Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN đấu TRANH GIAI cấp và VAI TRÒ của nó TRONG sự PHÁT TRIỂN của xã hội có GIAI cấp TRONG tác PHẨM TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.38 KB, 17 trang )

VỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP
TRONG TÁC PHẨM “ TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
Gần 170 năm trôi qua kể từ ngày “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” ra đời
loài người đã chứng kiến những biến đổi mang tính cách mạng hết sức sâu sắc trên
hành tinh chúng ta. Cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại đã mở ra thời đại mới trong
lịch sử nhân loại: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi tồn thế giới. Hình thái kinh tế - Xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa đựơc xây dựng theo những nguyên lý của chủ nghĩa
xã hội khoa học đã trở thành hiện thực sinh động. “Tuyên ngơn của Đảng Cộng
Sản” có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng, một tác phẩm khơng dài nhưng đã nói lên
đầy đủ mục đích, quan điểm, ý đồ của những người cộng sản. Nội dung của tuyên
ngôn chứa đựng rất nhiều tư tưởng quý giá, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực triết
học , kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong đó phảỉ kể đến những
tư tưởng đặc biệt sâu sắc về giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhất là tư tưởng về giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản, cuộc đấu tranh của hai giai cấp đó.
Tác phẩm “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” do Các Mác và Ph. ăngGhen
viết vào tháng chạp 1847- tháng giêng 1848 và đã in lần đầu tiên thành sách ở Luân
Đôn vào tháng hai 1848. Trang đầu “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” khảng
định: “Chủ nghĩa cộng sản đã được tất cả các thế lực ở châu âu thừa nhận là một
thế lực.
Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải cơng khai trình bày trứơc
tồn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một tun
ngơn của Đảng của mình để đáp lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.
Vì mục đích đó, những người cộng sản thuộc các dân tộc khác nhau đã họp
ở Luân Đôn và thảo ra bản “Tuyên ngôn” dưới đây, công bố bằng tiếng Anh, tiếng
Pháp, tiếng Đức, tiếng I- Ta- Li - A, tiếng Phala- Măng và tiếng Đan Mạch” (1).1
Các Mác và Ph.ăngghen: Tồn tập.
Nhà Xuất bản chính trị quốc gia- Hà Nội- 1995 tập 4. Trang 595
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
1 sản. nxb sự thật Hà Nội, 1974


1


Vào giữa những năm 40 thế kỷ XIX ở Tây âu là thời kỳ chủ nghĩa Tư bản
đã bước sang giai đoạn phát triển mới nhờ tác động của đại cơng nghiệp cơ khí.
Nước Anh đã trở thành cường quốc Tư bản chủ nghĩa lớn nhất với lực lượng công
nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp đang được hoàn thành, ở
Đức và một số nước Tây âu khác cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho
phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa lớn lên nhanh chóng trong lòng xã hội
phong kiến. “Giai cấp Tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế
kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất
của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Sự phát triển của những phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa càng làm tăng thêm những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa
tư bản
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức tư bản chủ nghĩa đã trở nên khơng thể
điều hồ đựơc. Những mâu thuẫn giai cấp vốn có của xã hội tư bản mà trứơc hết
là mâu thuẫn giữa vô sản và giai cấp tư bản ngày càng gay gắt.
Phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ, giai cấp vô sản đã khảng định là
lực lượng to lớn, có vai trị quan trọng trong đời sống chính trị xã hội. Phong trào
hiến chương ở Anh, khởi nghĩa của công nhân Liông ở Pháp, khởi nghĩa của thợ
dệt ở Xi- lê -di Đức... Đã chứng tỏ điều đó. Giữa những năm 40 của thế kỷ XIX,
trung tâm của phong trào cách mạng chuyển sang Đức . Nhưng họ lại chưa nhận
thức ra sứ mệnh trong tiến trình lịch sử và chưa thấy con đường biện pháp giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội . Phong trào vơ sản tây âu lúc đó cịn mạng tính
chất tự phát và thiếu tổ chức, chưa được soi sáng bởi một lý luận cách mạng khoa
học . Nên lúc này chịu ảnh hưởng các học thuyết xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa không tưởng với những đại biển xuất sắc như Xanh - Xi- Mơng, Phuriê, Ơoen, mặc dù họ có đóng góp trong phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nhưng
không đáp ứng đựơc yêu cầu của phong trào vô sản. Phong trào vơ sản rất cần
phải có một học thuyết cách mạng và khoa học trên lập trường vô sản.
Trong quá trình hoạt động lý luận và đấu tranh cách mạng C.Mác ăngghen

