Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TIỂU LUẬN NGHỆ THUẬT tạo lực, lập THẾ TRONG NGHỆ THUẬT QUÂN sự hồ CHÍ MINH và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG sự NGHIỆP bảo vệ tổ QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.94 KB, 10 trang )

1

NGHỆ THUẬT “TẠO LỰC, LẬP THẾ” TRONG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG SỰ NGHIỆP
BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị kiệt xuất, một danh
nhân văn hóa, mà còn là một nhà chiến lược quân sự thiên tài. Đánh giá về Người,
ông Gớt Hôn(Tổng bí thư Đảng cộng sản Mỹ) đã nhấn mạnh: “Người là một lãnh
tụ chính trị nhưng Người cũng là một lãnh tụ xuất sắc về quân sự”. Đây không
phải là một đánh giá ngẫu nhiên, bởi ông đã đọc kỹ tiểu sử và nghiên cứu những
bài viết về quân sự của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, vấn
đề nghệ thuật quân sự chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Nghệ thuật quân sự Hồ
Chí Minh chính là sự kết hợp, kế thừa và phát triển nghệ thuật quân sự cổ, kim
Đông, Tây vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Nó được bắt nguồn từ
những cơ sở: kế thừa, phát triển nghệ thuật quân sự độc đáo, đặc sắc của dân tộc;
nghiên cứu, vận dụng nghệ thuật xây dựng và tổ chức đấu tranh vũ trang trong lý
luận quân sự Mác – Lênin; nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng những tư tưởng nghệ
thuật quân sự của nhân loại; Từ đặc điểm, yêu cầu hoạt động quân sự của cách
mạng Việt Nam đặt ra.
Các nhà nghiên cứu nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phân tích, khái quát tư
tưởng nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh, coi đó là đường lối quân sự cơ bản của
cách mạng Việt Nam – một trong những nhân tố quyết định dẫn đến thắng lợi giải
phóng hoàn toàn đất nước ta. Nét nổi bật trong nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh là
nghệ thuật “tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu”. Trong phạm vi một bài viết
tiểu luận, tôi tập trung đề cập, làm rõ về nghệ thuật “tạo lực, lập thế” trong nghệ
thuật quân sự Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc hiện nay.
Thứ nhất, về nghệ thuật “tạo lực, lập thế” trong nghệ thuật quân sự Hồ
Chí Minh.



2

Theo Hồ Chí Minh “lực” là sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần của mỗi
con người, mỗi đơn vị, mỗi địa phương và của cả đất nước. Lực trong nghệ thuật
quân sự bao gồm hai yếu tố cơ bản đó là:
Một là, “Sức mạnh vật chất”: là sức người, sức của và khả năng huy động
sức người, sức của phục vụ cho chiến tranh, được biểu hiện ở sức mạnh của các lực
lượng tham gia chiến tranh, ở khả năng huy động nền kinh tế, vũ khí trang bị,
phương tiện... phục vụ cho chiến tranh.
Hai là, “Sức mạnh tinh thần”: là sức mạnh của ý chí, quyết tâm, sự trung
thành với mục tiêu, lý tưởng cộng sản, lòng căm thù giặc, sẵn sàng chiến đấu hi sinh
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... của quân và dân cả nước.
Nghệ thuật “tạo lực” trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh được thể hiện rất
phong phú, sáng tạo trong các nội dung, hình thức, biện pháp và cách thức tiến
hành hoạt động quân sự.
Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự Mác - Lênin, kế
thừa và phát triển truyền thống xây dựng và phát triển lực lượng của dân tộc Việt
Nam trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, Hồ Chí Minh đã chỉ ra, muốn tạo lực phải
tin vào dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, chăm lo bồi dưỡng sức dân và khơi nguồn
sức mạnh trong nhân dân.
Với quan điểm “cách mạng là việc chung cả dân chúng, không phải việc của
một, hai người…”, Hồ Chí Minh đã khơi nguồn và phát huy sức mạnh của mọi
người dân Việt Nam yêu nước thuộc mọi lứa tuổi, mọi dân tộc, mọi tầng lớp, từ
miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn, từ Bắc chí Nam hình thành
một lực lượng to lớn cho cách mạng. Người tổng kết “Động viên cả nước tiến
hành một cuộc chiến tranh nhân dân lâu dài chống bọn xâm lược Mỹ, giáo dục
quần chúng tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng tập thể, đẩy mạnh phong
trào thi đua yêu nước rộng lớn dưới khẩu hiệu “Tất cả để chiến thắng”. Đó là
những kinh nghiệm của chúng tôi trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc hiện
nay”1.


