Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tập hợp các NGHIÊN cứu về NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA VIỆT NAM từ báo CHÍ và các bài VIẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.71 KB, 74 trang )

1 – Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu
nhà nước. Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình
độ phát triển dân chủ
Trong ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách
thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng
dân chủ. Điều này có nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân
chủ. Tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình
thái kinh tế – xã hội, nhưng nhà nước pháp quyền không thể xuất hiện trong một
xã hội phi dân chủ.
Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà
nước có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất
của nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh
sau:
- Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới có cơ hội và điều kiện để xuất
hiện nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản
đang được tuyên bố xây dựng ở hầu hết các quốc gia tư bản phát triển và đang
phát triển.
- Nhà nước pháp quyền, với tính chất là cách thức tổ chức và vận hành
của một chế độ nhà nước và xã hội, không những được xây dựng ở chế độ tư
bản mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức
lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền cịn bao hàm các giá trị
đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố.
Các yếu tố này, về thực chất, là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác
định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội và mơi trường địa
lý của mỗi dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi
dân tộc trong q trình dựng nước, giữ nước và phát triển mà còn quyết định
mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc



thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan
trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính
phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá
trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp
quyền như một mơ hình chung, thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc
gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội và
trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mơ hình nhà nước pháp quyền
thích hợp.
2 – Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được
đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi
thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa đã
và ln là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ,
Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa
phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm
1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những
bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ
quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, q trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập
năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ với
nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở
một tầng cao phát triển mới với nhiều địi hỏi và nhu cầu cải cách mới.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng
một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục



tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc
điểm của thời đại với xu thế tồn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi
hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo
đảm cho Nhà nước khơng ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu
quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc
lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
3 – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân ở nước ta là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến
của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một
chế độ dân chủ hiện đại, vừa phải khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng
mình
Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nói riêng, đã được các đề tài của Chương trình KX.04 khái qt
trên những nét chính sau:
Một là, cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của
thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong
chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính
của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước
pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra
nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chế
độ dân chủ nhất nguyên. Chế độ dân chủ nhất nguyên là điều kiện cơ bản để tạo
ra một đời sống dân chủ có tính thống nhất cao, một hệ thống chính trị thống



nhất và là một địi hỏi có tính nội tại của chế độ nhà nước và chế độ xã hội trong
các điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy, sự nhất ngun chính trị phải
ln là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa – một nhà nước địi hỏi tính
thống nhất và tính tổ chức cao trong tổ chức cũng như trong hoạt động của mọi
cấu trúc nhà nước để có thể đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc khẳng định vai trò
lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền
dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà lệ thuộc
vào chỗ đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà
nước vào những mục đích gì trên thực tế. Vì vậy, điều kiện để xây dựng nhà
nước pháp quyền không thể là chế độ đa đảng hay chế độ một đảng và không
thể coi đó là căn cứ để đánh giá tính chất và trình độ của một nền dân chủ. Sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã
hội và đời sống nhà nước không những không trái với bản chất nhà nước pháp
quyền nói chung mà cịn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân ở nước ta.
Ba là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Với khối đại đồn kết tồn dân tộc, nhà nước pháp
quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ
chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ
được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hóa giàu, nghèo nhưng có khả năng
xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Những
mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do
được điều tiết thơng qua pháp luật, chính sách và các cơng cụ khác của nhà
nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung
đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện để bảo đảm ổn



định chính trị, đồn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát
triển.
Tính nhất ngun chính trị và sự lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm
quyền tạo ra khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác, giúp đỡ
lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội,
nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các
tầng lớp dân cư trong việc thực hành và phát huy dân chủ.
4 – Một số vấn đề về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước
ta hiện nay
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan
trọng, cấp thiết là chúng ta phải sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý đã được đặt ra và quán triệt trong giai
đoạn đấu tranh loại bỏ cơ chế pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
bao cấp, xây dựng cơ chế pháp lý cho cơ chế kinh tế mới. Ngày nay, một lần
nữa nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra với tính cấp thiết mạnh mẽ,
kiên quyết, vượt ra khỏi khn khổ có tính truyền thống lâu nay trong việc xây
dựng pháp luật và thi hành pháp luật. Tư duy pháp lý mới có thể được phác thảo
trên những nét chính sau:
1 – Xác định và quán triệt cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta
trong giai đoạn phát triển đến 2010 và các giai đoạn tiếp theo. Điều này có
nghĩa là chúng ta cần nhanh chóng xác định mơ hình luật pháp nước ta được
xây dựng theo lý thuyết nào. Dĩ nhiên, chúng ta không thể áp dụng một cách
máy móc các mơ hình lý thuyết hiện đang được áp dụng ở các quốc gia trên thế
giới. Nhưng chúng ta cũng khơng thể khơng tính đến sự ảnh hưởng và chi phối
của các lý thuyết này đối với sự vận động của đời sống pháp luật hiện đại. Vì
vậy, việc nghiên cứu xây dựng các cơ sở lý thuyết cho mơ hình luật pháp nước
ta cần đặt trong mối quan hệ giữa hai yếu tố: dân tộc và hiện đại.