đã nhận thức sâu sắc rằng giai cấp vô sản cần phải trở thành một lực lượng độc lập,
có một Đảng vơ sản triệt để cách mạng, có cơ sở lý luận đúng đắn. Chỉ có một
Đảng như vậy giai cấp vô sản mới thực hiện đựơc sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính vì thế, đầu năm 1846, C.Mác và Ph. ằngghen đã thành lập uỷ ban thông tin
cộng sản ở Brúcxen để tuyên truyền rộng rãi tư tưởng cng sn ch ngha cng c
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
2 sản. nxb sự thËt Hµ Néi, 1974


mối liên lạc với những người công nhân tiên tiến và trí thức cách mạng. Các ơng
cũng đã cố gắng thành lập thêm, những uỷ ban như vậy ở nhiều nơi khác.
Đến cuối năm 1846, các nhà lãnh đạo liên minh những người chính nghiã
(Ra đời từ 1936 bao gồm những người vô sản tiến tiến thuộc nhiều dân tộc) thừa
nhận rằng chỉ có Mác và ăngghen mới có khả năng đem lại cho các tổ chức công
nhân một phương hướng đúng đắn. Sau khi họ kêu gọi triệu tập, một đại hội Quốc
tế Cộng sản, họ vấp phải một loạt khó khăn trong việc khởỉ thảo cương lĩnh cho
đại hội và họ Quyết định nhờ Mác, ăngghen giúp đỡ. Đầu năm 1947, liên minh đã
cử Giô- dép Môn. Một trong những người lãnh đạo liên minh, đến Brlúcxen gặp
Mác và sang PaRi gặp ăngghen để đề nghị hai ông gia nhập liên minh , tham gia dự
thảo cương lĩnh và các căn kiện khác. Mác và ăngghen thấy rõ rằng họ thực sự sẵn
sàng muốn cải tổ lại tổ chức này nên đã đồng ý gia nhập với hy vọng cải tổ liên
minh thành một Đảng vô sản triệt để theo những nguyên lý của học thuýêt cách
mạng mới.
Đại hội liên minh những người chính nghĩa đã họp tai Luân Đôn vào đầu
tháng 06 năm 1847. Mác không đến dự, chỉ có Ăngghen đến dự. Tại đại hội này
liên minh đã đổi tên thành Liên đoàn những người cộng sản. Thực chất đây là đại
hội sáng lập tổ chức mới. Một bản điều lệ mới do Ăngghen dự thảo đã đựơc thơng
qua. Ăngghen đã đưa ra luận điểm có tính cương lĩnh vào trong bản điều lệ, mà
khoản đầu tiên đã nêu mục đích của của liên đồn theo tinh thần của cách mạng
cộng sản khoa học: Đánh đổ giai cấp tư sản; dành chính quyền về tay giai cấp vô

sản; thủ tiêu xã hội tư sản , xây dựng xã hội mới khơng có giai cấp và khơng có chế
độ tư hữu; khẩu hiệu có tính chất tiểu tư sản, siêu giai cấp “Tất cả mọi người đều là
anh em” đựơc thay bằng khẩu hiệu có tính chiến đấu và cách mạng “Vơ sản tất cả
các nước đồn kết lại”. Đây là một sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh
nhằm thành lập một Đảng vô sản.
Liên đồn những người cộng sản cần phải có cương lĩnh, do đó cần triệu tập
đại hội lần thứ hai. Ban chấp hành TW yêu cầu Mác phải có mặt tại đại hội. Mác
và Ăngghen nhận rõ ý nghĩa của đại hội này, mà trong đó rứt khốt xỗ bỏ những
trở ngại để khảng định những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học và lập
trường cuả tổ chức vô sản quốc tế. Cả hai ông đều đựơc cử là i biu i d i
hi.
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
3 sản. nxb sự thật Hµ Néi, 1974


Trong thời gian chuẩn bị đại hội Ban chấp hành TW đã soạn thảo cương lĩnh
dự thảo và gửi cho các chi bộ thảo luận. Bản dự thảo đó khơng đựơc tán thành,
ngay cả bản dự thảo “ cải tiến” sau đó cũng bị coi là chưa đạt. Theo sự uỷ nhiệm
của các thành viên của liên đoàn ở Pa Ri, Ăngghen đã viết bản dự thảo khác và đặt
tên là “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” . Giữ nguyên hình thức vấn đáp
của cương lĩnh dự thảo, về nội dung bứơc đầu Ăngghen đã phác thảo những luận
điểm có tính chất cương lĩnh và sách lựơc quan trọng nhất của Đảng vô sản.
Ăngghen và Mác đến thống nhất khi soạn thảo cương lĩnh thì phải làm cho nó
mang hình thức một bản tun ngơn có tính chiến đấu của Đảng cộng sản.
Đại hội lần thứ hai của liên đoàn những người cộng sản họp từ 9/11 đến
08/12/1847. Trong đại hội những nguyên lý do hai ông đưa ra đã giành thắng lợi
hoàn toàn. Mác và Ăngghen đựơc uỷ nhiệm soạn thảo cương lĩnh dưới hình thức
một bản tun ngơn. Hai ơngđã tập trung sức lực, trí tuệ để hồn thành và xt bản
“Tun ngơn của Đảng cộng sản”.
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ra đời đúng vào lúc có cuộc cách mạng

tháng hai ở Pháp năm 1948.
“Tuyên ngơn của Đảng Cộng Sản” đựơc trình bày làm 4 chương với nội
dung rất phong phú và rất cô đọng.
Chương I Tư Sản và Vô sản.
C. Mác và Ph ăngghen đi sâu vào phân tích và chỉ rõ sự vận động nội tại
khách quan của xã hội tư bản tất yếu dẫn đến xụp đổ của giai cấp tư sản và thắng
lợi của giai cấp vô sản , giai cấp vơ sản có vai trị sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ
nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản , khảng định đấu tranh giai cấp là
quy luật trong xã hội có giai cấp , đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng
xã hội, đây là động lực chính của sự vận động phát triển xã hội và nguồn gốc sâu
xa của đấu tranh giai cấp chính là mâu thuẫn từ đời sống kinh tế . C. Mác và Ph
ăngghen khảng định sự phát triển mạnh mẽ chưa từng có của lực lượng sản xuất tư
bản chủ nghĩa, chính sự phát triển này dẫn đến mâu thuẫn khơng điều hồ giữa tính
tư hữu xã hội và tính chất xã hội của nền sản xuất. Sự phát triển của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa chính nó tạo ra tiền đề khách quan để thủ tiêu chính nó , giai cấp
tư sản khơng những tự rèn ra vũ khí giết mình mà cịn tạo ra người sử dng v khớ
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
4 sản. nxb sự thật Hà Nội, 1974


