Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Kinh tế thị trường và định hướng phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.09 KB, 17 trang )

Đề tài: Kinh tế thị trường và định hướng phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay của Đảng
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1. Những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường
1.1. Thể chế kinh tế thị trường.
1.1.1. Ưu điểm.
1.1.2. Hạn chế.
1.2. Quá trình đổi mới nhận thứ về kinh tế thị trường.
1.2.1. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới:
1.2.1.1. Cơ chế quản lý kinh tế.
1.2.1.2. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
1.2.2. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới
từ đại hội VI đến đại hội X.
1.2.2.1. Tư duy của Đảng từ đại hội VI đến đại hội VIII.
1.2.2.2. Tư duy của Đảng từ đại hội IX đến đại hội XI.
Chương 2. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là một tất yếu
khách quan
2.2. Thực trạng phát triển, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Những giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam

2.3.

KẾT LUẬN


LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết vào cuối thời kì cơng xã ngun thủy, đầu thời kì xã
hội nơ lệ lồi người đã có một bước nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật


chất.Trong sản xuất đã bắt đầu có sản xuất thặng dư, tức là phần sản phẩm nhảy
vọt quá phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra. Từ đó chế độ tư hữu được
xác lập, người lao động đã có thể làm chủ những sản phẩm dư thừa đó, mang trao
đổi với nhau.
Tuy nhiên, trải qua quá trình phát triển lâu dài, kinh tế thị trường được xác
lập. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa với nững đặc trưng riêng của nó là
người làm ra sản phẩm với mục đích đi bán (để trao đổi) chứ khơng phải tiêu dùng
hay ngẫu nhiên như trước.
Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của kinh tế hàng hóa, quan hệ hàng
hóa - tiền tệ trở nên phổ biến. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa, sản xuất để
trao đổi, gắn liền với sự phân công lao động và trình độ chun mơn hóa.
Như vậy kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đại là công trình
sáng tạo của lồi người trong q trình sản xuất và trao đổi đó là trình độ văn minh
mà nhân loại đạt được.Trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định “sản
xuất hàng hóa là thành tựu văn minh chung của nhân loại”, chúng ta không chỉ
kiên định “khơng bỏ qua kinh tế hàng hóa” mà cịn khẳng định kinh tế hàng hóa
cịn tồn tại khách quan cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng, trong dự hội thảo văn
kiện đại hội IX tiếp tục khẳng định “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là
mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường.
1.1. Thể chế kinh tế thị trường.
Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và
hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao
dịch, trao đổi trên thị trường.



Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các
quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá; các yếu tố
của sản xuất như đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao
động, công nghệ và quản lý; các sản phẩm và dịch vụ tạo ra; chất xám đều là đối
tượng mua bán, là hàng hoá
Kinh tế thị trường được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. khi các
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên
thị trường (người bán cần tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị
trường) thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó, các quan hệ
kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là
hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị
trường.
1.1.1. Ưu điểm
Với cách hiểu như trên ta có thể thấy kinh tế thị trường có một số ưu điểm
như sau:
- Kinh tế thị trường thúc đẩy việc cải tiến kĩ thuật tăng năng suất lao động làm cho
sản phẩm hàng hoá phong phú đa dạng , giá thành hạ, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển nhanh. Bởi mục đích của người sản xuất hàng hố là có lãi cao nhất, do
đó họ phải làm thế nào để có giá trị cá biệt của hàng hoá là thấp nhất. Muốn vậy,
họ phải tăng năng suất lao động. Vì vậy phải cải tiến kĩ thuật, nâng cao trình độ tay
nghề, tổ chức quản lý sản xuất trong đó yếu tố quan trọng nhất, yếu tố có tính chất
quyết định là kĩ thuật. Cải tiến kĩ thuật lúc đầu ứng dụng ở từng người, từng xí
nghiệp sau lan rộng ra tồn xã hội làm xuất hiện một ngành mới. Và như vậy lực
lượng sản xuất đã phát triển thêm một bước.
- Kinh tế thị trường thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển nhanh chóng
làm cho sự chun mơn hố và hiệp tác hố ngày càng cao. Do đó, q trình xã hội
hoá sản xuất, xã hội hoá lao động phát triển nhanh. Đó là xu hướng phát triển của
nền kinh tế hiện đại.

- Kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất cao độ, các mối
quan hệ kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển
nhanh.
1.1.2. Hạn chế.
Mặc dù với những ưu điểm không thể phủ nhận như trên, nền kinh tế thị trường
cũng không tránh khỏi những khuyết tật cố hữu.
- Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục đích của các


chủ thể kinh tế. Vì lợi nhuận kích thích các chủ thể kinh tế năng động, ra sức cải
tiến kĩ thuật, hợp lý hố sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề làm sản phẩm hàng
hoá phong phú đa dạng mà giá trị lại giảm xuống. Nhưng cũng vì lợi nhuận, họ bất
chấp những thủ đoạn, những gian trá giả dối trong kinh doanh.Bản thân họ thì
được lợi nhưng cái lợi đó so với những thiệt hại đồng thời gây ra cho người tiêu
dùng và toàn xã hội là quá nhỏ bé không thể bù đắp.Mục tiêu kinh tế của đất nước
khơng thực hiện được.Về kinh tế thì như vậy cịn đạo đức tình người trong xã hội
cũng bị xem nhẹ và lãng quên.
- Bản chất thị trường là bất bình đẳng, kẻ mạnh thì sống, kẻ yếu thì chết. Trong
cạnh tranh ai không cải tiến kĩ thuật, năng suất thấp, giá trị cao thì lỗ, trở thành
người nghèo và ngược lại.Qua đó sự phân hố giàu nghèo gia tăng mà tệ nạn xã
hội cũng dễ phát triển.
- Nền kinh tế thị trường có cơ cấu khơng hợp lý, mất cân đối. Những ngành nghề
nào trong xã hội đem lại lợi nhuận cao sẽ có nhiều người tham gia và ngược lại.
Bởi trong cơ chế thị trtường sự gia nhập hay rút lui khỏi một ngành nghề, lĩnh vực
là tự do.
- Kinh tế thị trường tạo ra sự ô nhiễm mơi trường. Do mục đích người sản xuất là
lợi nhuận cao nhất, họ phải tiết kiệm chi phí triệt để. Những chất thải độc hại trong
quá trình sản xuất chưa có tác động trực tiếp đến họ khơng được xử lý. Ơ nhiễm
mơi trường sống chung của tồn xã hội là tất yếu.
- Cũng do một phần các nguyên nhân trên nền kinh tế thị trường không tránh khỏi

những đợt sóng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, suy thối về kinh tế. Kinh tế
thị trường phải gắn với thị trường, thông qua thị trường người sản xuất mới biết
được hàng hố của mình có được xã hội chấp nhận hay khơng.
1.2. Q trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường.
- Vào cuối những năm bảy mươi của thế kỷ XX do những điều kiện khắc nghiệt
của hoàn cảnh đất nước và cả do những khuyết điểm chủ quan trong lãnh đạo, quản
lý mà đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân gặp nhiều
khó khăn. Trong bối cảnh đó Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước thử
nghiệm tìm tịi con đường đổi mới để đưa đất nước phát triển.
- Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi
mới từng phần, lăng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các
địa phương, cơ sở và qua các Đại hội từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI


Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đến Đại hội đại biểu lần thứ IX (4-2001) đã
không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều
vấn đề lý luận, thực tiễn của công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
1.2.1. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới:
1.2.1.1. Cơ chế quản lý kinh tế.
Cơ chế quản lý kinh tế: là một hình thức tổ chức của bộ máy con người kèm theo
đó là chức năng nhiệm vụ quyền hạn, của các bộ máy của từng bộ phận, cá nhân…
nhằm tiến tới đạt được mục đích đã đề ra.
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp:
Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết
sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh
tế theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem
phiếu, hàng hóa khơng được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận
chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Phân phối hàng

hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ
này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi khi cũng được
trả bằng hiện vật.
Một số hình ảnh về thời bao cấp
Đặc điểm:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu
pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định
giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền
quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh
nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì
nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất và
pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết
định khơng đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu . Các doanh nghiệp
khơng có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm
đối với kết quả sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật
là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ cấp phát - giao nộp.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động,
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.