Cần có các nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ người
Việt Nam trong tiến trình xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý. Các kinh
nghiệm làm luật và thi hành luật trong các giai đoạn lịch sử cho thấy, các thế hệ
người Việt Nam khá thành công trong việc tiếp thu các giá trị pháp lý nước
ngoài, làm nên một bản sắc pháp lý Việt Nam. Xin hãy lấy Quốc triều hình luật
thời Lê (Bộ Luật Hồng Đức) để suy ngẫm: Bộ Luật Hồng Đức, theo đánh giá
của sử gia Phan Huy Chú, "Thật là cái mẫu mực để trị nước, các khuôn phép để
buộc dân". Điều cần nhấn mạnh là, mặc dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp lý
và các quy tắc pháp luật của Trung Hoa thời phong kiến, nhưng Bộ Luật Hồng
Đức vẫn là bộ luật của người Việt Nam, là sản phẩm văn hóa của người Việt
Nam, chứ khơng phải là sự sao chép máy móc pháp luật của nhà Đường hay nhà
Minh.
Trong lịch sử, dân tộc ta đã rất thông minh và chủ động trong việc tiếp
thu pháp luật nước ngoài để cách tân đất nước. Ngày nay, chúng ta cũng cần
tiếp thu có chọn lọc các giá trị pháp luật nước ngoài một cách chủ động và
thông minh để tiếp tục củng cố và phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc tiếp thu
các giá trị và kinh nghiệm pháp luật nước ngoài cần tuân theo ba điều kiện cơ
bản: Thứ nhất, tư tưởng của pháp luật du nhập phải tương đồng với ý thức pháp
lý đang thống trị ở nước tiếp nhận. Thứ hai,pháp luật du nhập phải tương đồng
với cấu trúc, hình thái và phương thức tổ chức quyền lực nhà nước tại quốc gia
sở tại. Thứ ba, pháp luật du nhập phải phù hợp với phương thức sản xuất xã hội,
phải được số đông thành viên trong xã hội chấp nhận và ủng hộ.
2 – Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa, bảo
đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý có tính
quốc tế đang địi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp.
Việc đổi mới cơng tác lập pháp có thể khái qt trên một số nét sau:
Một là, đổi mới công tác kế hoạch lập pháp: Kế hoạch làm luật nếu chỉ
được tiến hành trên cơ sở đề xuất của các cơ quan hữu quan để tập hợp, cân đối

và thông qua sẽ không thể khắc phục được tình trạng khơng hồn thành kế


hoạch, vì khơng ít dự án luật được đăng ký theo kiểu "giữ chỗ" và trên thực tế,
rất khó xây dựng do chưa xác định được đầy đủ tính chất, mục tiêu, đối tượng
điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Sự đăng ký văn bản theo kiểu "ghi
danh" đã không ràng buộc một cách chặt chẽ trách nhiệm của cơ quan đề xuất
dự luật. Để khắc phục tình trạng này, nên chăng, thay vì xây dựng và thơng qua
kế hoạch làm luật hằng năm và 5 năm thường lệ, Quốc hội chỉ cần thông qua
các sáng kiến pháp luật. Cá nhân, cơ quan (theo quy định của pháp luật) nêu
sáng kiến pháp luật có trách nhiệm lập luận các căn cứ về sự cần thiết của mục
tiêu, đối tượng cần điều chỉnh và tính khả thi của cơng tác xây dựng văn bản;
trên cơ sở đó, Quốc hội thảo luận, thông qua và giao trách nhiệm xây dựng dự
thảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân phù hợp.
Hai là, thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật: Thực tiễn làm luật ở
nước ta thời gian qua cho thấy, các đạo luật được xây dựng và thông qua phần
nhiều đều có dung lượng khá lớn các quy phạm và đối tượng điều chỉnh; phạm
vi điều chỉnh cũng khá lớn. Chính sự đầu tư "nhân, tài, vật, lực" cho các đạo
luật có quy mơ lớn đã làm cho cơng việc soạn thảo các dự thảo văn bản bị kéo
dài, tính chất đồng bộ và thống nhất của dự thảo trong mối quan hệ với các đạo
luật khác nhiều khi không được bảo đảm. Đặc biệt, các đạo luật lớn vì phức tạp
nên thường phải tranh luận, thảo luận nhiều thời gian mới mong đạt được sự
thống nhất các quan điểm và cách thức thể hiện. Do vậy, việc chuẩn bị xây
dựng dự thảo tại các ban soạn thảo, thẩm định, thảo luận, chỉnh lý và thông qua
tại Quốc hội thường kéo dài. Khoảng cách giữa nhu cầu cấp bách phải điều
chỉnh và khả năng điều chỉnh của đạo luật ngày càng xa đã dẫn đến tình trạng,
đợi được luật ra đời, cuộc sống đã biến chuyển sang một mức độ phát triển
khác. Để khắc phục tình trạng này, thay vì xây dựng và thơng qua các đạo luật
có quy mô lớn, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mơ
điều chỉnh hẹp. Một đạo luật với ít các điều khoản sẽ được nhanh chóng xây

dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh pháp luật, dễ dàng tương thích
với các khơng gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản


không chỉ thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng, mà còn thể hiện ở
việc dễ kiểm sốt tính đồng bộ và thống nhất, dễ sửa đổi khi có nhu cầu và dễ
áp dụng trên thực tế.
Ba là, đổi mới cách thức và quy trình thơng qua luật: Phong cách làm
luật lâu nay của cơ quan lập pháp thể hiện ở các hoạt động thảo luận của các đại
biểu Quốc hội, thẩm định của các ủy ban của Quốc hội, giải trình tiếp thu của cơ
quan soạn thảo, đã rất khó nâng cao được chất lượng và hiệu quả của đạo luật.
Sự thảo luận chủ yếu ở dạng câu chữ đã chiếm khá nhiều thời gian, trong khi
nội dung dự thảo lại ít được chú ý. Do vậy, ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc
hội đối với các dự thảo chất lượng chưa cao. Để khắc phục tình trạng này, trước
khi dự thảo luật được đưa ra thảo luận tại Quốc hội, cần tiến hành thẩm định về
mặt khoa học bởi các nhóm chuyên gia từ các viện nghiên cứu, các trường đại
học với nhiệm vụ đánh giá về phương diện khoa học toàn bộ dự án luật, từ hình
thức biểu đạt, cấu trúc đến nội dung các điều luật, nhằm phát hiện ra các lỗi cả
về kỹ thuật văn bản, lẫn nội dung văn bản. Sự thẩm định khoa học về dự thảo
văn bản do các nhóm chuyên gia thực hiện một cách độc lập vừa là cơ sở để ban
soạn thảo chỉnh lý văn bản, vừa là tài liệu tham khảo cho các đại biểu Quốc hội
khi thảo luận dự thảo. Mặt khác, để nâng cao chất lượng các đạo luật, quy trình
thơng qua dự thảo cần được tiến hành theo hai bước: thảo luận, thông qua tại
một ủy ban tương ứng của Quốc hội và thảo luận, thông qua tại phiên họp toàn
thể của Quốc hội. Như vậy, chỉ khi nào dự thảo được thông qua tại một ủy ban
của Quốc hội thì mới được xem xét, thảo luận, thơng qua tại Quốc hội. Quy
định như vậy không chỉ nêu cao vai trò làm luật của các ủy ban của Quốc hội,
mà còn tiết kiệm thời gian làm việc của Quốc hội, nâng cao hiệu quả của đạo
luật.
Bốn là, tăng cường lắng nghe ý kiến nhân dân đóng góp xây dựng các dự

thảo luật: Các dự thảo luật một khi được xây dựng ngắn gọn, ít điều khoản sẽ
rất dễ dàng cho nhân dân tiếp cận. Sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp
luật của đông đảo các tầng lớp nhân dân là điều kiện quan trọng để pháp luật


phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm cho pháp luật thật sự
là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cần quy định, việc lấy ý kiến của
nhân dân (chứ không chỉ là lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hay của một số
cán bộ) đối với các dự án luật là điều kiện bắt buộc trong quá trình xây dựng dự
thảo. Đặc biệt, việc tiếp thu ý kiến của nhân dân vào các dự thảo (tiếp thu ý kiến
nào, không tiếp thu ý kiến nào, vì sao) phải được thơng báo cơng khai và minh
bạch. Có như vậy, nhân dân mới cảm thấy ý kiến của mình được tơn trọng và
mặt khác, mới củng cố niềm tin của họ vào luật pháp.
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 96 NĂM 2005

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới
8:10' 21/5/2011
Trương
Tấn
Ủy

viên

Bộ

Chính

trị,


Thường

trực

Sang
Ban



thư

Thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 và trên cơ sở tổng kết tổ chức,
hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan tư pháp trong
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, chính quyền địa phương trong nhiệm kỳ 2005 2010 sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng của đất nước và niềm mong mỏi của nhân dân ta.
1- Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân
được thực hiện chủ yếu bằng Nhà nước. Ðảng ta là đảng cầm quyền, đảng lãnh
đạo toàn xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Vì vậy,
chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự của
dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao
mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất


nước luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ hàng đầu của Ðảng và nhân dân ta.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối của Ðảng, việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được đẩy mạnh, đạt được kết quả tích
cực, tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, phương thức
hoạt động của Nhà nước được đổi mới; Nhà nước quản lý chủ yếu bằng luật

pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các nguồn lực của
Nhà nước, giảm bớt các mệnh lệnh hành chính can thiệp vào các lĩnh vực kinh
tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng lên, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc
tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quốc hội được kiện tồn về tổ chức, phương thức hoạt động có nhiều đổi
mới, chất lượng hoạt động được nâng cao. Công tác xây dựng pháp luật được
tăng cường. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự
tốn, quyết tốn ngân sách Nhà nước, các cơng trình trọng điểm quốc gia có
chất lượng và thực chất hơn. Hoạt động giám sát tình hình và kết quả thực hiện
các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, các dự án, cơng trình trọng
điểm quốc gia, những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước được đẩy mạnh,
chất lượng được nâng lên. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ từng bước
được sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tinh gọn; các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh
vực được thành lập với những chức năng, nhiệm vụ được điều chỉnh, đổi mới,
tập trung vào lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý vĩ mô, giải quyết những vấn đề
lớn, quan trọng, tách khỏi quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Cải cách hành chính được chú trọng, nhất là ở những lĩnh vực có quan
hệ tới đời sống của nhân dân và hoạt động của doanh nghiệp, bước đầu đạt được
một số kết quả. Cải cách tư pháp được đẩy mạnh. Tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp được đổi mới. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng, sự tham gia
của luật sư trong tố tụng và các hoạt động tranh tụng tại phiên tòa ngày càng tốt
hơn, hạn chế được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan sai hay bỏ lọt tội


phạm. Công tác thi hành án được tăng cường. Tổ chức bộ máy chính quyền địa
phương các cấp được củng cố, kiện toàn, chất lượng, hiệu quả hoạt động từng
bước được nâng lên. Việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức được quan tâm. Cơng tác đấu tranh phịng, chống quan liêu,

tham nhũng, lãng phí được tích cực chỉ đạo, đạt một số kết quả.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước. Năng lực
xây dựng thể chế còn hạn chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng
bộ, thống nhất. Công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt cịn
yếu. Tổ chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn chưa hợp lý, chức năng,
nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, cịn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, cơng chức chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của đất
nước. Cải cách hành chính chưa đạt u cầu đề ra, cịn nhiều thủ tục hành chính
gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên
một số lĩnh vực còn yếu. Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác
điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác, tình
trạng án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Cơng tác phịng, chống tham
nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí
vẫn còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những hạn chế, yếu kém
trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã gây ra
những khó khăn, cản trở, làm hạn chế thành tựu của đất nước, trong một số lĩnh
vực còn tạo nên bức xúc xã hội. Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của đất nước ta trong thời kỳ mới đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện
tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
2- Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng đã thông qua các văn
kiện quan trọng, trong đó vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân được đề cập một cách tồn diện, từ những quan
điểm chung đến những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể.


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: 'Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân' là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội

chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; 'Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân' là một trong 8 phương hướng cơ bản mà
Ðảng và nhân dân ta cần phải quán triệt, thực hiện tốt để thực hiện thắng lợi
mục tiêu mà Cương lĩnh đề ra. Ðồng thời, Cương lĩnh còn xác định rõ bản chất
và các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, như 'Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức,
do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo'. 'Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó
mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân'. 'Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp'. 'Tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân
cơng, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương'. Ðây
là những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Ðại hội XI đề ra các yêu cầu, nhiệm
vụ và giải pháp cụ thể xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
thời gian thực hiện Chiến lược và nhiệm kỳ Ðại hội XI để bảo đảm thực hiện
thắng lợi Chiến lược, cũng như mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Ðại hội XI.
Yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là phải bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân; Nhà nước phải chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi
ích chính đáng của mọi người dân. Do đó, cần nghiên cứu xây dựng, bổ sung
các thể chế và cơ chế vận hành để thật sự bảo đảm đúng nguyên tắc tất cả quyền


lực thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðồng thời, việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý
kinh tế, quản lý xã hội phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của xã hội. Yêu
cầu làm tốt chức năng quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đòi
hỏi Nhà nước phải xây dựng đồng bộ và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội; quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, thực hiện tốt chức
năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh nguồn nhân
lực và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; củng cố, tăng cường quốc
phòng, an ninh, tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, trật tự an tồn xã
hội, tạo mơi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Những nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân trong Chiến lược và Báo cáo Chính trị tập trung
vào 3 vấn đề lớn:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Ðổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thật sự là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao
chất lượng đại biểu Quốc hội. Cải tiến, nâng cao chất lượng các kỳ họp của
Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội; nhất là cải tiến, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật,
quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước. Tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống
nhất, thơng suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ


quan ngang bộ, cơ quan của Chính phủ; thực hiện phân cấp hợp lý cho chính

quyền địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường
thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương; đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi
bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Ðẩy mạnh việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch,
vững mạnh. Hồn chỉnh chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng
tư pháp. Ðổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tòa án,
viện kiểm sát, cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư pháp... Tiếp tục đổi mới tổ
chức, nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương, hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương
khơng tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; nghiên cứu tổ chức
chính quyền đơ thị, hải đảo.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bổ sung, hồn thiện
quy chế quản lý cán bộ, cơng chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền, trách nhiệm của cán bộ, cơng chức ở từng vị trí cơng tác. Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhà nước. Ðổi mới chính sách đãi ngộ, động
viên, khuyến khích cán bộ hồn thành tốt nhiệm vụ, có cơ chế loại bỏ những
người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, khơng có uy tín với nhân
dân.
Thứ ba, tích cực phịng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm
bằng các giải pháp đồng bộ: hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành
chính, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí; thực hiện cơng
khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp
nhà nước, các dự án đầu tư, mua sắm từ ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng
đất đai, tài sản công; thực hiện kê khai, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức. Xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tịch thu tài sản do tham nhũng mà
có. Có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người đấu tranh chống tham nhũng, lãng