1

Sđd, tập 12, Tr 128


3

Từ thực tế một nước thuộc địa, nửa phong kiến chống lại một đế quốc lớn có
tiềm lực kinh tế, quân sự hùng hậu, Hồ Chí Minh cho rằng, để xây dựng và phát triển
lực lượng cách mạng, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng cụ thể cần phải
phải thực hiện phong phú, đa dạng các hình thức tổ chức với các chính sách, biện
pháp đúng đắn phù hợp với trình độ, khả năng cách mạng của quần chúng nhân
dân. Thông qua các tổ chức, các đoàn thể, các nhân sĩ yêu nước để đưa lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào phong trào quần chúng, làm cho các phong trào
đấu tranh của nhân dân đi từ tự phát tới tự giác.
Để tạo lực cho cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp, các tầng lớp nhân dân vào trong một mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh
công nông làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là các đoàn thể cứu
quốc gồm: Việt Nam cứu quốc hội; Đông Dương Cộng sản Đảng; Việt Nam Dân
chủ Đảng; Việt Nam Nông dân cứu quốc hội; Việt Nam Công nhân cứu quốc
hội; Việt Nam Quân nhân cứu quốc hội; Việt Nam Thương nhân cứu quốc hội;
Việt Nam Thanh niên cứu quốc hội; Việt Nam Phụ nữ cứu quốc hội; Việt Nam
Tự vệ cứu quốc hội; Việt Nam Thanh niên tiên phong cứu quốc hội ; Việt Nam
Văn hoá cứu quốc hội.
Trên cơ sở xây dựng, phát triển lực lượng chính trị của quần chúng để từng
bước xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân (bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương và dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Đặc biệt
Người rất quan tâm, chú trọng chăm lo xây dựng các vùng căn cứ địa và chính
quyền cách mạng ở các địa phương; động viên toàn dân thực hành tiết kiệm, tích

cực tăng gia sản xuất, cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến.
Mặt khác, trong khi chủ trương “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, Hồ Chí
Minh đã đặt cách mạng Việt Nam vào dòng chảy của cách mạng thế giới, coi cách
mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa “Nội lực” và “Ngoại lực”. Người cho rằng: “Các nước bạn
giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực
lượng của ta, phát triển khả năng của ta. Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối chớ


4

vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại” 2. Đó là nghệ thuật khéo kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại, trong đó sức mạnh nội lực là chính, nhằm phát huy
cao nhất những khả năng có thể có của tất cả các lực lượng để “tạo lực” ngày càng
to lớn, có lợi cho cách mạng Việt Nam.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tạo lực phải đi đôi với lập thế, bởi thế
và lực có mối quan hệ khăng khít. Nếu chỉ có lực không thôi thì chưa đủ, mà còn
phải có thế thì mới phát huy được tác dụng của lực. Trong chiến tranh cũng vậy,
chỉ có lực mà không có thế, thì cũng không thể đánh thắng được quân địch. “Thế”
theo Hồ Chí Minh là điều kiện, hoàn cảnh của mỗi bên trong tương quan các bên
tham chiến, là hình thái bố trí, triển khai lực lượng, là thế trận và hoạt động của mỗi
bên. Lập thế là tạo thế trận của toàn dân, của lực lượng vũ trang, của từng đơn vị, là
thế trận của chiến tranh nhân dân.
Trong hoạt động quân sự, Hồ Chí Minh đặc biệt rất coi trọng việc lập thế; có
lập được thế thuận lợi mới phát huy được tốt sức mạnh của lực, mới có khả năng
nhanh chóng tạo ra được thời cơ và bảo đảm chắc thắng trước kẻ địch vốn trước
mạnh hơn.
Để tạo thế có lợi, theo Hồ Chí Minh trước hết phải coi trọng việc lập thế
trong mối tương quan với tạo lực. Tạo lực phải đi đôi với lập thế, trên cơ sở lực để
lập thế. Lực được phát huy góp phần tạo ra thế mới. Thế mới được hình thành sẽ

