Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN NHỮNG BIỂU HIỆN mới TRONG HOẠT ĐỘNG của các CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA HIỆN đại ý NGHĨA đối với VIỆC đổi mới và sắp xếp các DOANH NGHIỆP NHÀ nước ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.45 KB, 26 trang )

1

NHỮNG BIỂU HIỆN MỚI TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA HIỆN ĐẠI - Ý NGHĨA CỦA NÓ
VỚI VIỆC SẮP XẾP VÀ ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

Các công ty xuyên quốc gia, về xuất sứ, là những công ty tư bản độc
quyền của một quốc gia, thực hiện việc bành trướng quốc tế bằng hình thức thiết
lập một hệ thống chi nhánh ở nước ngồi, nhằm phân chia thị trường thế giới và
tìm kiếm lợi nhuận độc quyền.
Sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia là một trong
những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản ngày nay, là kết quả phát triển lâu dài
của nền sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Với khoảng 60 nghìn cơng ty xun
quốc gia mẹ và trên 500 nghìn cơng ty con, hoạt động hầu khắp tồn cầu, chúng
kiểm soát 80% hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai, 60% buôn bán quốc
tế, 40% sản lượng công nghiệp, 90% trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài,
quy mơ trung bình về tài sản của một cơng ty nhánh tính trung bình cho tất cả
các ngành vào giữa những năm 90 là khoảng 28 triệu USD, các công ty xuyên
quốc gia đã chứng tỏ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế thế giới và ngày
càng trở thành lực lượng cơ bản vận hành nền kinh tế thế giới tư bản.
Những năm gần đây các công ty xuyên quốc gia hiện đại đã có nhiều
thay đổi mới trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Với cơ chế “tháp hợp”,
trong đó việc tổ chức và điều hành dựa theo những chỉ tiêu cơ bản của chương
trình đặt ra, đồng thời mở rộng tính độc lập cho các chi nhánh, các công ty xuyên
quốc gia đã dễ dàng thích ứng với những biến đổi của thị trường. Cũng do
phương thức thực hiện kế hoạch định hướng mà tính năng động của các chi


2


nhánh được nâng cao làm cho các công ty xuyên quốc gia trở thành doanh
nghiệp làm ăn rất có hiệu quả, đứng vững trên thị trường với những khối lượng
lợi nhuận khổng lồ, tỷ suất lợi nhuận cao, thậm chí tới 25,2% doanh số bán ra và
22,1% tài sản. Mặt khác, thông qua những hoạt động mới này, các công ty xuyên
quốc gia hiện đại đã làm dẫn đến sự phát triển nhanh chóng các quan hệ kinh tế thương mại và chu chuyển hàng hóa - dịch vụ trên phạm vi tồn cầu; thủ tiêu
tình trạng cơ lập, đóng kín và buộc các nền kinh tế dân tộc phải mở cửa, hội
nhập, cùng tham gia vào “một sân chơi” theo luật chơi chung.
Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay, việc nghiên cứu
phân tích làm rõ những biến đổi mới trong hoạt động của các công ty xuyên quốc
gia hiện đại là vấn đề cần thiết, không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ thêm đặc điểm,
bản chất kinh tế, bản chất chính trị của chủ nghĩa tư bản ngày nay, mà còn là một
cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng để xác định chương trình, kế hoạch, mục tiêu
phát triển kinh tế quốc gia.
PHẦN 1

NHỮNG BIỂU HIỆN MỚI TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA HIỆN ĐẠI

Khi quá trình sản xuất - kinh doanh của một công ty vượt ra khỏi biên
giới quốc gia dân tộc và có quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhiều nước thông qua
việc thiết lập các chi nhánh ở nước ngồi, thì cơng ty đó được gọi là công ty
xuyên quốc gia. Ngày nay, xuyên quốc gia hóa trong sản xuất - kinh doanh trở
thành xu hướng chung của thời đại. Do vậy, khơng chỉ có công ty xuyên quốc
gia của các nước tư bản phát triển mà hầu hết các quốc gia đều có cơng ty xuyên
quốc gia (kể cả các công ty vừa và nhỏ nhưng có chiến lược, sách lược đúng đắn,
mềm dẻo vẫn có thể tồn tại). Theo đó, có thể hiểu các công ty xuyên quốc gia


3


hiện đại là những công ty của một quốc gia thực hiện việc sản xuất kinh - doanh
quốc tế thông qua việc thiết lập hệ thống chi nhánh ở nước ngoài, nhằm thực
hiện việc mở rộng thị trường và nguồn thu lợi nhuận.
* Sơ lược về nguồn gốc và thể chế quản lý kinh doanh của các công ty
xuyên quốc gia
Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới đi liền với sự
xuất hiện và phát triển của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, chúng là sự phát
triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, là sự vận động mở rộng và sâu
sắc hơn của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi mà các mối quan hệ quốc
tế vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia dân tộc và nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế ngày càng phát triển.
Kế thừa, phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen, và bằng việc nghiên
cứu, phân tích sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, Lênin đã rút ra kết luận hết sức quan trọng: “Tự do cạnh tranh đẻ ra
tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ
nhất định, lại dẫn tới độc quyền…Việc tập trung sản xuất đẻ ra các tổ chức độc
quyền thì nói chung lại là một quy luật phổ biến và cơ bản trong giai đoạn phát
triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản”.
Các xí nghiệp độc quyền hiện đại được hình thành bởi sự kết hợp giữa
quá trình sản xuất hiện đại quy mơ lớn và q trình phân phối quy mơ quốc tế
vào trong một công ty đơn nhất, nghĩa là trong xí nghiệp bao gồm cả các hoạt
động sản xuất cơng nghiệp, thương nghiệp lẫn dịch vụ tài chính…và chúng được
gọi là xí nghiệp cơng thương hiện đại. Xí nghiệp này tồn tại và phát triển qua sự
lên kết theo chiều dọc và chiều ngang. Xí nghiệp liên kết theo chiều dọc thường
là những xí nghiệp theo ngành dọc của mình. Xí nghiệp liên kết theo chiều


