Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.18 KB, 20 trang )

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
----1. Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã được gần 30 năm. Quá trình này đã thu được nhiều thành tựu rất
quan trọng, khẳng định đường lối và chính sách đổi mới của Đảng là đúng
đắn, đã tháo gỡ nhiều băn khoăn, e ngại trong tư tưởng và nhận thức đối với
một phương thức phát triển mới.
Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều vấn đề lý luận cơ bản về phương thức
phát triển mới này vẫn đang trong quá trình từng bước được cụ thể hoá. Sau
gần 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vẫn còn nhiều vấn đề, trong đó, có cả những vấn đề rất cơ bản và then
chốt về mối quan hệ giữa hai thành tố là kinh tế thị trường và định hướng xã
hội chủ nghĩa, về sự kết hợp chúng để tạo thành một phương thức mới để giải
quyết các vấn đề phát triển của Việt Nam, vẫn chậm được làm sáng rõ về mặt
lý luận.
2. Trước hết, phải khẳng định rằng, đối với nước ta, việc chuyển sang
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước
ngoặt thực tiễn. Đồng thời, đó cũng là sự đột phá lớn, rất táo bạo trong tư duy
lý luận của Đảng và trong nhận thức xã hội. Nội dung của sự đột phá đó thể
hiện ở hai khía cạnh sau:
Một là, thừa nhận một thực tế khách quan rằng, xét về mặt dài hạn, cơ
chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp không thể và không phải là cơ chế giải
quyết hiệu quả các vấn đề phát triển mà cuộc sống đặt ra và do vậy, nó cũng
không thể là cơ chế đáp ứng được yêu cầu thực hiện một cách bền vững các
mục tiêu xã hội chủ nghĩa của qúa trình phát triển xét về mặt dài hạn. Kết
luận này được xác nhận bằng kinh nghiệm lịch sử ở tất cả các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có Việt Nam.
Thừa nhận thực tiễn này cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với một cách hiểu,
một quan niệm lý luận không phù hợp về chủ nghĩa xã hội và con đường đi



lên chủ nghĩa xã hội ở một quốc gia cụ thể như Việt Nam. Tự mình, sự đoạn
tuyệt đó có ý nghĩa đột phá về mặt lý luận..
Hai là, theo một nghĩa xác định, đó là sự trở lại tư tưởng sử dụng các
quan hệ hàng hoá- tiền tệ để xây dựng chủ nghĩa xã hội mà V.I.Lênin đã đề ra
trong Chính sách Kinh tế mới (NEP), nhưng ở một tầm khái quát cao hơn và
mang tính sáng tạo - cụ thể: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chính là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quan niệm mới đó, vấn đề đặt ra không đơn thuần là sử dụng các
quan hệ hàng hoá - tiền tệ với tính cách là những công cụ cụ thể do lịch sử tạo
ra (trong các hình thái tiền xã hội chủ nghĩa) mà nhà nước vô sản cần và có
thể sử dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin quan niệm. ở cấp độ
khái quát cao hơn, kinh tế thị trường với tư cách là một thể chế kinh tế, một
hệ thống các lực lượng kinh tế và các chủ thể kinh tế, một nền kinh tế (chứ
không chỉ là những quan hệ - công cụ riêng biệt cụ thể), được quan niệm là
thành tố câú trúc nền tảng, nội tại của hệ thống kinh tế - xã hội đang phát
triển theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời, cũng là cấu trúc thực
hiện các mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong quá trình đó. Chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là lựa chọn một phương
thức phát triển mới so với trước. Từ đó, mở ra và từng bước định hình một
cách tiếp cận mới về tư duy phát triển, về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong bối cảnh phù hợp với đặc thù của Việt Nam.
3. Thực tế gần 20 năm đổi mới kinh tế ở Việt Nam (và hơn 20 năm cải
cách, mở cửa ở Trung Quốc) cho thấy việc chuyển sang nền kinh tế thị trường
đã giải quyết các vấn đề phát triển và đáp ứng các mục tiêu xã hội chủ nghĩa
một cách hiệu quả hơn nhiều so với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đó là:
- Trong khi cơ chế kế hoạch hoá tập trung đẩy nền kinh tế lâm vào trì
trệ và khủng hoảng, thì việc áp dụng cơ chế thị trường đã đưa nền kinh tế
thoát khỏi tình trạng đó;



- Với việc áp dụng cơ chế thị trường - mở cửa, sức sản xuất xã hội được
giải phóng, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian
dài. Đây là những kết quả hiếm thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung;
- Lợi ích do tăng trưởng cao mang lại được phân phối rộng khắp, theo
định hướng từng bước gắn liền tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ
xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Cả ở Việt Nam và Trung Quốc, tỷ lệ
người đói nghèo giảm xuống nhanh một cách kỷ lục, đến mức được Ngân
hàng Thế giới và UNDP đánh giá là "ngoạn mục".
- Mở cửa nền kinh tế và chủ động hội nhập quốc tế đã đem lại nhiều cơ
hội phát triển mới, mạnh mẽ từ bên ngoài cho phát triển đất nước và nâng cao
phúc lợi cho nhân dân. Thông qua đó, hình ảnh quốc gia được cải thiện tích
cực, thế và lực của đất nước không ngừng tăng lên.
- Chế độ chính trị được giữ vững, xã hội ổn định vững chắc; quản lý
phát triển được tăng cường; niềm tin của dân vào triển vọng của đất nước
không ngừng được nâng cao.
Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường tự nó không thể mang lại
những kết quả tích cực như vậy. Nhìn lại thực tế đổi mới và cải cách kinh tế
trong hai thập niên qua ở Trung Quốc và Việt Nam, có thể nhận định rằng để
đạt được những kết quả tích cực nói trên, còn cần có những điều kiện tiên
quyết khác. Đó là:
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
- Vai trò quản lý và điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa;
- Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế chuyển đổi.
Sự so sánh thực chứng giữa các nền kinh tế chuyển đổi ở một loạt nước
trong gần hai thập niên qua cho phép nhận định: không có những điều kiện
tiên quyết đó, không thể có tính chất xã hội chủ nghĩa của quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường.
4. Nhưng về mặt lý luận, vẫn cần phải làm rõ: sự kết hợp giữa kinh tế
thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa trong một phương thức phát triển

