng tạo luôn ủng hộ sự nghiệp đổi mới của
Đảng, ham hiểu biết, cố gắng học tập, vượt khó trong lao động, sản xuất, kinh
doanh…vì lợi ích của gia đình và xã hội. Sẵn sàng tình nguyện thực hiện nhiệm
vụ khi Đảng bộ và nhân dân giao phó với tinh thần nhiệt huyết và có trách nhiệm.
Trong giai đoạn mới, đứng trước những thuận lợi và khó khăn trên có tác
động to lớn đến nhận thức và hành động của thanh niên. Đại hội Đoàn TNCS
HCM đã chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xây dựng lối sống
mới, đó là:
- Những thuận lợi:
Nghị quyết của Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ IX đã tạo cơ hội cho
thanh niên “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng quê hương, đất nước”; xu thế hội
- 24 -
Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP SVTH: Trần Thanh Duy
nhập và mở cửa đã tạo ra thời cơ để thanh niên học tập, nghiên cứu và ứng dụng
những thành tựu khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống, góp phần phát
triển tài năng sáng tạo của thanh niên [13, tr. 416]. Trước những thuận lợi đó,
Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ
trên các mặt trí tuệ, đạo đức và thể lực; đẩy mạnh các hoạt động chăm lo lợi ích
thanh thiếu niên; tiếp tục phát triển các phong trào hành động cách mạng giúp
thanh niên lập nghiệp, tham gia phát triển quê hương; sự ra đời của trường Đại
học An Giang trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực, tạo nhiều cơ hội để
thanh niên học tập và tình nguyện phát triển nông thôn.
- Những khó khăn
Nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới yêu cầu thanh niên phải trở
thành nguồn nhân lực có chất lượng cao: có trí tuệ, có sức khỏe, có đạo đức cách
mạng và lối sống công nghiệp…đòi hỏi thanh niên phải tự nguyện, tự giác trong
học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nghề nghiệp; rèn luyện bản
lĩnh chính trị. Thanh niên phải vượt qua những thách thức về lối sống và nhân
cách để giữ vững được đạo đức, lý tưởng trong sạch, có bản lĩnh vững vàng trước
những cám dỗ của vật chất đời thường [13, tr.417-418]. Nhưng thanh niên trong
Tỉnh: trình độ dân trí còn thấp, sự nhận thức không đồng đều trong thanh niên;
việc định hướng giá trị và đáp ứng nhu cầu chính đáng của thanh niên ngày càng
cao nhất là việc làm, thu nhập ổn định và vui chơi giải trí. Vẫn còn một bộ phận
thanh niên thờ ơ với chính trị, chạy theo lối sống thực dụng, ảnh hưởng văn hóa
ngoại lai; khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch mức sống gia tăng; tệ nạn xã hội,
ma túy, mại dâm ngày càng diễn biến phức tạp trong thanh niên [15, tr.29].
Trước những vấn đề thực tiễn đặt ra cho tổ chức Đoàn TNCS HCM tỉnh
An Giang nhiều khó khăn trong công tác xây dựng lối sống mới cho thanh niên.
2.1.2 Những chương trình hành động của Đoàn TNCS HCM tỉnh An
Giang
Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang cùng với các cấp bộ Đoàn quyết tâm
thực hiện công tác xây dựng lối sống mới trong thanh niên với nhiều chương trình
hành động. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn TNCS HCM tỉnh An Giang lần
thứ VII, công tác xây dựng lối sống mới có nhiều chuyển biến, góp phần nâng cao
chất lượng chính trị, củng cố niềm tin, bồi dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng,
lối sống văn hóa và ý thức công dân cho thanh niên.
- 25 -