ấy; hai ông chỉ rõ địa vị kinh tế của giai cấp vô sản , cuộc đấu tranh của giai cấp
vơ sản mang tính quốc tế , mặc dù lúc đầu nó mang hình thức dân tộc.
Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản.
Trong chương này hai ông chỉ rõ cách mạng vô sản không chỉ về cách mạng
chính trị mà thực chất là cách mạng về kinh tế nhằm xoá bỏ chế độ tư hữu, mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đó là cuộc cách mạng khác các cuộc cách
mạng là nó đã đoạn tuyệt triệt để không chỉ chế độ sở hữu cổ truyền và tư tưởng cổ
truyền; chỉ rõ Đảng cộng sản là một bộ phận của giai cấp vô sản, nhưng là bộ phận
tiên phong, người cộng sản khác người vô sản về thực tiễn và khác về lý luận ;
khẳng định giai cấp vô sản mỗi nước phải tự xây dựng thành giai cấp dân tộc, để

giành chính quyền ở nước mình, phải xố bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân
tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xoá bỏ , và một khi đối kháng trong nội bộ
dân tộc khơng cịn thì sự thù địch cũng mất theo, trong chương này C. Mác và Ph
ăngghen còn đưa ra một số biện pháp áp dụng trong giai đoạn đầu của hình thái
kinh tế xã hội chủ nghĩa ra đời.
Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
C. Mác và Ph ăngghen đã giành tồn bộ chương này để phân
tích và phê phán các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghiã và cộng sản chủ nghĩa
ngồi Mác Xít đang cịn ảnh hưởng một cách tích cực vào phong trào cơng nhân
lúc bấy giờ, phê phán chủ nghĩa xã hội phản động, chủ nghĩa xã hội phong kiến, tư
sản, chân chính; phê bình chủ nghĩa xã hội bảo thủ , nó ln tìm cách duy trì chủ
nghĩa tư bản và bảo chữa cho giai cấp tư sản, phủ nhận đấu tranh cách mạng sẽ
thay thế chủ nghĩa tư bản; phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng, không đứng
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật, khơng chỉ ra đựơc vai trị sứ mệnh lịch sử
thế giới của giai cấp công nhân và quy luật khách quan, con đường biện pháp cảỉ
tạo xã hội.
Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các Đảng đối lập.
Trong chương này hai ơng đã trình bày một cách rõ ràng lập trường chiến
lựơc và sách lựơc của Đảng cộng sản đó là cách mạng khơng ngừng, tinh thần triệt
để, là sách lựơc liên minh với Đảng dân chủ trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện
sự tiến bộ xã hội.
(1)

“Vơ sản tất cả các nước đồn kt li
C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
5 sản. nxb sự thật Hà Nội, 1974


Khẩu hiệu chiến đấu của những người cộng sản kết thúc bản tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, khẳng định niềm tin sắt đá vào thắng lợi tương lai của giai cấp

vô sản quốc tế và chủ nghĩa cộng sản.
Trong các lần tái bản, C.Mác và ăngghen viết nhưng lời tựa có những nội
dung lý luận sâu sắc, bổ xung nhiều vấn đề mà trước đó tun ngơn chưa đề cập
đựơc. Do đó là tư tưởng cơ bản và chủ đạo của tuyên ngôn. Trong lời tựa viết cho
bản tiếng Đức xuất bản năm 1883 do ăngghen viết tại Luân Đôn , 28/06/1883
là:”Thật buồn cho tơi là phải một mình ký tên dưới lời tựa cho lần xuất bản này.
Mác, người tồn thể thế giai cấp cơng nhân châu Âu và châu Mỹ phải chịu ơn
nhiều hơn bất cứ ai, bây giờ đã n nghỉ... đo đó tơi càng thấy cần nêu rõ ràng một
lần nữa điều sau đây.
“Tư tưởng cơ bản chủ đạo của tuyên ngôn là:
Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất
yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra- cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính
trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy ; do đó( từ chế độ cơng hữu ruộng đất
ngun thuỷ tan rã), tồn bộ lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các
giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và giai
cấp thống trị , qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; những cuộc đấu
tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bóc lột và bị áp bức(tức là giai
cấp vơ sản) khơng cịn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức
mình (tức là giai cấp vô sản ) đựơc nữa nên không đồng thời và vĩnh viễn giải
phóng tồn thể xã hội khỏi ách bóclột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh
giai cấp- tư tưởng chủ chốt ấy hoàn toàn và tuyệt đối là của Mác.
Tôi đã nhiều lần tuyên bố như thế, nhưng bây giờ lời tuyên bố ấy cũng cần
đựơc ghi lên đầu tuyên ngôn” (1). Tư tưởng cơ bản này quán xuyến trong toàn bộ
tác phẩm
Thời đại xã hội thị tộc - Bộ lạc loài người chưa phân chia thành các giai cấp.
Cuối thời thị tộc - Bộ lạc , trong nội bộ các cộng đồng ngừơi dân , dần dần hình
thành các giai cấp và các cuộc đấu tranh không ngừng diễn ra lúc ngấm ngầm,
lúc công khai , quan hệ giữa người và người đã thay đổi căn bản. Trước Mác đã có
những tác phẩm nổi tiếng về đề tài giai cấp và đấu tranh giai cấp do nhiều nhà
sử, học kinh tế học tư sản như Chie, Ghido,Minhe,vv... Phn ln tha nhn s