mới có phải là tất yếu lịch sử đối với Việt Nam ?


Để trả lời vấn đề này, xin được nêu một số ý kiến sơ bộ sau :
Một trong những nguyên tắc cơ bản của tư duy biện chứng là phải giải
thích tính tất yếu bằng những vấn đề thực tiễn và trên cơ sở các tiền đề thực
tiễn. Các luận đề lý luận của C.Mác, của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác,
như chính các ông đã nhiều lần căn dặn, không phải là những nguyên tắc,
nguyên lý bất di bất dịch, do vậy, không nên hiểu chúng một cách giáo điều,
cứng nhắc. Chính là phải căn cứ vào thực tiễn và tổng kết thực tiễn sinh động,
để hiểu đúng lý luận và bổ sung, sáng tạo chúng cho phù hợp với thực tiễn.
Trong trường hợp của Việt Nam, việc áp dụng nguyên tắc đó cho phép
lập luận về tính tất yếu của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa như sau :
Thứ nhất, cách thức cải biến căn bản và có hiệu quả của một nước có
nền nước nông nghiệp lạc hậu, thành một nước công nghiệp, như kinh nghiệm
lịch sử thế giới cho thấy, là phải phát triển nền kinh tế thị trường. Việt Nam
không thể là một ngoại lệ của sự lựa chọn này. Điều đó có nghĩa rằng, chuyển
sang kinh tế thị trường là sự lựa chọn đúng đắn để giải quyết tốt các bài toán
phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ hai, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa
có tiền lệ trong lịch sử. Vấn đề đặt ra là: những tiền đề lịch sử - thực tiễn nào
quy định sự chọn định hướng đó ?
Để trả lời câu hỏi trên, trong trường hợp nước ta, cần khẳng định những
tiền đề thực tiễn đặc thù của sự lựa chọn đó. Đó là tiền đề chính trị - xã hội
của Việt Nam:
+ Sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng lãnh đạo đất nước
có địa vị lịch sử đặc biệt trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam, với
vai trò dẫn dắt quá trình phát triển xã hội, đã giành được sự tín nhiệm tuyệt
đối của toàn dân tộc. Không thể phủ nhận thực tế lịch sử là: sự tồn tại của lực

lượng chính trị tiên phong đó là một tiền đề lịch sử góp phần quyết định định
hướng phát triển của nền kinh tế của dân tộc Việt Nam, nhất là ở khía cạnh
định hướng mục tiêu của quá trình phát triển.


Với tiền đề chính trị là Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, việc lựa
chọn phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa trở thành một tất yếu lịch sử của
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Nhân dân Việt Nam thực sự không chấp nhận một sự lựa chọn phát
triển theo định hướng tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, ở nước ta, giữa lực lượng lãnh đạo chính trị và nhân dân (xã
hội) có sự đồng thuận mạnh mẽ trong việc lựa chọn định hướng phát triển. Sự
đồng thuận này đến lượt nó, trở thành tiền đề chính trị - xã hội, quy định việc
lựa chọn định hướng phát triển của đất nước.
5. Về mặt lý luận và thực tiễn cần phải khẳng định, kinh tế thị trường
không đồng nhất hoặc là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù sự phát
triển của kinh tế thị trường có gắn bó chặt chẽ với các giai đoạn phát triển của
chủ nghĩa tư bản, nhưng nó không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Kinh tế
thị trường tồn tại và phát triển khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển một
cách phổ biến trong nền kinh tế trên các nguyên tắc của thị trường, tức là có
quan hệ hàng hoá- tiền tệ, giá cả hình thành trên thị trường và được quyết
định bởi quan hệ cung - cầu trên thị trường,... Kinh tế thị trường tồn tại và phát
triển trong chủ nghĩa tư bản và cả trong chủ nghĩa xã hội. Vì lẽ đó, kinh tế thị
trường không chỉ dung hợp với chủ nghĩa tư bản mà còn dung hợp được với
chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường chỉ là phương thức phát triển kinh tế dựa
trên những nguyên tắc của thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Nó không
thể quyết định bản chất và định hướng phát triển của một chế độ xã hội. Bản
chất của chế độ chính trị - xã hội quyết định bản chất của nền kinh tế thị
trường.
Có thể khẳng định, chỉ phát triển có hiệu quả nền kinh tế thị trường

hiện đại thì mới có khả năng thực hiện thành công công nghiệp hoá rút ngắn
ở Việt Nam. Kinh tế thị trường phải là một yếu tố nội tại bền vững trong mô
hình kinh tế tổng quát định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Không nên
quan niệm chỉ là "mượn" hoặc sử dụng kinh tế thị trường như là một yếu tố
ngoại lai, đứng bên ngoài mô hình phát triển kinh tế. Nền kinh tế định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta không thể là nền kinh tế phi thị trường. Nhiệm vụ
trung tâm của đất nước ta trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI là phát triển kinh
tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để về cơ bản trở thành một nước