Hình thức:
- Bao cấp qua giá.
- Bao cấp qua chế độ tem phiếu.
- Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng khơng có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.

Kết quả và hạn chế:
- Kết quả: trong thời kỳ này kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng có một tác động
nhất định cho phép tập trung các nguồn lực tối đa vào các mục tiêu chủ yếu của
giai đoạn này đặc biệt là công nghiệp nặng.
- Hạn chế: cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thủ tiêu cạnh tranh kìm hãm khoa
học cơng nghệ, triệt tiêu động lực của người lao động, khơng kích thích lao động
sáng tạo của doanh nghiệp do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường, khơng thừa nhận sự tồn tại của kinh tế nhiều thành phần trong thời kì q
độ và xóa bỏ sở hữu tư nhân, kinh tế cá thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội.
1.2.1.2. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế:
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp: không tạo được động lực, làm suy yếu
nền kinh tế, hạn chế việc sử dụng các ngành kinh tế gây ra sự rối loạn lưu thơng
hàng hóa dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng đồng thời làm xuất hiện nhiều
hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách.
1.2.2. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi
mới từ đại hội VI đến đại hội X.
1.2.2.1. Tư duy của Đảng từ đại hội VI đến đại hội VIII.
Thứ nhất: Kinh tế thị trường không phải cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là
thành tựu chung của nhân loại:
Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, Kinh tế thị trường là giai đoạn
phát triển cao của Kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa là hình thức tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm của quá
trình dùng để thoả mãn nhu cầu của con người thông qua trao đổi, mua bán
Kinh tế thị trường là phương thức tổ chức,vận hành nền kinh tế, là phương
tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh
tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người
Kinh tế hàng hóa và Kinh tế thị trường giống nhau về bản chất (đều chịu sự
điều tiết của cơ chế thị trường) và nguồn gốc (xuất phát từ kinh tế tự nhiên và sự
phân công lao động xã hội)



Kinh tế hàng hóa và Kinh tế thị trường khác nhau về trình độ phát triển: Kinh
tế thị trường phát triển sau nên với trình độ cao hơn, Kinh tế hàng hóa có đầu ra
thơng qua thị trường nhưng đầu vào thì chưa chắc, trong khi Kinh tế thị trường có
cả đầu ra và đầu vào thơng qua thị trường.
Tóm lại: Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan, nó khơng
phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại
Thứ hai: Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
- Tính tất yếu khách quan phải phát triển Kinh tế thị trường trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
+ Kinh tế thị trường là 1 kiểu tổ chức kinh tế, là trình độ phát triển cao của Kinh
tế hàng hóa
+ Kinh tế thị trường đối lập với kinh tế tự nhiên, chứ không phải là đặc trưng
bản chất của 1 chế độ kinh tế cơ bản của xã hội
+ Kinh tế thị trường tồn tại ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau
+ Trong thời kì q độ có những cơ sở kinh tế là điều kiện tồn tại và phát triển
của Kinh tế thị trường và phát triển Kinh tế thị trường là cần thiết cho quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Vì vậy mơ hình phát triển tổng qt của nước ta là: “phát triển Kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước”
Đặc trưng của mơ hình:
+ Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, cạnh tranh và
hợp tác với nhau
+ Các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và phương án tổ chức sản
xuất theo sự hướng dẫn của thị trường
+ Nhà nước quản lí nền kinh tế để định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế,
tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh bảo đảm hài hòa giữa phát triển

kinh tế và phát triển xã hội
Thứ ba: Sự cần thiết phải sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng xã hội ở nước ta
Kinh tế thị trường có vai trị to lớn trong phát triển kinh tế xã hội vì đặc trưng
chung của Kinh tế thị trường:
Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh


Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường phát triển đầy đủ và
có tác dụng là cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế
Nền kinh tế có tính mở cao và vận động theo quy luật vốn có của nền kinh
tế thị trường
Nền kinh tế thị trường hiện đại cịn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước.
1.2.2.2. Tư duy của Đảng từ đại hội IX đến đại hội XI.
- Đại hội IX:
Xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế
tổng qt của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: “một kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu trên cơ sở và dẫn dắt chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
+ Mục đích: “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân
làm chủ, nhân ái, có văn hóa ,có kỉ cương, xóa bỏ áp bức và bất cơng, tạo điều kiện
cho mọi người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc”.
- Đại hội X:
Làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở các tiêu chí:
Về mục đích phát triển: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng bước khá giả hơn.