(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
6 sản. nxb sự thËt Hµ Néi, 1974


tồn tại của giai cấp , song các tác phẩm đó đều tránh đến vấn đề cơ bản, đặc biệt là
vấn đề quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. C.Mác là người đầu tiên chứng minh , sự
tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất. Các xã hội có đối kháng lần lượt thay thế nhau trong lịch sử.
Mỗi kiểu xã hội có kết cấu xã hội, giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai
giai cấp cơ bản
đối lập nhau. Những điều kiện trên trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” khảng
định ngay ở trong chương đầu tiên “Tư sản và vô sản” rằng: “Lịch sử tất cả các xã
hội tồn tại từ trước đến nay. [tức là toàn bộ lịch sử thành văn cho đến nay. Năm
1847 người ta hồn tồn khơng biết tổ chức xã hội có trước tồn bộ lịch sử thành
văn. Tức là tiền sử của xã hội . Sau đó Hắc- Xtơ-han-den đã phát hiện ra chế độ
cơng hữu ruộng đất ở Nga. Man- Rơ đã chứng minh rằng chế độ công hữu ruộng
đất là cái cơ sở xã hội làm điểm xuất phát cho sự phát triển của lịch sử của tất cả
các Bộ lạc Đức và người ta dần dần thấy rằng công xã nông thôn, với chế độ sở
hữu chung ruộng đất đang là hoặc đã là hình thức nguyên thuỷ của xã hộỉ ở khắp
nơi, từ ấn Độ đến Ai-Sơ- Len hình thức điển hình của kết cấu nội Bộ của xã hội
cộng sản nguyên thuỷ đó đã đựơc Móc gan làm sáng tỏ khi ông phát hiện đựơc
thực chất của thị tộc và địa vị của nó trong Bộ lạc. Cùng với sự tan rã của công xã
nguyên thuỷ ấy xã hội bắt đầu phân chia thành những giai cấp riêng biệt và cuối
cùng là đối kháng. Tơi đã cố gắng trình bày q trình tan rã đó trong tác phẩm
“nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nứơc” xuất bản lần thứ 2
Stút - gát- 1886. (chú giải của ăngghen cho lần xuất bản “tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” bằng tiếng Anh năm 1888 )]. Chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nơ lệ , q tộc và bình dân, chúa đất và nô lệ , thợ cả
phường hội và thợ bạn , nói tóm lại , những kẻ áp bức và những người bị áp bức,
luôn luôn đối kháng nhau , đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công

khai lúc ngấm ngầm một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cải
tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc diệt vong của giai cấp đấu tranh với nhau”. (1)
“Đặc điểm của thời đại chúng ta , thời đại của giai cấp tư sản ... xã hội ngày càng
chia thành hai phe lớn thù địch nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối nghịch nhau :
giai cấp tư sản và giai cố vô sản” (2).

(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
7 sản. nxb sự thật Hà Nội, 1974


“Giai cấp tư sản là giai cấp những nhà tư bản hiện đại, những người sở hữu
tư liệu sản xuất xã hội và sử dụng lao động làm thuê. Giai cấp vô sản là giai cấp
những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên
buộc phải bán sức lao động của mình để sống” (chú thích của Ăngghen cho lần
xuất bản “tuyên ngôn của Đảng cộng sản “ bằng tiếng Anh năm 1888)
“Trong những thời đại lịch sử trước, hầu khắp mọi nơi, chúng ta đều thấy
xã hội hoàn toàn chia thành những đẳng cấp khác nhau, một cái thang chia thành
từng nấc thang địa vị xã hội. ở La Ma thời cổ đại , chúng ta thấy có quý tộc, hiệp
sỹ, bình dân, nơ lệ; thời trung cổ thì có lãnh chúa phong kiến, chủ hầu, thợ cả, thợ
bạn, nông nô và hơn nữa hầu như trong một giai cấp ấy, lại có những thứ đặc biệt
nữa.
Xã hội tư sản hiện đại sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt
vong, khơng xố bỏ đựơc những đối kháng giai cấp. nó chỉ đem lại những giai
cấp mới , những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều
kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi” (1).
“Tất cả những xã hội trứơc kia như chúng ta đã thấy , đều dựa trên sự đối
kháng giữa các giai cấp áp bức, với các giai cấp bị áp bức. Nhưng muốn áp bức
một giai cấp ấy những điều kiện sinh sống khiến cho họ, chí ít cũng có thể sống
đựơc trong vịng nơ lệ. Người nông nô trong chế độ nông nô, đã tiến tới chỗ trở
nên một thành viên của công xã, cũng như người tiểu tư sản đã vươn tới địa vị