công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát
triển ngày càng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở những giai đoạn sau.
Trên thế giới có nhiều nước vẫn nằm trong danh sách các nước nghèo. Điều
kiện để thoát khỏi danh sách này là phải thành công trong phát triển kinh tế
thị trường và thực hiện công nghiệp hoá. Hiện nay, trên thế giới, số nước
thành công còn rất ít ỏi. Là một nước đi sau, Việt Nam phải lựa chọn và thực
thi một mô hình phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá rút
ngắn theo hướng hiện đại không được phép thất bại. Đây là một thử thách rất
lớn mà Việt Nam phải đối mặt trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay vừa tạo
cơ hội, vừa gây bất lợi cho những nước đi sau, chậm phát triển.
6. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình chuyển sang
nền kinh tế thị trường, tự nó cũng đã phác hoạ đậm nét bản chất của nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam.
Tư duy mới của Đảng về cấu trúc tổng thể mô hình phát triển kinh tế
thị trường ở nước ta được thể hiện và phát triển trong các Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ VI, VII, VIII và IX là đủ rõ ràng trên những định hướng cơ bản,
có tính nguyên tắc. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua đã luận giải
cơ sở khoa học và thực tiễn của tính tất yếu khách quan của sự lựa chọn con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, phân tích các đặc trưng thuộc về bản chất

của xã hội xã hội chủ nghĩa và những quan điểm tổng quát về phát triển kinh
tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tính định hướng xã
hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế thị trường (hay nói một cách khác, là
bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) ở nước
ta, theo chúng tôi, được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:
- Mục tiêu của sự phát triển và tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong
phát triển kinh tế-xã hội quy định quá trình phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta phải là “qúa trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại
trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ
áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sông ấm no, tự do,
hạnh phúc”; “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” vừa
là mục tiêu, vừa là nội dung của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Đảng và Nhà nước ta khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm
giàu một cách hợp pháp. Người giàu trước tạo điều kiện, giúp đỡ những người
khác cũng giàu lên. Dân có giàu thì nước mới mạnh.
Nhưng không thể làm cho "dân giàu, nước mạnh", nếu không có tăng
trưởng kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Và không
thể có tăng trưởng kinh tế, nếu không phát triển và quản lý có hiệu quả nền
kinh tế thị trường. Chỉ có phát triển có hiệu quả và bền vững nền kinh tế thị
trường trong quá trình thực thi các chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đất
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mới tạo được cơ sở kinh tế bảo
đảm cho phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chỉ có sức
mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(chứ không phải chỉ duy nhất là kinh tế quốc doanh như đã có thời lầm
tưởng). Cần phải tạo môi trường và cơ chế, chính sách động viên, khuyến
khích mạnh mẽ mọi người dân mang hết tài năng và nghị lực để làm giàu

chính đáng cho gia đình và cho đất nước trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường, công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
nền kinh tế hỗn hợp được cấu thành từ nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế cùng tồn tại trong một thể thống nhất, trong đó, công hữu phải
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc và chế độ cổ phần dần dần trở thành
hình thức của kinh tế công hữu. Không thể có nền kinh tế định hướng xã hội
chủ nghĩa, nếu trong nó không có chế độ công hữu với tư cách là nền tảng.
Theo quan niệm của C.Mác, sở hữu công cộng (chế độ công hữu) là sở
hữu được xã hội hoá và mang tính xã hội trực tiếp. Công hữu phải từng bước
trở thành nền tảng vững chắc. Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc. Nó
không chỉ đúng cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, mà cũng đúng cho nền kinh
tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, vai trò nền tảng của nó
trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa chưa thể đậm nét như trong
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Xét thực chất, đây là sự khác biệt về mức độ,
quy mô và sự tác động.


Những hình thức sở hữu và thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được dựa trên hai hình thức sở hữu cơ
bản là sở hữu công cộng (công hữu) và sở hữu tư nhân (tư hữu). Còn sở hữu
hỗn hợp được hình thành trên cơ sở đan xen, hỗn hợp giữa các hình thức sở
hữu và kết quả của sự hợp tác, liên doanh giữa các chủ sở hữu khác nhau là
Nhà nước, tập thể (nhóm) và tư nhân. Công hữu ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc, các hình thức sở hữu khác cùng phát triển mạnh mẽ không
hạn chế và đan xen, hỗn hợp với nhau theo luật định cần được xem là chế độ
kinh tế cơ bản của giai đoạn phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Trước đây, theo quan niệm truyền thống các hình thức sở hữu là đơn

nhất: nhà nước, tập thể hoặc tư nhân. Trong gần 20 năm đổi mới, kinh tế hỗn
hợp đang được hình thành và từng bước phát triển.. Vì thế, công hữu không
chỉ bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể đơn nhất, mà còn bao gồm cả
phần sở hữu nhà nước hoặc tập thể trong kinh tế hỗn hợp. Cũng như vậy, tư
hữu không chỉ bao gồm sở hữu tư nhân đơn nhất, mà còn bao gồm cả phần sở
hữu của tư nhân trong kinh tế hỗn hợp. Trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hình thức đơn nhất của công
hữu có xu hướng giảm, nhưng ý nghĩa nền tảng của công hữu ngày càng được
củng cố vững chắc và được tăng cường ở những lĩnh vực then chốt, thể hiện ở
chỗ:
- Vốn của kinh tế công hữu (bao gồm vốn của kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể và phần vốn của công hữu trong kinh tế hỗn hợp) phải chiếm ưu thế
trong tổng vốn xã hội.
- Kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt và có vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế.
Một yêu cầu khách quan của thị trường và kinh tế thị trường đặt ra cho
tất cả các chủ sở hữu là phải xác nhận và xác định quyền sở hữu dưới dạng
tiền tệ những đóng góp về tài sản, tiền vốn, trí tuệ,... vào kinh doanh nhằm
lượng hoá quyền sở hữu của từng chủ sở hữu. Không có quyền sở hữu chung
chung, vô chủ và cũng không có quyền sở hữu như nhau cho tất cả mọi người
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


- Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số
khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế- xã hội của
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều thành phần ở Việt Nam,
kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có
ý nghĩa là đài chỉ huy, là mạch máu của nền kinh tế. Không thể buông lơi vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đó là một vấn đề có tính nguyên tắc và

cũng là sự khác biệt về bản chất so với các mô hình kinh tế thị trường khác và
cũng là điều kiện để bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá
trình phát triển. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước phải được thể hiện
trước hết và chủ yếu ở sức mạnh định hướng, hỗ trợ và điều tiết nền kinh tế
(chứ không phải là quy mô và sự hiện diện của các doanh nghiệp 100% vốn
Nhà nước ở tất cả hoặc hầu hết ở mọi ngành, mọi lĩnh vực như trong nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp). Để phát huy vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước phải được cơ cấu lại theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 3 (khoá VIII) và Hội nghị Trung ương 9 (khoá IX) để nâng cao
sức cạnh tranh, chất lượng và hiệu quả.
Đồng thời với việc coi trọng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và
vai trò điều tiết của Nhà nước, không được xem nhẹ vai trò của các thành
phần kinh tế khác. Chúng được đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ trong
một thể thống nhất, không thể biệt lập và tách rời với kinh tế nhà nước ở tất
cả các giai đoạn phát triển và đều là những thực thể của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Những thành phần kinh tế này phải
được thực sự thừa nhận trên thực tế là những bộ phận cấu thành không thể
thiếu được của nền kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa và những
tổ chức kinh doanh thuộc chúng đều là những chủ thể kinh doanh, chủ thể
kinh tế thực hiện công nghiệp hóa rút ngắn theo hướng hiện đại ở nước ta.
Những doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế đều được khuyến
khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh trong khung khổ pháp luật và
được pháp luật bảo vệ quyền bình đẳng về cơ hội phát triển và lợi ích chính
đáng trong tiến trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với bảo đảm công bằng và
tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế và công bằng và tiến bộ xã hội là hai nội


dung của sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững ở nước ta. Chúng có
mối quan hệ tương tác, thúc đẩy và phụ thuộc vào nhau.

Tính định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải bảo đảm công bằng và
tiến bộ xã hội; thực hiện sự thống nhất và sự gắn bó hữu cơ giữa tăng trưởng
kinh tế, hiệu suất thị trường với công bằng và tiến bộ xã hội ở tất cả các giai
đoạn của sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Tăng trưởng kinh tế đồng
thời với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục vì mục tiêu phát triển con người
và mang đậm bản sắc của đất nước và con người Việt Nam là những nội dung
cấu thành của phát triển nhanh, hiệu qủa, hiện đại và bền vững theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là công bằng. Nhưng chủ nghĩa xã hội
còn có một đòi hỏi khác. Đó là tăng trưởng và phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững. Thiếu một trong hai vế, chủ nghĩa xã hội không phải là một tất yếu.
Song, cũng cần nhấn mạnh rằng, công bằng xã hội trong kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác biệt hẳn về
bản chất đối với chủ nghĩa bình quân, cào bằng thu nhập và chia đều sự đói
nghèo cho mọi người. Không thể có chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội
chủ nghĩa, nếu đất nước vẫn trong tình trạng đói nghèo, chậm phát triển.
Chủ nghĩa xã hội "hiện thực" trước đây trong nhiều trường hợp đã giải
quyết không tốt vấn đề công bằng kinh tế. Trong thực tiễn, cơ chế thực hiện
công bằng đó (kế hoạch hóa tập trung) có khuynh hướng dẫn tới sự cào bằng,
"bình quân". Cách hiểu này là căn gốc lý luận của thực tế phân phối bình quân
sự đói nghèo và thiếu hụt cho mọi người, của việc thủ tiêu động lực phát triển
của chính chủ nghĩa xã hội.
Ngược lại, trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta,
cách thức phân phối ngày càng ít bình quân - cào bằng đã giúp giải quyết cả
hai vấn đề: tăng trưởng và phát triển nhanh, đồng thời, nâng cao phúc lợi cho
tất cả mọi người, đưa nhiều người thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với hai kết quả
này, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường thật sự đồng hướng và thực hiện
tốt những mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề đặt ra. Đó là sự phân hóa giàu nghèo