Về phương hướng phát triển: phát triển tất cả các thành phần kinh tế.
Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện nhiều hình thức phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội, mức đóng góp.
Về quản lý: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Hoàn thiện nhận
thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần

Chương 2: Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam
2.1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là một tất
yếu khách quan.
Đại hội VII của Đảng đã xác định, đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu
khách quan. Đổi mới để nâng cao chất lượng cuộc sống, để phát triển kinh tế phù
hợp với xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới. Vì với cơ chế kinh tế cũ,


với việc bao cấp tràn lan, quản lý kinh tế kém hiệu quả thì việc sản xuất khơng đủ
sản phẩm để tiêu dùng dẫn đến khơng thể tích luỹ để mở rộng sản xuất dẫn đến
thiếu hụt ngân sách, làm cho nền kinh tế đình trệ. Đặc trưng của kinh tế chỉ huy là
rất cứng nhắc nó chỉ có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế trong giai đoạn ngắn
hạn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở
nước ta tồn tại q dài nên nó khơng những khơng còn tác dụng đáng kể trong việc
thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm
năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Bên cạnh đó, thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường
các yếu tố sản xuất như thị trường lao động thị trường vốn và thị trường đất đai và
về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Xét
về mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nền kinh tế nước ta đang hoà nhập so với nền
kinh tế thị trường thế giới, giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của
nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế gần gũi hơn với thị trường kinh tế
thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước gần gũi

hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.Việc chuyển đổi nền kinh tế theo cơ
chế thị trường thúc sản xuất và cạnh tranh hàng hố khơng chỉ trong nước mà vượt
qua cả ranh rới trong nước cạnh tranh với nước ngoài về các loại sản phẩm như:
hàng tiêu dùng, thuỷ sản.... làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tích luỹ vốn để mở rộng
và tái sản xuất. Điều này phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế của thế giới: đó
là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập
quốc tế. Mỗi quốc gia đều phải tích cực áp dụng các phương pháp khoa học kỹ
thuật mới để cạnh tranh với nhau, đó là động lực để thúc đẩy kinh tế. Sự cạnh tranh
lành mạnh trong nước, giữa các nước với nhau sẽ nâng cao năng suất lao động, tạo
ra nhiều của cải vật chất cho mỗi quốc gia, nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân loại.
Đổi mới cơ chế kinh tế khơng chỉ có ý nghĩa về lĩnh vực kinh tế mà cịn có tác
dụng về mặt chính trị xã hội. Chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nước ta đã có điều kiện mở rộng các mối quan hệ kinh tế, chính trị và trong
các mối quan hệ có tính chất xã hội như: bảo vệ mơi trường, chống chiến tranh hạt
nhân, xố đói giảm nghèo.... trong sự liên hệ giữa các quốc gia.
Như vậy: Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hố tập trung sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần
thiết và là một tất yếu khách quan.
Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế cịn
mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế
thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn


nếu “ địn xeo” là kinh tế hàng hố. Chính C.Mác đã coi sự phát triển của kinh tế
hàng hoá là xuất phát điển và điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối
sự ra đời và xản xuất của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.Nội chiến kết thúc,