người tư sản, dưới ách của chế độ chuyên chế, phong kiến. Người công nhân hiện
đại trái lại, đã không vươn lên đựơc cùng với sự tiến bộ của công nghiệp, mà cịn
ln ln rơi xuống thấp hơn, dưới cả những điều kiện sinh sống của chính giai
cấp họ”. (2)“Xã hội không thể sống đựơc dưới sự thống trị của giai cấp tư sản nữa,
như thế có nghĩa là sự tồn tại của giai cấp tư sản khơngcịn tương dung với sự tồn
tại của xã hội nữa” (3). “Như vậy, cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp,
chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của
nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. trước hết giai cấp tư sản sinh ra
những người đào huyệt chơn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi
của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”. (4)
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai
cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mỡnh, cỏc giai cp tng lp
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
8 sản. nxb sù thËt Hµ Néi, 1974


bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ cịn bị áp bức về chính trị,
xã hội và tinh thần . Lợi ích của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai
cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp đi áp bức bóc lột
và những giai cấp bị áp bức bóc lột; đối kháng đó là nguyên nhân của đấu tranh
giai cấp; có áp bức thì có đấu tranh. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý
thuyết nào tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh đựơc trong xã hội có áp
bức giai cấp . Như vậy nguồn gốc sâu xa cuộc đấu tranh giai cấp đó lại nằm trong
đời sống kinh tế . Tất cả những điều đó,

(1) C. Mác và ph Ăngghen - tồn tập. nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1995 T4 trang 597
(2),(3) C. Mác và ph Ăngghen - tồn tập. nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1995 T4 trang 612
(4) C. Mác và ph Ăngghen - tồn tập. nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1995 T4 trang 613

những nhà xã hội chủ nghĩa trước Mác không chỉ ra đựơc và không giải thích

đựơc. Một trong những tư tưởng vĩ đại và cao cả mang đầy đủ tính nhân văn của
tun ngơn là “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của
mình thành một luận điểm duy nhất là: xoá bỏ chế độ tư hữu” (1) và xoá bỏ tư hữu
“chỉ là biểu hiện khái quát của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có của một sự vận
động lịch sử đang diễn ra” (2)
Thực tế xã hội lồi người khơng bắt đầu từ chế độ tư hữu. Sự xuất hiện chế
độ tư hữu đầu tiên. Là sự phụ định chế độ công hữu nguyên thuỷ trên cơ sở của
chính sách sự phát triển của sức sản xuất xã hội. Trong chặng đường khá dài của
lịch sử, bản thân chế độ tư hữu cũng không ngừng phủ định lẫn nhau để chuyển
hoá một cách tự phát từ chế độ tư hữu của giai cấp chủ nô đến chế độ tư hửu
phong kiến và chế độ tư hửu tư sản . Sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản
xuất tất yếu sẽ dẫn đến sự phủ định chế độ tư hữu tư sản để làm xuất hiện một
chế độ sở hữu mới phù hợp với trình độ xã hội hố của lực lượng sản xuất, đó là
chế độ sở hữu chung ( sở hữu cộng sản) của người lao động. Đây là quy luật vận
động khách quan của lịch sử . Vì thế việc phủ định chế độ tư hữu hồn tồn
khơng phải riêng có của chủ nghĩa cộng sản mà các thời đại trước, quá trình đó đã
từng bước diễn ra. Tuy nhiên như “Tun ngơn của Đảng cộng sản” nhấn mạnh :
(1) C. M¸c và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
9 sản. nxb sù thËt Hµ Néi, 1974


“chế độ tư hữu tư sản hiện thời là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương
thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ
sở những người này bóc lột những người kia”. (3) “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng
sản khơng phải là xố bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư
sản” (4). Đó là hình thức sở hữu biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương
thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên cơ sở người bóc lột người . và thực
tiễn lịch sử đã khảng định. Song nếu q trình đó lại diễn ra khơng đúng quy luật
về sự thích ứng của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, bất chấp quy luật
khách quan , bất chấp hiệu quả kinh tế thì cũng khơng có chủ nghĩa xã hội đích

thực, khơng đúng với tư tưởng của Mác và Ăngghen đã nêu trong bản “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản”.
Đấu tranh giai cấp trong lịch sử và trong thời đại mới thực chất là “cuộc
đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức về lao động, chống bọn đặc
quyền, đặc lợi bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công
nhân làm thuê hay những người vô sản chống những ngừơi hữu sản hay giai cấp
tư sản”
Các cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử ,vào các giai cấp tham gia đấu tranh, và giai đoạn
phát triển của cuộc đấu tranh . Trong thời đại ngày nay, hình thức đấu ranh giai
cấp càng đa dạng, phức tạp.
Trong xã hội tư bản mới hình thành , đấu tranh giai cấp lúc đầu điễn ra dưới
hình thức đấu tranh riêng lẻ cục bộ, tự phát. Có ba hình thức đấu tranh cơ bản là :
đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Đấu tranh của cơng nhân
chỉ trở thành đấu tranh giai cấp thực sự khi nó phát triển thành cuộc đấu tranh
tồn quốc hoặc ít nhất có quy mơ rộng lớn , nhằm chống lại quyền lực chính trị
của cả giai cấp tư sản . Với ý nghĩa đó “Tun ngơn của Đảng cộng sản” khảng
định “Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng là một cuộc đấu tranh chính trị “ (1)
tức là giai cấp cơng nhân phải tiến lên đấu tranh chính trị để giành quyền tự do
dân chủ và cuối cùng giành chính quyền. Để bảo đảm cuộc đấu tranh tự giải
phóng đến thắng lợi cuối cùng, giai cấp cơng nhân phải có học thuyết cách mạng
và khoa học soi đường, phải tổ chức chính Đảng của mình, phải trở thành một giai
cấp tự giác và có tổ chức.
(1) C. M¸c và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
10 sản. nxb sù thËt Hµ Néi, 1974