(khoảng cách giàu nghèo doãng ra và sẽ là cơ sở sâu xa tiềm ẩn những bất


bình đẳng xã hội tiềm tàng khác). Xu hướng này, xét "tĩnh tại' , không phù
hợp với mục đích tối cao (cuối cùng) của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trên quan
điểm định hướng xã hội chủ nghĩa, có hai vấn đề cơ bản đặt ra hiện nay:
Một là, hiểu như thế nào về công bằng trong nền kinh tế thị trường.
Hai là, hiểu thế nào là công bằng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai vấn đề này có thể được cụ thể hóa thành hàng loạt câu hỏi. Thí dụ:
- Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phân phối của nền kinh tế thị
trường được thể hiện ở những nội dung nào ?
- Cần làm gì và làm như thế nào để cơ chế kinh tế và chế độ phân phối
có thể bảo đảm tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh gắn liền với công bằng
xã hội trong từng bước phát triển?
- Nhà nước làm gì, với công cụ nào để kiềm chế bóc lột, thúc đẩy xóa
đói giảm nghèo để thực hiện được trên thực tế định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển ?
Thực sự đây là những câu hỏi không dễ trả lời. Thực tế cho thấy trong
thời gian qua, sự lúng túng trong nhận thức bản chất của nền kinh tế thị
trường ở nước ta cũng như thái độ thị trường thiếu triệt để trong việc hoạch
định và thực thi chính sách, một phần quan trọng bắt nguồn từ việc chưa trả
lời trực diện và rõ ràng các câu hỏi nêu trên.
Chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, cần có cách tiếp cận mới đến vấn đề
công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xin nêu
một vài gợi ý sơ bộ như sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu
tăng trưởng và phát triển (mục tiêu thoát khỏi tụt hậu phát triển cho dân tộc
Việt Nam) và mục tiêu công bằng xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.
Thứ hai, cần quan niệm công bằng xã hội trước hết là sự bình đẳng về

cơ hội phát triển và dân chủ hóa đời sống kinh tế- xã hội của mọi người dân,
mọi chủ thể kinh tế và mọi vùng, miền của đất nước. Đồng thời, cũng cần
phải chấp nhận ở mức độ nào đó, nhất định về sự chênh lệch trong trình độ
phát triển, chênh lệch trong thu nhập chính đáng, chênh lệch về trình độ dân


trí trong những thời gian cụ thể, vùng, miền cụ thể, các tầng lớp dân cư cụ
thể. Dĩ nhiên, không cho phép độ doãng của sự chênh lệch này làm tổn hại
đến ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Chấp nhận chênh lệch để từng
bước thu hẹp sự chênh lệch trong mỗi bước phát triển cụ thể của đất nước là
một thực tế khách quan trong phát triển ở nước ta.
Thứ ba, cần trả lời câu hỏi Nhà nước phải làm gì và làm như thế nào để
sự hoạt động của thị trường thực sự phục vụ có hiệu qủa người nghèo. hỗ trợ
phát triển cho các vùng chậm phát triển, các xã nghèo và chặn đứng, xóa bỏ
nạn tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân. Xuất phát từ các tiền đề thực tiễn
(thừa nhận thị trường), từ nguyên lý lý luận (phân định đúng chức năng Nhà
nước - thị trường), chúng tôi cho rằng, đây là cách đặt vấn đề tích cực, biện
chứng để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội.
- Lấy phân phối thu nhập theo hiệu qủa kinh doanh và năng suất lao
động là chính, các hình thức phân phối thu nhập theo vốn, tài sản, trí tuệ
(chất xám) và phúc lợi xã hội cùng tồn tại và phát triển
Lao động là nguồn gốc chính tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội, sự giàu có của mọi quốc gia. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước chủ trương lấy
phân phối theo năng suất lao động là chính. Hình thức phân phối thu nhập này
phải là cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Người lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao phải có thu
nhập cao hơn. Cần tạo mọi điều kiện và môi trường thuận lợi và bình đẳng để
mọi người làm giàu chính đáng bằng kết quả lao động của chính bản thân
mình. Mở rộng cơ hội và nâng cao năng lực lựa chọn cơ hội phát triển cho
mọi người dân để họ từng bước sống khá giả và sau đó giàu có về mặt vật

chất và văn hóa là mục tiêu và là nét đặc trưng thuộc về bản chất của sự phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Thu nhập theo vốn, tài sản và trí tuệ bỏ ra kinh doanh đã được luật
pháp thừa nhận. Chỉ có trên cơ sở đó, mới kích thích nhiều người làm giàu
chính đáng. Tăng số người giàu, giảm tối đa số người nghèo, không có những
người đói trong xã hội và đồng thời giảm dần độ doãng của sự chênh lệch
giàu nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung trọng yếu của các chính sách
phân phối và phân phối lại thu nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


- Khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới,
Nhà nước của nền kinh tế thị trường ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để
bảo đảm giữ vững định hưởng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh
tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất của Nhà nước ta và
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình phát triển là
một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế
thị trường hướng tới ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác
hiện có. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam phải là tác nhân quyết định thành công của sự phát triển rút ngắn bền
vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để
làm tròn sứ mệnh mà lịch sử và dân tộc Việt Nam giao phó, Đảng và Nhà
nước phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý đất nước và xã hội trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hoá, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị
trường ở nước ta có thể còn được thể hiện ở những điểm khác nữa. Nhưng
theo chúng tôi, những điểm được đề cập trên là cốt lõi nhất.