phí, tiêu cực. Phát huy vai trị của nhân dân, của các cơ quan dân cử, Mặt trận
Tổ quốc, các đồn thể, các phương tiện thơng tin đại chúng trong đấu tranh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
3- Ðể thực hiện được mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới như Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đề
ra, nhiệm vụ hết sức quan trọng, trực tiếp hiện nay của Ðảng và nhân dân ta là
tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 và trên cơ sở đó, xây dựng, hồn thiện tổ
chức chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Chỉ thị của Bộ Chính trị 'Về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII
và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016' đã nêu rõ: 'Cuộc bầu cử
lần này là dịp để tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân', do đó 'là một nhiệm
vụ trọng tâm của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân trong năm 2011'.
Trong những tháng vừa qua, công tác chuẩn bị bầu cử đã được cấp ủy
đảng, chính quyền, trực tiếp là Hội đồng Bầu cử, Ủy ban Bầu cử, ban bầu cử
các cấp, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc,
các đồn thể và của tồn dân. Cơng tác tun truyền về ý nghĩa quan trọng của
cuộc bầu cử, các quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân, về vị trí, vai trị của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
trong bộ máy nhà nước, về vai trị, vị trí của người đại biểu nhân dân, về quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong xây dựng bộ máy nhà nước được đẩy
mạnh, tạo nên khơng khí xã hội tích cực, sự quan tâm, tham gia của tồn dân
vào q trình chuẩn bị bầu cử. Việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đã được thực hiện dân chủ, theo đúng
quy định của pháp luật và hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền để giới
thiệu những người tiêu biểu, đủ tiêu chuẩn, đặc biệt coi trọng tiêu chuẩn về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có năng lực và điều kiện thực hiện nhiệm



vụ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, thường xuyên liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, không tham
nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, luôn bảo vệ lợi ích chính
đáng của nhân dân, được nhân dân yêu mến, tín nhiệm. Trên cơ sở tiêu chuẩn,
đồng thời có cơ cấu hợp lý về số đại biểu là người đang công tác ở các cơ quan
đảng, nhà nước, lực lượng vũ trang, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
bảo đảm số lượng đại biểu chuyên trách và tỷ lệ hợp lý đại biểu của các dân tộc
thiểu số, các tôn giáo, đại biểu nữ, đại biểu trẻ tuổi, đại biểu là các nhà khoa
học, trí thức, văn nghệ sĩ, đại biểu xuất thân từ công nhân, nông dân, doanh
nhân tiêu biểu của các thành phần kinh tế.
Thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 và trên cơ sở tổng kết tổ
chức, hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan tư pháp
trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, chính quyền địa phương trong nhiệm kỳ
2005 - 2010 sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp cách mạng của đất nước và niềm mong mỏi của nhân dân ta. Ðây là
nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng để triển khai thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng ngay từ những năm, tháng đầu tiên, những
công việc quan trọng đầu tiên, tạo ra một yếu tố, một điều kiện cơ bản để thực
hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đến hết nhiệm kỳ, đến năm 2020 mà Ðại
hội lần thứ XI của Ðảng đã đề ra./.

Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước là một
nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Để làm rõ vấn đề này đã có nhiều cơ quan chức năng và
nhiều nhà khoa học nêu lên khá hệ thống và cụ thể. Trong bài viết này tôi muốn
làm rõ một số nội dung chính sau đây:



I. Trong nội dung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà
nước, vấn đề đầu tiên là phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Quốc hội. Bởi vì, đây là một trong những nội dung cơ bản của việc kiện toàn tổ
chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan Nhà
nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho các tầng
lớp nhân dân và cho các vùng lãnh thổ, là hình ảnh thể hiện khối đại đoàn kết
dân tộc và đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, là nơi thực hiện và thể
hiện chế độ dân chủ đại diện vừa là nơi thể hiện và thực hiện dân chủ trực tiếp.
Quốc hội vừa có tư cách nhân dân, vừa có tư cách Nhà nước. Do đó, tổ chức và
hoạt động của Quốc hội có vai trị đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức
quyền lực chính trị và trong bộ máy Nhà nước. Thực tế chỉ ra rằng, muốn xây
dựng và củng cố nền tảng chính trị pháp lý vững chắc cho hệ thống quyền lực
chính trị, quyền lực Nhà nước phải chăm lo xây dựng, củng cố và phát huy vai
trò của Quốc hội trong việc thực hiện các chức năng lập hiến, lập pháp, giám sát
tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Về đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội có mấy vấn
đề sau đây:
1. Cần tiến hành trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị trước hết là đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo tồn bộ hệ
thống. Nói phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm những nguyên tắc, quy tắc,
cách thức, hình thức biện pháp mà các tổ chức, các cấp uỷ chọn lựa, sử dụng.
Chẳng hạn như về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các tổ chức
đảng ở cơ sở hiện nay có 3 nội dung cụ thể. Đó là:
- Đảng bộ, chi bộ cơ sở phải làm đúng vai trị hạt nhân lãnh đạo tồn diện
ở cơ sở, nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, mặt trận và các đồn thể vững mạnh.