Trong quan hệ giưã các giai cấp có đấu tranh giai cấp và liên minh giai
cấp . Liên minh giai cấp là sự liên kết giữa một số giai cấp để cùng đấu tranh bảo
vệ lợi ích chung nhất thời hoặc lâu dài. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai

cấp nông dân và các tầng lớp lao động chân tay và trí óc khác là liên minh chiến
lược lâu dài . Trong cách mạng tư sản, liên minh giữa giai cấp tư sản với công nhân
và nông dân là liên minh nhất thời và trong nội bộ khối liên minh này có đối
kháng giữa tư bản và lao động.
áp bức là nguyên nhân căn bản. Sâu xa của áp bức dân tộc . Hiện tượng dân tộc
này thống trị, áp bức dân tộc khác trong lịch sử về thực chất là giai cấp thống trị
của dân tộc này áp bức dân tộc khác mà bộ phận bị áp bức nặng nề nhất là nhân
dân lao động cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản , dù về
nội dung , không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc nhưng lúc đầu lại mang hình
thức đấu tranh dân tộc đương nhiên là trước hết giai cấp vơ sản mỗi nước phải
thanh tốn xong giai cấp tư sản nước mình đã.“hãy xố bỏ tình trạng người bóc lột
người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ xố bỏ” (2). “ Khi
mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù
địch giửa các dân tộc cũng đồng thời mất theo”. (3)
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của các
xã hội có giai cấp. Xuất phát từ quan điểm xem xét sự vận động nội tại của
phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của toàn bộ lịch sử xã hội. C. Mác và
PhĂngghen chứng minh rằng, sản xuất vật chất để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người và xã hội loài người là “hành động lịch sử đầu tiên” của con
người.
Tác động biện chứng giữa cải tiến sản xuất với nhu cầu không ngừng tăng
lên là động lực phát triển cơ bản thường xuyên của tất cả xã hội trong một quan
hệ sản xuất nhất định . Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
điều kiện cơ bản để sản xuất phát triển thuận lợi, tạo cơ sở cho sự phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội. Khi quan hệ sản xuất khơng cịn phù hợp với lực lượng
sản xuất thì nó trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, dẫn đến những cuộc
khủng hoảng phá hoại lực lượng sản xuất. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp ,
những quan hệ lỗi thời không tự nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới. Chúng
đựơc giai cấp thống trị bảo vệ bằng tất cả sức mạnh chính trị. kinh tế và tư tưởng,
đặc biệt là bằng bạo lực có tổ chức , muốn thay đổi quan hệ sản xuất gii phúng

(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
11 sản. nxb sự thật Hà Nội, 1974


sức sản xuất phải gạt bỏ lực lượng lớn lao ấy. Điều đó chỉ có thể thực hiện qua
đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.Xuất phát từ quan điểm xem xét sự vận
động nội tại của phương thức sản xuất quýêt định sự phát triển của toàn xã hội
trong tuyên ngôn C. Mác và Phăng ghen đã xem đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao
của thời kỳ cách mạng , như là địn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế xã hội, do đó
“đấu tranh giai cấp .” là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp. Lịch
sử nhân loại đã chứng minh vai trò to lớn của đấu tranh giai cấp chống áp bức
bóclột .Thời cổ đại nếu khơng có các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của hàng
chục vạn nơ lệ và tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nơ thì chế độ nơ lệ dù
đã thối
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tồn tập. nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1995 T4
trang 624
(2) C. Mác và ph Ăngghen - tồn tập. nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1995 T4
trang 624
nát cũng không thể sụp đổ . Cuối xã hội phong kiến các phong trào đấu tranh của
nơng dân , thợ thủ cơng, thương nhân trí thức... do giai cấp tư sản lãnh đạo đã
dẫn đến cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII là sụp đổ chế
độ phong kiến đưa xã hội chuyển sang thời đại tư sản.
“Trong tất cả các giai cấp hiện đang dối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vơ sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn
và diệt vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là
sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. (1) Cuộc đấu tranh giai cấp do giai
cấp công nhân tiến hành là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử loài
người. Cuộc đấu tranh giai cấp phát triển tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản.
Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành đựơc chính quyền ,
đấu tranh giai cấp chưa biến mất mà tiếp tục diễn ra gay go phức tạp trong điều

kiện mới. Như vậy trong “tuyên ngôn của Đảng cộng sản” các ông đã khảng định
quy luật đấu tranh giai cấp trong các xã hội có giai cấp và các cuộc đấu tranh đó
bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cách mạng xã hội. Xã hội ngày càng chia
thành hai phe lớn thù địch với nhau hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản . Cuộc đấu tranh giữa hai giai cp l ng lc chớnh
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
12 sản. nxb sự thật Hµ Néi, 1974