thúc đẩy lực phát triển nhanh và rộng khắp. Sự tác động tương hỗ giữa lực và thế là
yếu tố bảo đảm cho ta luôn ở thế chủ động và đẩy địch vào thế bị động. Người chỉ
rõ: “Quả cân chỉ một kilôgam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức
mạnh làm bổng được một vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là thế thắng lực”3.
Nghệ thuật tạo thế được Hồ Chí Minh vận dụng một cách khéo léo và nhuần
nhuyễn trong chỉ đạo hoạt động quân sự. Trong kháng chiến chống Pháp, Người
chủ trương xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân du kích), huy động tối đa sức người, sức của phục vụ cho
kháng chiến. Đồng thời, Người cũng kết hợp chặt chẽ với việc xây dựng các khu
2
3

Sđd, tập 8, Tr. 30
Sđd, tập 12, Tr. 455


5

“căn cứ địa cách mạng”, củng cố chính quyền cách mạng ở các vùng giải phóng,
xây dựng các cơ sở cách mạng ở các vùng tạm chiếm, làm cho “mỗi quốc dân là
một chiến sĩ”, mỗi làng xóm là một pháo đài, tạo ra thế “thiên la địa võng”, làm cho
“Quân đội giặc đến đâu cũng bị khuấy, bị phá, bị diệt. Bộ đội ta đến đâu cũng được
giúp đỡ đầy đủ về vật chất và tinh thần”4.
Trong kháng chiến chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, ta thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thể hiện sự
kết hợp chặt chẽ giữa thế và lực. Miền Bắc là hậu phương lớn cung cấp sức người,
sức của cho cách mạng miền Nam, đồng thời cũng tạo ra thế vững chắc cho cách
mạng miền Nam giành thắng lợi.
Nghệ thuật lập thế trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ là phải tạo

ra và chiếm được thế có lợi cả về địa hình. Trên cơ sở đánh giá đúng, chính xác các
yếu tố khách quan về âm mưu, thủ đoạn của địch, tình hình thời tiết, địa hình, lợi
dụng được môi trường tự nhiên, thế hiểm của rừng núi, sông ngòi Việt Nam để
tạo thế. Đó là thế “Tiến thì có thể đánh và phát triển, lùi thì có thể giữ vững và
bảo toàn lực lượng”.
Cùng với việc tạo ra và chiếm được địa thế có lợi, Hồ Chí Minh rất chú trọng
và đặt lên hàng đầu xây dựng thế trận lòng dân, thế trận chiến tranh nhân dân rộng
khắp. Người cho rằng: “Trận địa vững chắc nhất là trận địa lòng dân”. Đó là lòng
dân đối với Đảng, với cách mạng; niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Trong lập thế phải coi trọng và kết hợp
nhuần nhuyễn “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, trong đó “nhân hoà” là quan trọng
nhất, Người khẳng định: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện
là: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên
thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa…
Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng hơn hết” 5. Có
thu phục được “nhân tâm” mới có lực lượng cho cách mạng, mới có thế trận vững
4
5

Sđd, tập 5, Tr. 655
Sđd, tập 5, tr. 479


6

chắc. Người khẳng định: “Điều kiện trừ diệt địch quân phải là điều kiện nhân hoà.
Trong hai phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hoà là phe ấy
thắng”6.
Như vậy, theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, muốn đánh địch phải có thế và
được thế hay, thế tốt thì một lực lượng quân sự dù nhỏ hơn, vũ khí, kỹ thuật ít và