Lênin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất, đó sự
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của
nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hố giữa thành thị và nơng thơn, thực hiện các
quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hố tiền tệ, thị trường.
Q trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với Đông
Âu và Liên Xô ( cũ ). Những nước này đã có nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế đã
được cơ khí hố, khơng có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta, quá
trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình trình chuyển
nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần. Mặt khác, ở nước ta cũng đã tồn tại mơ hình kinh tế chỉ huy với cơ chế
kế hoạch hố tập trung. Nó gần như đối lập với thi trường, kinh tế thị trường vận
động theo cơ chế thị trường. Thị trường đước coi là trung tâm của sản xuất và toàn
bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang
nền kinh tế thị trường cịn là q trình xố bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Q trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá
trình quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với
thị trường thế giới. Kinh tế “đóng” “khép” thường gắn với nền kinh tế phong kiến,
gắn với sản xuất nhỏ mang nặng tính cục bộ địa phương chủ nghĩa và với tình
trạng “bế quan toả cảng”. Chính sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá
đã phá vỡ các quan hệ truyền thống của kinh tế khép kín. Sự phát triển của tư bản
chủ nghĩa đã khẳng định: kinh tế hàng hoá làn cho thị trường dân tộc gắn bó và hồ
nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hố đã làn cho các quan hệ kinh
tế được mở rông ra khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh té phát triển nhanh
chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ một
quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta đã có
nhiều đổi mới quan trọng, chúng ta đã chuyển quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn
phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước khơng phân biệt chế độ chính
trị, theo ngun tắc đơi bên cùng có lợi khơng can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau.

Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên hoạt
động kinh tế đối ngoại nước ta có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng
nhanh với nhịp độ trên dưới 20% hàng năm ( 1986-1992 ) đảm bảo nhập khẩu các
loại vật tư và công nghệ chủ yếu,cải thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta
đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về thị trường và
nguồn vốn từ các nước SNG và Đơng Âu. Nguồn vốn nước ngồi đầu tư vào Việt
Nam cũng tăng nhanh.


2.2. Thực trạng phát triển, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đại hội X của Đảng khẳng định mơ hình phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mơ hình này thể hiện mục tiêu phát triển là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, đảm bảo mối quan hệ hài hịa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
cơng bằng xã hội ngay từ đầuvà trong mị giai đoạn phát triển; các nguồn lực phát
triển và chủ thể tham gia là mọi thành phần kinh tế; trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo; động lực chung của sự phát triển là đại đoàn kết dân tộc và các
động lực kinh tế, chế độ phân phối; yêu cầu giữa vững ổn định chính trị xã hội, độc
lập tự chủ về kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế, cơ chế kinh tế và hình thành
đồng bộ các yếu tố thị trường, vai trị quản lí nhà nước đối với nền kinh tế, vai trò
lãnh đạo của ĐCSVN trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướn xã hội chủ
nghĩa.
Giai đoạn trước năm 1986: Nền kinh tế nước ta từ nghị quyết hội nghị lần thứ 6
ban chấp hành trung ương khóa IV( năm 1979), các quan hệ hàng hóa tiền tệ đã
được chấp nhận nhưng chỉ mới ở mức độ thứ yếu do tư tưởng kinh tế xã hội chủ
nghĩa mang nặng thành kiến, quan hệ hàng hóa và cơ chế thị trường. coi nó là biểu
hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản.
Giai đoạn năm 1986-1990: Đại hội VI đã có những tư tưởng đổi mới nhưng chưa
đi ngay vào cuộc sống, cịn có lực cản, nền kinh tế cịn tiếp tục gặp khó khăn.

Nhưng từ năm 1989 các biện pháp đổi mới như áp dụng chính sách lãi suất dương,
xóa bỏ chế độ tem phiếu, loại bỏ một số khoản chi ngân sách bao cấp, mở rộng
quan hệ thị trường.. đã làm cho nền kinh tế khởi sắc. VD: trong giai đoạn 19861990 đầu tư toàn Xã hội tư bản là 12,5% GDP tăng trưởng kinh tế trung bình là
3,9%, kim ngạch xuất khẩu đạt 23 tỷ USD/năm.
Giai đoạn 1991-2000: Thời kỳ này chúng ta đã thực hiện chuyển đổi cơ chế mạnh
mẽ và phát huy tác dụng, tạo nên thời phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đại hội
Đảng VII (6/1991) với những quyết sách quan trọng như phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước theo định hướng xá hội chủ nghĩa, đã tiếp thêm sức mạnh cho q trình
chuyển đổi kinh tế góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
Giai đoạn 2001-2010: Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ
máy nhà nước hướng vào hình thành và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Những hạn chế của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta:
- Về hệ thống pháp luật:


+ Tuy ngày càng được hoàn thiện nhưng hệ thống pháp luật vẫn chưa theo
kịp nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội.
+ Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, tình trạng văn bản
hướng dẫn thi hành mâu thuẫn với văn bản luật chưa được khắc phục triệt
để.
+ Tính cụ thể, minh bạch và dự báo trước của nhiều luật còn thấp.
+ Hiệu lực thi hành của một số văn bản pháp luật chưa cao, như Luật cạnh
tranh, Luật đất đai..
+ Quy trình xây dựng văn bản pháp luật còn thiếu dân chủ, cứng nhắc, cách
phân công cho các bộ, ngành soạn thảo văn bản pháp luật dễ dẫn đến tình
trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của bộ, ngành.

- Về chủ thể kinh tế:
+ Quan điểm đối với các chủ thể kinh doanh chưa nhất qn và rõ ràng giữa
chính sách và thực thi.
+ Có sự khác biệt giữa nhận thức và phân định vai trò của các chủ thể kinh
tế với vai trò thực sự của chủ thể kinh tế ấy trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta.
Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước có trình độ cơng nghệ dưới mức trung bình
của thế giới và khu vực.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Các doanh
nghiệp nhà nước chưa thể hiện được sự khác biệt về năng lực cạnh tranh so
với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
- Về cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường:
+ Vận dụng chưa đồng bộ các cơng cụ quản lí và điều tiết thị trường.
+ Năng lực của bộ máy quản lí nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu quản lí hiệu
quả nền kinh tế thị trường, thiếu tính chuyên nghiệp và sự tận tâm phục vụ
doanh nghiệp.
- Về hệ thống các thị trường:
Các thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản hoạt động
chưa hiệu quả, quản lí nhà nước chưa linh hoạt, thiếu chủ động và mức độ
kiểm soát thị trường chưa cao.
2.3. Những giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần thực
hiện những giải pháp chủ yếu sau đây:


- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Nâng cao
hiệu quả kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để kinh tế nhà nước vươn lên đóng vai
trị chủ đạo cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế

quốc dân.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế thuộc tất cả các
thành phần kinh tế phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong mọi ngành kinh tế
quốc dân, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và phát triển các hình thức kinh
tế tập thể kiểu mới.
- Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học cơng nghệ trên cơ sở đó đẩy mạnh phân cơng lao động xã hội. Con đường cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các
nước đi trước, vừa có những bước nhảy vọt, gắn cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ;
ứng dụng nhanh và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức
mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Đồng thời, tiến hành phân công lại lao
động và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cũng như từng vùng, từng địa
phương.
- Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường bao gồm thị trường hàng hóa
và dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường
vốn, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường bất
động sản, kể cả trong nước và ngoài nước.
Hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế,
tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, để thị trường hoạt động năng động
có hiệu quả, có trật tự trong mơi trường cạnh tranh lành mạnh.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế Nhà nước.
+ Phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ cơ chế tập


trung quan liêu, bao cấp trong kinh doanh.
+ Nhà nước tạo mơi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp
cạnh tranh và hợp tác phát triển, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế.
+ Nhà nước kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định
của pháp luật.

+ Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Bảo đảm tính
minh bạch, cơng bằng trong chi ngân sách nhà nước. Tăng tỉ lệ chi ngân sách theo
tốc độ tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Tăng chi ngân
sách cho các mục tiêu xã hộiu trọng điểm. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp
với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế, đơn giản hóa các sắc thuế.
+ Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước thành những doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị
trường...
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng; cùng có lợi; tơn trọng độc lập, chủ
quyền, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giữ vững độc lập, chủ
quyền dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo
hướng đa phương hóa và đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại, chủ động hội
nhập quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện nước ta.
Giữ vững sự ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống luật pháp. Sự ổn định chính trị
là điều kiện cần để các nhà sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu
tư. Do vậy, chúng ta cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Hệ thống luật pháp đồng bộ là công cụ quan trọng của Nhà nước quản lý nền
kinh tế nhiều thành phần.