của sự vận động đi lên của xã hội. Tất nhiên nguồn gốc sâu xa của cuộc đáu tranh
đó lại nằm trong đời sống kinh tế. Tất cả những điều đó, những nhà xã hội chủ
nghĩa trước Mác khơng chỉ ra đựơc và khơng giải thích đựơc.
* Tác phẩm tun ngơn của Đảng cộng sản có ý nghĩa lịch sử vô cùng lớn
lao. Là tác phẩm lý luận tổng kết tồn bộ q trình hình thành chủ nghĩa Mác, trình
bày những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai
cấp vơ sản, sự chín muồi của chủ nghĩa xã hội khoa học và là sự tuyên bố về sự
cáo chung của các trào lưu XHCN khơng tưởng trước Mác, đồng thời là cương
lĩnh có tính cách mạng đầu tiên của Đảng cộng sản soi sáng cho giai cấp công
nhân tất cả các nước con đường đấu tranh thốt khỏi ách nơ lệ tư bản chủ nghĩa,
tiến tới một xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh và tốt đẹp hơn. Năm 1888 , ăng
ghen khẳng định tuyên ngôn là tác phẩm phổ biến hơn cả trong tất cả các văn
phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh chung của hàng triệu cơng nhân từ Xi
bia đến Caliphocnia. Lê Nin viết về tuyên ngôn như sau: “cuốn sách nhỏ ấy có giá
trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó đến bây giờ, vẫn cịn cổ vũ và thúc đẩy
tồn giai cấp vơ sản . Có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới cần văn minh”. .
Tuyên ngôn đã đang và sẽ là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản,
nhằm thực hiện chủ nghĩa cộng sản .Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế chứng thực nhận định của ăng ghen cho rằng bất cứ một Đảng công nhân
nào, hễ đi chệch cương lĩnh sách lựơc đó trong hoạt động của mình thì đều phải trả

ngay một giá đắt. Nhưng điều đó khơng có nghĩa là sao chép máy móc ngun lý
của tuyên ngôn bất chấp những biến đổi lịch sử đang diễn ra. Tuyên ngôn là một
tài liệu lịch sử, người ta khơng thể sửa đổi đựơc, điều đó ăng ghen đã thừa nhận .
Đồng thời ông chỉ rõ rằng mặc dù hồn cảnh lịch sử đã có nhiều thay đổi ,
nhưng xét về đại thể những nguyên lý tổng qt được trình bày trong tun ngơn
vẫn cịn hồn tồn đúng; ở đơi chỗ có một vài chi tiết cần phải xem lại. Năm 1872,
các ơng cịn nhấn mạnh , chính ngay trong tun ngơn cũng đã giải thích rõ ràng,
bất cứ ở đâu và bất lúc nào , việc áp dụng những ngun lý đó cũng phải tuỳ theo
hồn cảnh lịch sử đương thời , và do đó khơng nên quá câu nệ những biện pháp
cách mạng nêu ra ở cuối chương II.
Trong thời đại ngày nay, các thế lực phản động quốc tế đang dùng mọi thủ
đoạn để tấn công vào chủ nghĩa Mác. Lợi dụng cuộc khủng hong ca ch ngha
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
13 sản. nxb sự thật Hà Néi, 1974


xã hội thế giới hiện nay, chúng ra sức phủ nhận tính đúng đắn của các nguyên lý
Mácxít mà phần lớn đựơc trình bày ở trong tun ngơn. Hơn lúc nào hết, tuyên
ngôn trở thành tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt những người Mác xít chân
chính và nững kẻ giả danh Mác xít. Những thắng lợi của lịch sử cách mạng Việt
Nam chứng tỏ rằng Đảng ta luôn luôn vận dụng một cách sáng tạo những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” vào điều kiện cụ
thể của nước ta. Ngay từ những năm 1929 đến 1930, các chiến sỹ cộng sản đã bí
mật truyền tay nhau đọc và phổ biến ngay trong nhà tù đế quốc, “ Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản ” đã được Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam
vận dụng khi xây dựng cương lĩnh, đường lối chiến lược và sách lược của cách
mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nứơc ta, xã hội vẫn tồn tại lâu dài các giai
cấp, các mâu thuẫn giai cấp . Đấu tranh giai cấp là thực tế khách quan không thể
tránh khỏi vấn đề không phải là lảng tránh danh từ đấu tranh giai cấp , mà là nhận

thức cho đúng tính chất nội dung hình thức của cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn các
quan hệ xã hội giai cấp .
* Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I X của Đảng cộng sản Việt
Nam cho rằng: “Trong thời kỳ q độ , có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau , nhưng cơ cấu
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta thay đổi nhiều cùng với những
biến đổi to lớn về kinh tế xã hội” mối quan hệ giữa các giai cấp các tầng lớp xã
hội ta hiện nay là “quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết
và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo
của Đảng” điều đó xuất phát từ chỗ “lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghiã xã
hội, dân giầu nứơc mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” (1).
“Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã
hội chủ nghĩa , khắc phục tình trạng nứơc nghèo, kém phát triển , thực hiện công
bằng xã hội, chống áp bức bất công đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư
tưởng và hành động tiêu cực sai trái, đấu tranh là thất bại âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch , bảo vệ độc lập dân tộc , xây dựng nứơc ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc” (2).
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
14 sản. nxb sự thật Hà Nội, 1974