7. Về điều kiện và cơ chế bảo đảm thực hiện định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường.
- Chế độ kinh tế - xã hội là một tổng thể bao gồm kết cấu kinh tế, kết
cấu xã hội và kết cấu thượng tầng kiến trúc. Trục "tam giác" phát triển này có
quan hệ nhân quả, quy định lẫn nhau. Để nền kinh tế thị trường phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, điều kiện bảo đảm tiên quyết chính là phát
triển cân đối, đồng hướng, đồng nhịp một cách bền vững giữa các bộ phận
cấu thành nói riêng và cấu trúc tổng thể nói chung. Các quá trình phát triển,
quản lý kinh tế thị trường, xã hội dân sự và định hướng chính trị của sự phát
triển này ở nước ta không được "lệch pha" và xung đột lẫn nhau. Đây là yêu
cầu tổng thể đặt ra cho nhiệm vụ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.
Nhưng thực tế cho thấy trong xu thế tiến lên chung của đất nước, các
kết cấu bộ phận nói trên không phải lúc nào cũng tiến đồng nhịp, đồng hướng
với nhau. Trong những năm qua, ở lĩnh vực kinh tế, rõ ràng đã có những bước


tiến, tuy chưa thật vững chắc, còn trong lĩnh vực xã hội , mặc dù có nhiều tiến
bộ nhưng vẫn còn không ít vấn đề nhức nhối, phát sinh nhiều hiện tượng
"lệch pha". Các tệ nạn xã hội, tình trạng suy thoái đạo đức, phân hoá giàu
nghèo, .v.v, có phần gia tăng; còn hệ thống giá trị mới vẫn chưa được định
hình. Hay như sự “lệch nhịp" giữa các quá trình đổi mới kinh tế và quá trình
đổi mới hệ thống chính trị: trong khi cơ chế kinh tế mới đã được xác lập từng
bước vững, chắc thì sự đổi mới của thể chế chính trị dường như vẫn chưa
tương xứng. Trong khuôn khổ một cuộc thử nghiệm lịch sử chưa có tiền lệ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề về
xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, điều
chỉnh chức năng quản lý của Nhà nước; vị trí, vai trò của các chủ thể kinh tế,
chủ thể xã hội và các giai tầng xã hội vẫn chưa được xác định thật rõ về mặt
lý luận cũng như trong tổ chức thực tiễn. Các vấn đề cơ bản của kết cấu
thượng tầng kiến trúc như xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống
chính trị, thể chế vận hành của cả hệ thống chính trị và từng bộ phận trong hệ
thống này, cải cách hành chính, tuy đã được đặt ra và có nhiều kết quả trong
giải quyết, song, vẫn chưa đạt được bước tiến mong đợi. Dường như đổi mới
hệ thống chính trị có phần chậm hơn và chưa đáp ứng thật tốt các yêu cầu của
đổi mới kinh tế?
Cần phải làm gì để tạo ra sự đồng nhịp, đồng hướng trong quá trình
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong nó bao
hàm cả những bước rút ngắn nhảy vọt?
- Về kết cấu kinh tế và cơ chế kinh tế: Phát triển kinh tế thị trường tức
là tạo lập cơ sở kinh tế cho xã hội quá độ, định hướng lên chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, điều kiện đầu tiên là phải xây dựng một kết cấu kinh tế thị trường
phù hợp, cho phép nó vận động một cách hiệu quả. Kết cấu này, như đã nói,
là đa sở hữu, đa thành phần, với lực lượng chủ đạo là kinh tế nhà nước, mở
cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Đối với nước ta hiện nay, xoay quanh chủ đề này, có 3 vấn đề thực
tiễn đặt ra :


- Phải làm gì để kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo mà
không làm tổn hại đến các nguyên tắc thị trường? Việc đẩy mạnh quá trình cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước thực hiện bằng cách nào, đi liền với những
quá trình nào để không làm tổn hại đến sức mạnh dẫn dắt phát triển của khu
vực kinh tế nhà nước?
- Phát triển kinh tế tư nhân như thế nào để vừa bảo đảm thị trường vận
hành hiệu quả, vừa không gây chệch hướng xã hội chủ nghĩa? Nhà nước hỗ
trợ, điều tiết và quản lý sự phát triển của khu vực tư nhân như thế nào để
khuyến khích sự phát triển vừa hiệu quả, vừa đúng định hướng của nó?
- Làm gì để đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một bộ phận hữu cơ,

các doanh nghiệp (FDI) trở thành những chủ thể phát triển đích thực của nền
kinh tế Việt Nam?
Việc trả lời những câu hỏi này chắc chắn gắn liền với việc tiếp tục đổi
mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó bảo đảm sự phối
hợp hiệu quả giữa nhà nước và thị trường, nhà nước và doanh nghiệp, nhà nước
với công dân trong tổ hợp chập bốn là: nhà nước, thị trường, doanh nghiệp,
công dân . Căn cứ vào thực tế phát triển gần đây, để tạo lập một cơ chế như
vậy, điều quan trọng nhất là cần phân định rõ chức năng của nhà nước và chức
năng của thị trường trong cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Có hai loại vấn đề cần tập trung xử lý là:
+ Ngăn chặn một cách hiệu quả và chắc chắn xu hướng phục hồi trở
lại của các yếu tố thuộc về cơ chế cũ như bao cấp, độc quyền và bảo hộ tràn
lan, xác định rõ phương hướng và cơ chế đầu tư của Nhà nước trong môi
trường thị trường - hội nhập và phù hợp với các nguyên tắc thị trường.
Nhiệm vụ thứ hai này bao gồm các nội dung cụ thể sau:

- Đầu tư công phải tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật
của nền kinh tế và xã hội, giúp cho các vùng nghèo, nhóm người nghèo
có các điều kiện "nhập cuộc thị trường" tối thiểu để họ có thể tự đứng
vững được trong cơ chế thị trường.
Quy hoạch phát triển của Nhà nước không được trở thành yếu tố cản trở
cơ chế tự điều tiết của thị trường. Nó phải căn cứ vào định hướng phát triển


chung của cả nền kinh tế và dựa vào nguyên tắc thị trường để triển khai thực
hiện.