- Nhà nước thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế
đi đôi với tiến bộ, cơng bằng xã hội. Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào
việc phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo
động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện
bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp và
đi đơi với thực hiện các chính sách xã hội.
- Hồn thiện hệ thống pháp luật- cơng cụ điều hành của nhà nước pháp
quyền:

Trong quá trình điều hành của nhà nước pháp quyền, pháp luật là công cụ
quan trọng bậc nhất, vì vậy đổi mới quy trình làm luật đang là nhu cầu hết
sức cần thiết.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện để quản lý nhà nước bằng
luật đối với nên kinh tế xã hội là một yêu cầu khách quan trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Hệ thống pháp luật cần được xây
dựng theo hướng đơn giản, dễ hiểu, tập trung vào các khâu them chốt để
điều chỉnh nhằm nâng cao tính hiệu lực.
- Đổi mới chức năng quản lí nhà nước đối với nền kinh tế:
Sự tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào năng lực điều hành nền kinh tế của
chính phủ. Để xây dựng được một chính phủ mạnh, cần hồn thiện thể chế
và cơ chế quản lí nền kinh tế. Muốn đạt được mục tiêu này, chính phủ cần
tập trung xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò, quyền hạn, cơ cấu tổ
chức và đưa ra các chính sách phù hợp.
- Nâng cao tính minh bạch của thể chế, tách biệt rõ ràng hoạt động sản xuất
kinh doanh và quản lí nhà nước.
- Thực hiện quyền tự do kinh doanh và xã hội hóa việc trợ giúp phát triển
kinh doanh thông qua việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi:
Cần tìm ra cơ chế thích hợp để thúc đẩy các chủ thể kinh tế nâng cao khả
năng cạnh tranh; phát triển mạnh các tổ chức cung cấp các dịch vụ phát triển
kinh doanh( tư vấn pháp lí, kế tốn, tài chính, đào tạo, quản lí và thơng tin
thị trường)
- Cải thiện mơi trường tài chính thuận lợi:
Tăng cường tính cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng. Phát triển mạnh hệ
thống ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh, các tổ chức tín dụng, các tổ
chức tài chính cho thuê, cầm cố và các dịch vụ tài chính khác. Nâng cao khả


-


-

-

năng huy động vốn từ toàn bộ nền kinh tế, cải thiện quan hệ giữa các ngân
hàng thương mại và tổ chức tài chính với các doanh nghiệp.
Xây dựng hệ thống thuế minh bạch:
Đảm bảo tính ổn định, đơn giản, dễ hiểu, dễ vận dụng, có cơ chế kiểm sốt
thích hợp, giảm thời gian cho các cuộc thanh tra, làm lãng phí nguồn lực của
cơ quan thuế lẫn doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới chính sách tiền tệ:
Sử dụng linh hoạt các cơng cụ lãi suất, tỉ giá hối đối để đảm bảo giá trị
đồng tiền, kiểm soát được lạm phát, bảo đảm an ninh tài chính cho hệ thống
tài chính, ngân hàng và các tổ chức tín dụng trước các cú sốc tỷ giá và lãi
suất đến từ bên ngồi.
Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Thực hiện các cam kết gia nhập WTO:
Cần ban hành Nghị định chính phủ về hướng dẫn thi hành một số cam kết về
đầu tư của Việt Nam với WTO, bảo đảm môi trường đầu tư, tạo điều kiện
cạnh tranh và phát triển kinh tế.
Cần xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mơ hậu WTO nhằm tiến tới xóa bỏ
mọi hình thức bao cấp, tạo mơi trường cho các thị trường vận hành đồng bộ,
có hiệu quả và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.

KẾT LUẬN
Như vậy việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
vấn đề hết sức câng thiết đối với nước ta. Chúng ta đã nhận thức rằng những thành
tựu mà chúng ta đạt được trong 15 năm qua thực hiện chiến lược kinh tế xã hội là
sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, tồn dân ta. Đồng thời những khó khăn thách
thức mà chúng ta sễ gặp phải cúng hết sức to lớn đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục cố

gắng hơn nữa, nỗ lực nhiều hơn nữa để vượt qua. Với thực tiễn đổi mới, trước hết
phải đổi mới tư duy nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. Điều này,trên thực tế đã trở
thành một nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa bảo đảm cho mỗi hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước./.



×