Điều đó cho thấy Đảng ta đã vận dụng một cách đúng đắn sáng tạo nguyên
lý đấu tranh giai cấp trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản “ và các nguyên lý của
chủ nghĩa Mác- Lệnin. Đấu tranh giai cấp suy đến cùng là nhằm giải phóng lực
lượng sản xuất, là đảm bảo sự phồn vinh cho đất nứơc, hạnh phúc cho nhân dân
.Mục tiêu giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật
chất là nội dung căn bản. Do đó hình thức biện pháp đấu tranh giai cấp giai đoạn
hiện nay là lấy giáo dục thuyết phục, nêu gương là chính , đấu tranh bằng các biện

pháp hồ bình là căn bản. Giải quyết các mâu thuẫn giai cấp trên cơ sở thống nhất
lợi ích chung, tạo nên sự thống nhất về chính trị tư tưởng, đại đoàn kết toàn dân
làm nguồn sức mạnh đất nứơc tiến lên.
(1),(2) Văn kiện đại hội Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam
Trên thế giới, những mâu thuẫn và đấu tranh giữa các giai cấp , các dân tộc ,
các quốc gia đang diễn ra với nhiều hình thức và diễn biến phúc tạp. Trong nứơc
các thế lực thù địch tiếp tục chống phá cách mạng bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt
.Các thế lực thù địch tiếp tay cho bọn phản động trong nước tiến hành bạo loạn lật
đổ gây rối “âm mưu diẫn biến hồ bình”bằng kinh tế, văn hốvv... Do đó tính chất
và diễn biến của cuộc đấu tranh giai cấp ở nứơc ta diễn ra dưới nhiều hình thức,
trong đó hình thức đấu tranh hồ bình, trên cơ hợp tác cùng phát triển là phổ biến
,đấu tranh trên mặt trận kinh tế là chủ yếu. Động lực chủ yếu phát triển đất nứơc
hiện nay “là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở giữa liên minh cơng nhân với nơng
dân trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hồ các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội, phát huy mọi tiền năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế , của xã hội”
(1)2 Điều này không trái với nguyên lý của ‘tuyên ngôn của Đảng cộng sản”của
chủ nghĩa duy vật lịch sử coi đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của các xã
hội có giai cấp. Bởi vì trong khi vẫn thừa nhận mâu thuẫn nói chung và mâu
thuẫn giai cấp vẫn là động lực phát triển xã hội ta hiện nay, thì xét đến cùng, lợi
ích cao nhất của dân tộc , của các giai tầng, và tầng lớp xã hội ở nứơc ta là thống
nhất ở mục tiêu chung: dân giầu nứơc mạnh , xã hội công bằng, dân chủ văn minh,
2

1. văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I X của Đảng cộng sn Vit Nam.
(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
15 sản. nxb sự thật Hà Nội, 1974


lợi ích của giai cấp cơng nhân phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân và của dân
tộc Việt Nam.Vì mục tiêu ấy, các giai cấp các tầng lớp có sự hợp tác để làm giầu

cho mình và cho đất nứơc, khảng định vị trí dân tộc , trên trường quốc tế . Mặt khác
đấu tranh giai cấp xét đến cùng nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
* Trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở nứơc ta hiện nay, ngồi cơng nhân, nơng
dân , trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác cịn có tư sản, đương nhiên
có mâu thuẫn về lợi ích với những ngừơi lao động làm thuê với tư sản , đây là
mâu thuẫn trong quan hệ giữa người làm thuê và bóc lột lao động làm thuê, song
trong điều kiện thời kỳ quá độ ở nứơc ta là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân .
Quan hệ giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với tư sản là quan hệ vừa
hợp tác vừa đấu tranh, đấu tranh với những khuynh hướng tiêu cực của giai cấp tư
sản. và hợp tác đoàn kết xây dựng xã hội dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cần
phải nắm vững quan điểm đấu tranh giai cấp trong “Tun ngơn của Đảng cộng
sản” đó là quan điểm cách mạng khoa học, sự tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp, sự
cường điệu hoá đấu tranh giai cấp đều trái quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin,
đều gây tổn hại cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nứơc ta.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nhân dân
ta phát triển trong bối cảnh lịch sử có những diễn biến rất năng động và phức tạp.
Cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc tiếp tục gay go quyết liệt ,nhất là
trên lĩnh vực chính trị tư tưởng. Những phát triển mới của tình hình và nhiệm vụ
đang thử thách , kiểm chứng rất nghiêm ngặt bản lĩnh chính trị, năng lực,trí tuệ,
chất lượng và hiệu quả tổ chức hoạt động thực tiễn của Đảng ta, củadân tộc ta, của
lực lượngvũ trang và mỗi người chúng ta. Trong quá trình đổi mới, việc kết hợp
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn nhằm bảo vệ và phát triển sáng tạo những
nguyên lý trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn mục tiêu và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Vịêt Nam, cụ thể hoá và hiện thực hố những
điều đó trong cuộc sống có ý nghiã đặc biệt quan trọng, đảm bảo cho đất nứơc
phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

(1) C. M¸c và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
16 sản. nxb sù thËt Hµ Néi, 1974


Như vậy “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản “ đã , đang và sẽ tiếp tục soi sáng
con đường chúng ta i.

(1) C. Mác và ph Ăngghen - tuyên ngôn của Đảng cộng
17 sản. nxb sự thật Hà Nội, 1974



×