- Mọi đảng viên phải nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu vững vàng
về chính trị, có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân.
- Đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, của cấp uỷ đảng. Xây
dựng quy chế làm việc giữa bí thư với những người đứng đầu chính quyền, mặt
trận và các đoàn thể. Đổi mới các cuộc bầu cử ở cơ sở, tăng cường công tác
kiểm tra. Đổi mới phương thức lãnh đạo, trong đó chú ý đặc trưng phương pháp
dân chủ trong lãnh đạo nhân dân và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
2. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với đặc điểm của đất
nước, tính chất của thời đại.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng nêu rõ: Nhà nước ta là công cụ chủ yếu
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc
trưng cơ bản:
- Ln xác định mục tiêu cao nhất là vì con người. Đặc trưng này thể hiện
ngay từ khi thành lập Nhà nước ta và thể hiện đầy đủ trong các bản hiến pháp từ
năm 1946 đến nay.Trong hiến pháp năm 1992, đã được thể hiện trong 1 chương
với 34 điều cụ thể.
- Mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước một cách trực tiếp hoặc thơng qua các cơ quan nhà nước do
mình bầu ra.
- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và
thể hiện địa vị tối cao của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội.
- Ở đó, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp
và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện cải cách bộ máy nhà nước.
- Là Nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.



Tiến hành đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội nhằm
kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay cần phải nắm vững các nguyên tắc trên. Mặt khác, cần nhận
thức rõ chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một đảng lãnh
đạo và thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
cơng việc hồn tồn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Mặc khác với những kết
quả đạt được qua 30 năm đổi mới, nhận thức, yêu cầu của nhân dân ngày một
nâng cao, nhiệm vụ xây dựng bộ máy nhà nước và nguyện vọng của nhân dân
ngày càng địi hỏi phải có bộ máy trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả mới đáp ứng tình hình và nhiệm vụ cách mạng.
3. Thực hiện theo các nguyên tắc chung về tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước và các nội dung, u cầu có tính đặc thù của Quốc hội.
Đây là điều rất quan trọng khi thực hiện đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của Quốc hội. Các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước là bao gồm:
- Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân, và vì dân. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản.
- Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Đây cũng là nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Nhà nước.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam; quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao
đạo đức xã hội chủ nghĩa đối với cơng dân.
- Tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Năm nguyên tắc trên là những định hướng chỉ đạo để tiếp tục đổi mới tổ

chức, phương thức hoạt động của Quốc hội. Trong quá trình thực hiện đổi mới


hoạt động của Quốc hội cần nhận thức, làm rõ những yêu cầu mang tính đặc thù
như:
- Tính hiệu quả trong tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội –
nhất là hiệu quả về kinh tế và các hiệu quả cụ thể khác.
- Tính chuyên nghiệp và hiện đại. Cụ thể là phải có tỷ lệ đại biểu Quốc
hội chun trách thích hợp, có bộ máy tham mưu trình độ cao, có phương thức
hoạt động phát huy đầy đủ dân chủ, trí tuệ của các đại biểu Quốc hội.
- Tính minh bạch trong tổ chức và hoạt động. Nguyên tắc này đòi hỏi
trong hoạt động phải quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân trong bộ máy, có cơ chế tự kiểm tra, thanh tra
các hoạt động và có sự giám sát từ phía nhân dân đã khắc phục tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí – những điều không thể tồn tại trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Để làm tốt những nội dung trên, đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên và
tập trung các giải pháp:
a. Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các chức năng của Quốc hội
đã đề ra.
b. Phát huy vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng lực của các đại biểu Quốc
hội, bảo đảm họ thực sự là người đại diện cho nhân dân, vừa có đạo đức, năng
lực, có bản lĩnh và các kỹ năng hoạt động nghị trường, tham gia đóng góp,
quyết định được những vấn đề trọng đại của đất nước.
c. Tiếp tục kiện toàn các cơ quan của Quốc hội, thường xuyên tăng cường
quan hệ hai chiều giữa Quốc hội với nhân dân….
II. Phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Nền hành chính nhà nước gồm có:
- Hệ thống thể chế hành chính.

- Hệ thống cơ quan hành chính.
- Đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính.