- Các hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp (việc phân
phối các nguồn lực kinh doanh) phải được đặt dưới sự điều tiết của các
nguyên tắc thị trường và được chế tài bằng luật pháp.

+ Nhanh chóng tạo lập đồng bộ hệ thống thể chế của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng IX Đảng đã xác định đây là "khâu đột phá phát triển".
Tuy nhiên, do bước tiến đạt được trong quá trình này là rất chậm, nên cần
phải xem lại từ cách đặt vấn đề cho đến những vướng mắc cụ thể trong nhận
thức và hành động. Cho đến nay, sau gần 20 năm phát triển kinh tê thị
trường, vẫn tồn tại một nghịch lý là các nguồn đầu vào cơ bản như đất đai,
lao động, sản phẩm trí tuệ vẫn chưa vận động dưới hình thái thị trường, vẫn
chưa có thị trường chính thức để vận động. Một số nguyên tắc vận hành nền
tảng của cơ chế thị trường vẫn chậm được thể chế hoá, như cạnh tranh,
kiểm soát độc quyền giá cả được hình thành theo quan hệ cung - cầu và được
quyết định trên thị trường là phổ biến, vai trò phân bổ các nguồn lực của thị
trường và của Nhà nước, dân chủ hoá đời sống kinh tế. .
Cần phải có nhận thức mới và quyết tâm mới để đẩy mạnh việc xây
dựng đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các nghịch lý phát triển nói trên chỉ có thể được giải quyết bằng cách
tạo điều kiện để hệ thống thị trường, đặc biệt là thị trường đất đai, thị trường
vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ tự vận hành có
hiệu quả dưới sự quản lý của Nhà nước; các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền, bị phá sản nếu kinh doanh thua lỗ kéo dài, cần được coi là
những nhiệm vụ trọng tâm và ưu tiên hàng đầu của nỗ lực phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước hiện nay.
- Về kết cấu xã hội: Để kết cấu xã hội tiến đồng nhịp và phù hợp với
kết cấu của nền kinh tế thị trường định hưởng XHCN đang hình thành, trước
hết cần giải quyết tốt các vấn đề sau:


- Đẩy mạnh công cuộc xoá đói giám nghèo, giúp người nghèo có các
điều kiện cần thiết để có thể từng bước nhập cuộc vào quỹ đạo thị trường.

Đây là một trong những chức năng hoạt động chính của Nhà nước. Thị trường
vận hành dựa trên nguyên tắc tập trung đầu tư theo lợi thế. Vì vậy, người
nghèo, vùng nghèo dễ bị đặt ra ngoài lề phát triển. Để giúp người nghèo thoát
nghèo, điều kiện tiên quyết là Nhà nước tạo cho họ có đủ năng lực tối thiểu để
lựa chọn được những cơ hội phát triển mà Nhà nước và thị trường tạo ra. Đó
là cách để Nhà nước định hướng sự phát triển của thị trường phục vụ tốt hơn
cho người nghèo. Đó cũng là cách thức phối hợp giữa chức năng của Nhà
nước và chức năng của thị trường nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội no đủ
và công bằng theo định hướng đã chọn.
- Thu hẹp bất bình đẳng và tạo lập công bằng xã hội. Đây là một trong
những nội dung then chốt của định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua chức
năng thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao hiệu quả kinh tế, thị trường tạo ra cơ
sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ trên, song, tự nó lại không thể giải quyết tốt
vấn đề. Trong khi đó, với chức năng chủ động điều tiết các nguồn lực và của
cải xã hội, Nhà nước có điều kiện và trách nhiệm giải quyết vấn đề này.
Hiện nay, xu hướng gia tăng bất bình đẳng thu nhập - cơ sở kinh tế của
bất bình đẳng xã hội - đang là một thực tế của quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường. Kinh tế tăng trưởng càng nhanh, quá trình hội nhập quốc tế càng
được đẩy mạnh, thì chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng gia tăng.
Về nguyên tắc, xu hướng này lại ngược chiều với định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là mâu thuẫn nội tại của sự phát triển và phải được giải quyết từng
bước vững chắc trong quá trình phát triển và trên cơ sở của thành tựu phát
triển. Nếu không giải quyết thoả đáng mâu thuẫn này, sự vận động của nền
kinh tế có thể dẫn tới những kết quả trái ngược với mục tiêu đã định.
Cơ chế giải quyết mâu thuẫn đó là gì?
Không có câu trả lời đơn giản cho vấn đề này. Song, kinh nghiệm thế
giới cho thấy Nhà nước cần có đủ công cụ, sức mạnh và thể chế để thực thi
một cơ chế cho phép hãm chậm xu hướng phân hoá và từng bước thu hẹp
khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư. Đó là cơ chế sử dụng các công
cụ thuế, các chính sách xã hội, các chương trình phát triển ưu tiên dành cho