kém hiện đại nhưng vẫn có thể ít biến thành nhiều, nhỏ biến thành lớn và nhất định
giành thắng lợi. Người chỉ rõ: ta đánh Mỹ, lấy ít thắng nhiều được là nhờ cái thế
của ta rất lợi. Vì thế, ta phải biết lập thế ta đi đôi với phá thế địch, hạn chế chỗ
mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch, đồng thời không ngừng phát triển sức mạnh của
lực lượng ta. Tuy nhiên, Người không quên căn dặn rằng, thế mạnh và thế yếu giữa
ta và địch chỉ là tương đối, chứ không phải là tuyệt đối, do đó, không được chủ
quan, khinh địch mà phải luôn luôn chủ động, sáng tạo trong lập thế trận mới ngày
càng hiểm hóc, lợi hại, gây khó khăn đối với địch và không ngừng nhân lên thế và
lực của ta. Ở một tầm rộng lớn hơn, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta làm cách
mạng và tiến hành chiến tranh giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn
chủ động tạo thế cho cách mạng Việt Nam. Người đặc biệt chú trọng đến vị thế đất
nước trên trường quốc tế, thế chính nghĩa, thế trận chiến tranh nhân dân, thế chiến
lược vững chắc và lợi hại, tạo điều kiện cho toàn dân, toàn quân ta trên khắp chiến
trường thực hiện chia cắt, vây hãm và chủ động tiến công quân địch ở mọi nơi, mọi
lúc bằng nhiều hình thức tác chiến, với mọi thứ vũ khí trang bị có trong tay. Rơi
vào thế trận hiểm hóc đó của chiến tranh nhân dân Việt Nam , quân xâm lược dẫu
đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu và bị sa lầy trong thế trận toàn dân đánh giặc của
chúng ta, và cuối cùng chúng bị thất bại hoàn toàn.
Lực và thế trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, luôn kết hợp chặt chẽ với
nhau, tạo điều kiện cho nhau, dùng lực để lập thế, tạo thời và cũng là để phát huy
lực, tạo thế để thúc đẩy thời cơ, dùng mưu kế tạo thế ta, phá thế địch, hạn chế cái
6

Sđd, tËp 4, Tr. 463


7

mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi. Mối
quan hệ đó đã được Người và Đảng ta giải quyết thành công trong cuộc đấu tranh

vũ trang giành chính quyền và trong hai cuộc kháng chiến. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng
mùa Xuân 1975 là những mốc son chói lọi của cách mạng Việt Nam, và cũng là
những mẫu mực về nghệ thuật kết hợp lực, thế để giành toàn thắng dưới ngọn cờ
lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ hai, về ý nghĩa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay:
Hiện nay, nhân loại đang đứng trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đã tạo ra sự phát triển nhảy vọt có tính chất
cách mạng trên nhiều lĩnh vực, kể cả quân sự. Mặt khác, các thế lực hiếu chiến,
phản động vẫn đang ra sức lợi dụng những thành tựu khoa học - công nghệ nhằm
hiện đại hóa trang bị với hàng loạt vũ khí tối tân, có sức hủy diệt ngày một tăng,
đẩy cuộc chạy đua vũ trang, chạy đua vũ khí hạt nhân thành nguy cơ đe dọa nền
hòa bình và an ninh khu vực, quốc tế. Chiến tranh hiện nay không đơn thuần chỉ là
cuộc đọ sức trên chiến trường mà thể hiện toàn diện trên nhiều lĩnh vực khác: kinh
tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại... Tuy nhiên, trên chiến trường, chiến tranh công
nghệ cao là đặc trưng chủ yếu của chiến tranh hiện đại. Điển hình là hai cuộc chiến
Mỹ tiến hành đánh Taliban ở Ápghanixtan năm 2001 – 2002, đánh IRắc năm 2003.
Các thế lực thù địch vẫn đang quyết liệt chống phá các nước xã hội chủ nghĩa bằng
chiến lược “Diễn biến hòa bình”, kết hợp bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ CNXH trên
toàn thế giới.
Qua 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đất nước ta đã thu được nhiều
thành tựu quan trọng: đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng lên;
nền kinh tế vĩ mô có chuyển biến tạo thuận lợi cơ bản để ta tiếp tục đẩy mạnh tiến
trình đổi mới, hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và quốc tế; vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Song Đảng ta cũng xác định
chúng ta vẫn phải đối diện với bốn nguy cơ đang phát triển thành những thách thức
gay gắt là: chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tụt hậu xa hơn về kinh tế; tình trạng


8


quan liêu, tham nhũng; Diễn biến hòa bình. Để tiếp tục hội nhập sâu và rộng hơn
nữa theo xu thế toàn cầu hoá, thực hiện phương châm của Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, mà
vẫn giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi khách quan, là yêu cầu,
nhiệm vụ mang tính chiến lược và lâu dài, để Đảng ta phải huy động sức mạnh của
toàn dân tộc mới có thể hoàn thành được. Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
hiện nay theo quan điểm Đại hội Đảng IX là: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân
tộc”7. Đến Đại hội Đảng X tiếp tục nhấn mạnh và bổ sung: “…bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh
tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất
nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù
địch, không để bị động, bất ngờ”8. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới đòi hỏi Đảng ta phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhất là nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh trong quá trình CNH,HĐH đất nước, xây
dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân kết hợp thế trận an ninh nhân dân vững chắc, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng an ninh với kinh tế; xây dựng thế và lực mới trên cơ sở huy
động nguồn lực con người là nhân tố cơ bản; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế.
Một vấn đề nữa trong tình hình hiện nay là xây dựng “thế trận lòng dân”
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng chính là nội dung cơ bản, chủ yếu của
thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở nước ta. “Thế trận
lòng dân” chính là nguồn lực và sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân phát
7
8


Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H 2001, tr 117
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006, tr 108-109


9

triển cao, đó là sức mạnh và tinh thần của từng người dân trong thời bình thì lao
động sản xuất, thời chiến thì cầm súng sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Như Hồ Chí Minh
khẳng định: “Nước lấy dân làm gốc. Trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, lực
lượng chính là ở dân”9 và “Không dùng sức lực của toàn nhân dân về đủ mọi mặt
để ứng phó, khong thể nào thắng lợi nổi”10, “Làm cho: Mỗi quốc dân là một chiến
sĩ. Mỗi làng xóm là một pháo đài”11. Vấn đề này đã được đồng chí Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh nêu rõ trong lời phát biểu bế mạc, tại Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương 8 khóa IX: “Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi chúng ta phải thường
xuyên chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đát nước, trước hết là tiềm lực về
chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế; tiếp tục củng cố nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân mà mấu chốt là thế trận lòng dân”12.
Với quân đội, cần tập trung xây dựng quân đội theo hướng “Cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Chú trọng xây dựng quân đội vững
mạnh về chính trị, có chất lượng tổng hợp cao, có khả năng sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Muốn vậy cần phải tập trung quán triệt
và thực hiện tốt các nội dung sau:
Tăng cường giáo dục lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định đơn vị. Giáo
dục sâu sắc nghệ thuật quân sự truyền thống dân tộc, nghệ thuật quân sự Hồ Chí
Minh, nghệ thuật quân sự của quân đội và vận dung có hiệu quả vào quá trình huấn
luyện, SSCĐ sát với thực tế tổ chức biên chế, địa hình, khí hậu thời tiết, đối tượng
tác chiến và đặc điểm của chiến tranh hiện đại. Giữ vững và tăng cường bản chất

giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc cho quân đội.
Xây dựng kế hoạch tác chiến và khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trên cả
nước dựa trên lực lượng vũ trang ba thứ quân là: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân quân tự vệ.
Sđd, tËp 5, Tr. 409
Sđd, tËp 4, Tr. 298
11 Sđd, tËp 5, Tr. 655
12 Báo Nhân dân, ngày 13 – 7 – 2003, tr. 4
9

10


10

Tăng cường sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng đối với
quân đội. Củng cố, kiện toàn nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì cơ quan, đơn
vị(chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy). Coi công tác cán bộ là nhiệm vụ cơ bản
trong xây dựng và phát huy nguồn lực con người và vũ khí trang bị, yếu tố chủ yếu
để nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp của quân đội.
Làm tốt việc củng cố, phát huy truyền thống đoàn kết gắn bó máu thịt quân
dân trên từng địa bàn đóng quân.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của kẻ thù và
phê phán các quan điểm, các biểu hiện trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm, thiếu cố gắng và
quyết tâm trong thực hiện nhiệm vụ.
Tăng cường công tác đối ngoại quân sự trên bình diện khu vực và quốc tế,
với các nội dung hợp tác về khoa học kỹ thuật quân sự, đào tạo cán bộ khoa học,
từng bước hiện đại hóa vũ khí trang bị kỹ thuật, bảo đảm hậu cần trong tác chiến…
nhằm tạo thế và lực trong phát huy sức mạnh quân sự trong nước kết hợp với ngoài

nước.
Tóm lại, nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh với nét nổi bật là nghệ thuật “kết
hợp chặt chẽ tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu”, trong đó “tạo lực, lập thế” là
tư duy đặc sắc của Hồ Chí Minh, nhân tố góp phần vào thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Cho đến nay, nó vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, đòi
hỏi Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong
tình mới. Đặc biệt với quân đội, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân càng cần phải nghiên cứu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo nghệ
thuật quân sự “tạo lực, lập thế”, và kết hợp chặt chẽ “tạo lực, lập thế, tranh thời,
dùng mưu” của Người trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



×