- Hệ thống quản lý tài chính cơng.
Nền hành chính nhà nước có vị trí, vai trị hết sức quan trọng. Điều này
được thể hiện cụ thể ở chỗ: Nó là bộ phận lớn nhất trong hệ thống từ Trung
ương đến cơ sở. Là hệ thống trực tiếp thực hiện các đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, trong quá trình thực hiện, cơ quan
hành chính nhà nước cịn góp phần cụ thể hố hoặc điều chỉnh, sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện các đường lối, chủ trương chính sách, để bảo đảm thực hiện
một cách hiệu quả nhất nền hành chính nhà nước.
Trong thời gian qua, nền hành chính nhà nước ta đã đạt được những kết
quả cụ thể, góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nước, bảo đảm sự thành
công của công cuộc đổi mới…; tuy nhiên, cũng còn bộc lộ nhiều khuyết điểm,
tồn tại như:
- Cịn mang nặng tính chất cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp,
chưa đáp ứng với những yêu cầu của cơ chế quản lý mới, hiệu lực, hiệu quả
chưa cao.
- Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính nước ta
đến nay vẫn chưa được xác định rõ với tính chất của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với các thành phần kinh tế khác nhau.
- Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, cịn chồng chéo, thiếu thống
nhất, thủ tục hành chính cịn rườm ra, phức tạp, gây ra những ảnh hưởng không
nhỏ tới hiệu quả quản lý của Nhà nước.
- Đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước các cấp còn nhiều yếu kém, bất
cập. Nhiều nơi để xảy ra những vấn đề nổi cộm, phức tạp kéo dài, xử lý lúng
túng, bị động…..
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết
quả của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tạo kẽ hở

cho các thế lực thù địch chống phá cách mạng, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của
Đảng, phủ nhận thành quả của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh


đạo. Do đó đây là vấn đề cần được quan tâm đầy đủ, khắc phục kịp thời và có
hiệu quả. Để thực hiện được điều đó, cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế nền hành chính, trước hết tập
trung cải cách thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất
là đối với một số thể chế then chốt. Tiếp tục cải cách hành chính, kiên quyết loại
bỏ những thủ tục chồng chéo, phiền hà. Ban hành cụ thể cơ chế kiểm tra cán bộ,
công chức, quy định rõ trách nhiệm cá nhân trong khi thi hành công vụ.
Hai là, cải cách tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở
Trung ương và chính quyền địa phương. Kiên quyết giải tán các tổ chức trung
gian, kém hiệu quả. Khắc phục tình trạng Trung ương có gì địa phương cũng có
nấy, cơ quan chính quyền có gì, cơ quan đảng cũng có…. Đồng thời, cải tiến
phương thức quản lý, lề lối làm việc của các cơ quan hành chính các cấp hiện
nay, cả cơ quan cấp Trung ương, bộ, tỉnh, huyện và cơ sở.
Ba là, phải nhận thức rõ tầm quan trọng của cơng tác cán bộ, để có sự đổi
mới mạnh mẽ hơn, có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức
các cấp, nhất là ở cơ sở để tạo sự chuyển biến tích cực, hiệu quả hơn.
Ở đây, có 2 vấn đề chính là: vừa đổi mới đội ngũ cán bộ, cơng chức hành
chính vừa phải đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức. Muốn làm tốt điều
này cần có sự đánh giá một cách thực chất hơn, cụ thể hơn thực trạng đội ngũ
cán bộ, công chức và công tác quản lý cán bộ, công chức hiện nay, nhất là trong
điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội. Từ đó phải có
đường lối xây dựng cán bộ phù hợp với tình hình mới, có những chính sách cụ
thể để phát huy những mặt tốt, những khả năng trong hệ thống tổ chức và trong
mỗi cán bộ. Kịp thời phát hiện phát hiện và ngăn chặn những mặt hạn chế, bất
cập, suy thoái trong cán bộ các cấp khi thực hiện cơ chế mới, với nhiều thành
phần kinh tế và mở cửa, hội nhập hiện nay.

Để thực hiện có kết quả nhiệm vụ đổi mới, nâng cao chất lượng cán bộ,
có một số giải pháp cụ thể:


- Xây dựng cho được những tiêu chuẩn cụ thể của các chức danh cán bộ.
Có quy định thống nhất về đánh giá cán bộ, công chức. Khả năng về bằng cấp,
khơng máy móc mà phải đúng thực chất, năng lực, uy tín. Phải biết được sở
trường của từng người để bố trí đúng việc. Đổi mới việc lấy phiếu tín nhiệm và
tránh hiện tượng mua bán, chạy chức quyền như tình trạng diễn ra lâu nay ở một
số nơi đã bị dư luận phê phán.
- Hoàn thiện chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức, bảo đảm thực sự cơng
khai, dân chủ, khách quan. Đồng thời, có hình thức đưa khỏi các cơ quan những
cán bộ suy thoái tư tưởng, đạo đức hoặc năng lực, uy tín yếu kém, nhằm bảo
đảm cho cơng việc có kết quả và tăng niềm tin của quần chúng đối với cơ quan
công quyền.
- Chế độ tiền lương phải thực sự khuyến khích người có tài năng, làm
việc có hiệu quả. Khắc phục tình trạng tiền lương thấp, có tính bình qn hiện
nay. Đồng thời phải thực hiện tiền tệ hoá đầy đủ tiền lương.
- Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng phải đổi mới, xuất phát từ yêu
cầu, nhiệm vụ và đào tạo chuyên sâu. Tránh đào tạo tràn lan nhưng chất lượng,
kiến thức hạn chế, khơng góp phần nâng cao chất lượng công tác được giao…
III. Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng
Nhà nước pháp quyền hiện nay.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện
nay, yêu cầu của cải cách tư pháp phải tiến hành đồng bộ cả về thể chế, tổ chức,
đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan tư pháp ở các cấp và phải được đặt
trong tổng thể đổi mới của cả hệ thống chính trị. Nội dung đẩy mạnh cải cách tư
pháp hiện nay có nhiều nội dung, yêu cầu cụ thể, trong đó cần tập trung vào
những vấn đề sau đây:
1. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững

chắc cho hoạt động tư pháp. Trong khi xây dựng mới và sửa đổi, bổ sung các
luật tố tụng (Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự….) các luật tổ
chức cơ quan tư pháp, Bộ luật Dân sự (sửa đổi)… phải phù hợp với nền kinh tế


thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và
tương thích với pháp luật quốc tế hiện hành, cũng như đáp ứng yêu cầu hợp tác
song phương, đa phương của nước ta. Trong tổ chức hoạt động của toà án nhân
dân phải sửa đổi theo hướng tăng thẩm quyền xét xử cấp huyện, tiến tới thực
hiện toà án theo hai cấp xét xử và nghiên cứu việc thành lập toà án khu vực, bảo
đảm xét xử có hiệu quả. Đối với hoạt động của Viện kiểm sát, tập trung làm tốt
chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiên quyết khắc phục vấn đề
bức xúc hiện nay là tình trạng xử oan sai bỏ, lọt tội phạm, biểu hiện tiêu cực
trong quá trình xét xử
2. Đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu
về chất lượng và số lượng.
Đây là nội dung rất quan trọng và cấp bách. Thực trạng đội ngũ cán bộ tư
pháp của ta hiện nay về chất lượng và số lượng chưa thật đáp ứng với yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nếu khơng có sự quan tâm
đầu tư, đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp thì có thể nói sẽ ảnh
hưởng rất lớn tới nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bởi lẽ yêu cầu và
nhiệm vụ mới đặt ra nhiều vấn đề địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ tư pháp có đủ
năng lực trình độ mới giải quyết được những vấn đề thực tế đặt ra, không những
ở các cơ quan, ban, ngành trung ương mà cả ở các cơ sở. Vì vậy, vấn đề đặt ra
là phải sớm có quy hoạch phù hợp, có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo. sử dụng
đúng khả năng, yêu cầu. Đồng thời, phải coi trọng và tăng cường việc quản lý,
kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ tư pháp để họ thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao. Mặt khác, cũng cần phải chú ý tới những đặc thù nghề nghiệp để có tiêu
chuẩn, chế độ phù hợp đối với đội ngũ cán bộ này.
Vừa qua, đội ngũ cán bộ tư pháp nước ta có những cố gắng cụ thể, hoàn

thành tốt nhiệm vụ. Nhưng qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua những
vụ tiêu cực, phạm pháp bị phát hiện và đưa ra xét xử, chúng ta thấy, một bộ
phận cán bộ trong ngành tư pháp có năng lực hạn chế, khi xử lý cơng việc còn
lúng túng, bị động, bản lĩnh thiếu vững vàng, có khơng ít người biến chất, bị


đồng tiền mua chuộc, nên khi điều tra, xét xử thiếu công tâm, khách quan….
Đây là vấn đề cần phải được đặc biệt quan tâm và khắc phục kịp thời trong thời
gian tới.
Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng là người có cơng lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Ở
cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến
pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được ghi trang trọng trong Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Đó là tư tưởng về "tất cả quyền
bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống,
gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo"; tư tưởng về "nhân dân có quyền phúc
quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia"; tư tưởng về
"Chính phủ là cơng bộc của dân". Nhà nước của nhân dân thì "bao nhiêu quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân". Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa
vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì điều tối
thượng có tính nguyên tắc là quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Quốc hội
và HĐND các cấp chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc sử dụng quyền lực,
trong đó có một việc mở đầu rất quan trọng, quyết định chất lượng hoạt động
của Nhà nước là việc bầu các chức danh của Nhà nước. Là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội và các đại
biểu Quốc hội phải thấy rõ trách nhiệm trước cử tri. Cử tri bầu ra các đại biểu
thay mặt cho toàn thể đồng bào quyết định nhiều vấn đề liên quan đến sự tồn

vong của quốc gia. Người đại biểu của dân mà thiếu trí tuệ, bản lĩnh, khơng dám
nói lên nguyện vọng và địi hỏi chính đáng của dân - thực chất là vận mệnh của
đất nước - thì ngồi ở nghị trường, họ chỉ là hư danh. Cho dù nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND các cấp, và nhân dân ủy


×