các vùng và nhóm xã hội ít lợi thế phát triển,... Vấn đề chỉ có thể xác định


giới hạn của sự can thiệp vào quá trình phân hoá xã hội thông qua cơ chế nhà
nước thích hợp với từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, sao cho nó không thủ
tiêu động lực phát triển do thị trường tạo ra. Một cơ chế hỗ trợ người nghèo
quá mức có thể làm cho người nghèo ỷ lại và gây ra những tác động tiêu cực
đến quá trình phát triển, vì nó làm xói mòn các động lực và kích thích làm
giàu trong xã hội.
- Bước quá độ từ xã hội nông dân - nông thôn truyền thống sang xã hội
thị trường hiện đại mang đặc trưng chuyển đổi và định hình hệ thống giá trị
mới. Trong quá trình này, việc xuất hiện xu hướng suy thoái, biến chất đạo
đức; hiện tượng suy giảm lòng tin,… là khó tránh khỏi, nhưng có thể (và cần
phải) hạn chế tối đa. Thêm vào đó, hàng loạt vấn đề nảy sinh từ quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quá trình đô thị hoá như thất nghiệp, sự xâm
nhập của các tệ nạn xã hội, sự biến đổi cấu trúc gia đình, quá tải trong việc
cung cấp dịch vụ công, là những cơ sở tiềm tàng gây bất ổn định xã hội, mà
một trong những căn nguyên của chúng chính là quá trình phát triển không
đồng bộ của kinh tế thị trường và những yếu kém trong quản lý của Nhà
nước.
Thực sự đây là hai mặt đối lập của cùng một quá trình phát triển. Cơ
chế và giải pháp xử lý vấn đề một cách hiệu quả chỉ có thể là chính thức thừa
nhận các quá trình diễn ra, đặt nó vào sự kiểm soát và điều tiết của pháp luật,
đồng thời, có các biện pháp chế ngự và giảm tối đa trong điều kiện nâng cao
năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước.
Mở rộng cơ hội phát triển cho xã hội, tạo điều kiện tiếp cận đến cơ hội
phát triển tối thiểu ngang bằng cho mọi người. Nhiệm vụ này gắn với mục
tiêu phát triển con người. Vì vậy, cần được đặc biệt quan tâm. Có thể nêu ra
các loại cơ hội chủ yếu sau:
+ Cơ hội việc làm và có thu nhập;

+ Cơ hội được chăm sóc sức khoẻ;
+ Cơ hội học tập và đào tạo;
+ Cơ hội được tham gia vào quá trình dân chủ hoá đời sống kinh tế -xã
hội của đất nước.


Về thực chất, đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó, Nhà nước
đóng vai trò đầu tư hỗ trợ và phát triển, tạo những cú hích ban đầu để thị
trường, doanh nghiệp và người dân cùng phối hợp để tạo cho mọi người dân,
đặc biệt là những người nghèo, những người yếu thế có điều kiện năng cao
năng lực để tự lựa chọn và thực hiện các cơ hội phát triển.
Cơ chế giải quyết loại nhiệm vụ này, do tính chất đặc thù của nó, không
thể chỉ trông chờ vào nguồn vốn của Nhà nước và theo cách thức tài trợ - chia
đều. Nó đòi hỏi sự tham gia rộng rãi của người dân và theo nguyên tắc
khuyến khích thị trường để bảo đảm hiệu quả. Tuy nhiên, cho đến nay,
nguyên lý này chưa vận hành tốt là do thiếu một cơ chế kết hợp hai yếu tố
trên một cách phù hợp. Đây vẫn là bài toán đang đặt ra cho chúng ta hôm nay.
- Kết cấu thượng tầng kiến trúc: Đối với một nước nghèo đi lên hiện đại
trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế như nước ta hiện nay,
việc thực hiện định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa đòi hỏi rất cao tính chủ
động và chịu trách nhiệm trước quốc gia và dân tộc của bộ máy lãnh đạo
Đảng và Nhà nước trong việc:
+ Lựa chọn đường lối và chiến lược phát triển.
+ Tổ chức và dẫn dắt nhân dân hành động.
Những lập luận này đều liên quan đến phương thức lãnh đạo của Đảng ,
điều hành và quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự tham gia của nhân dân trong
quá trình hoạch định và thực thi đường lối ,chiến lược và chính sách phát triển
nhanh ,hiệu quả và bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có
ba vấn đề lớn cần được giải quyết. Đó là:
Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống

chính trị và xã hội trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, điều chỉnh chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường, thực hiện cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã
hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa.


Thứ ba, vai trò và cơ chế để nhân dân làm chủ và tự giác tham gia vào
quá trình phát triển. Đối với nước ta, vai trò và chức năng lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước, sự tham gia làm chủ của nhân dân và các phương thức
thực hiện chúng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa dưới tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế,
chắc chắn sẽ mang nhiều nội dung mới và việc thực hiện nó đòi hỏi phải có
những đổi mới cơ bản và mạnh mẽ hơn trong thời gian tới để thúc đẩy sự tăng
trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đảng và Nhà nước luôn luôn là lực lượng chính trị quyết định định
hướng phát triển và tổ chức nhân dân thực hiện. Song, do điều kiện đã thay
đổi, nên phương thức lãnh đạo và thực hiện cũng cần phải được đổi mới và
điều chỉnh phù hợp. Việc làm rõ sự đổi mới và điều chỉnh này, xác định vai
trò cụ thể của các chủ thể kinh tế và chủ thể xã hội là rất cần thiết trong thời
gian tới.
Trong thời gian tới, cần tập trung làm rõ những vấn để lý luận và thực
tiễn cơ bản của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân
sự định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong một thể thống nhất, để trên cơ
sở đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, điều chỉnh chức năng của
Nhà nước, tạo lập các thiết chế làm chủ và giám sát của nhân dân.
Nếu không giải quyết từng bước những vấn đề nêu trên ở từng giai
đoạn phát triển của đất nước, thì hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nước, tính tích cực tham gia của các tổ chức xã hội và nhân dân vào

quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu
chắc chắn sẽ bị hạn chế.



×