4

ngang phần lớn thuộc các ngành khác nhau. Sự liên kết theo chiều dọc là con
đường cơ bản hình thành nên xí nghiệp hiện đại. Sự liên kết này là một hành vi

sáng tạo ra cái mới về chế độ hoạt động của xí nghiệp.
Khi phạm vi địa lý của sự phân cơng nội bộ xí nghiệp cơng thương hiện
đại vượt khỏi biên giới quốc gia dân tộc, thì cơng ty xun quốc gia hình thành.
Cơng ty xun quốc gia là một cơ cấu kinh doanh quốc tế dựa trên sự kết
hợp giữa q trình sản xuất quy mơ lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế và
quá trình phân phối quy mô quốc tế vào trong cơ cấu công ty nhằm chiếm lĩnh và
khai thác thị trường quốc tế đạt hiệu quả tối ưu để thu lợi nhuận độc quyền cao.
Về thể chế quản lý, chúng ta có thể chia thể chế quản lý kinh doanh của
các công ty xuyên quốc gia thành mấy loại chính như sau:
Thứ nhất là, loại tập trung cao độ quyền lực quản lý vào công ty mẹ, gọi
là thể chế “trung tâm nhất nguyên”;
Thứ hai là, loại phân tán quyền lực quản lý vào các cơng ty chi nhánh ở
nước ngồi, hoặc vào các ngành nghề khác nhau trong các bộ phận cấu thành
cơng ty. Đây là hình thức “đa trung tâm”, kiểu “màng lưới”của các công ty
xuyên quốc gia;
Thứ ba là, loại nằm giữa hai loại trên - hình thức thể chế kết hợp giữa
quản lý tập quyền và đa quyền được gọi là thể chế “nhị nguyên”.
Sự phát triển nhanh chóng của các cơng ty xun quốc gia trên phạm vi
toàn cầu thập kỷ 80 và nửa đầu thập kỷ 90 đã thử thách thể chế quản lý truyền
thống. Hình mẫu quản lý chính quy truyền thống dần dần bị phủ định, thể chế
quản lý kiểu màng lưới phát sinh. Đặc trưng của kiểu thể chế quản lý này là
không có trung tâm, mỗi một tầng quản lý trong màng lưới, thậm chí mỗi một
người quản lý đều có thể là một trung tâm. Mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ


5

phức hợp giao chéo kiểu dẻ quạt. Mục tiêu quản lý của nó khơng chỉ có quản lý
việc kinh doanh, tiêu thụ, quản lý nhân viên, mà còn cả việc thiết kế hình tượng
cơng ty, xây dựng những nét văn hóa của cơng ty. Tơn chỉ căn bản của thể chế

quản lý kiểu màng lưới là huy động có hiệu quả nhất tài năng và ưu thế của mỗi
người trong màng lưới công ty.
* Những biểu hiện mới trong hoạt động của các công ty xuyên quốc gia
hiện đại
Đứng trước sự tác động của sự bùng nổ cách mạng khoa học - cơng nghệ,
sự phát triển nhanh chóng của các cơng ty xun quốc gia đã buộc các xí nghiệp
phải chiếm lĩnh các ngành và khu vực kinh tế mới, dẫn tới sự trưởng thành nhanh
chóng của các cơng ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển. Đồng thời, sự cạnh
tranh trên phạm vi toàn cầu của chúng khốc liệt hơn. Các công ty xuyên quốc gia
của các nước bắt đầu điều chỉnh lại hoạt động kinh doanh phân tán, xây dựng lại
hệ thống phân công quốc tế, kết hợp liên kết theo chiều ngang và chiều dọc trong
nội bộ cơng ty; các chương trình hóa trong từng cơng ty xuyên quốc gia và nhất
là từng xí nghiệp chi nhánh được thực hiện nghiêm ngặt, có hiệu quả. Cơ cấu tổ
chức tồn cầu của các cơng ty xun quốc gia tương ứng cũng ra đời. Các công
ty xuyên quốc gia trở thành hình thức hồn thiện điển hình của chế độ xí nghiệp
thích ứng với sự phân cơng và trao đổi quốc tế. Những biểu hiện mới trong hoạt
động của các công ty xuyên quốc gia hiện đại được thể hiện ở các khía cạnh
chính sau đây:
Xuất hiện thêm hàng loạt các nước có cơng ty xun quốc gia, trong đó
có cả các nước đang phát triển.
Đây là điều dễ nhận thấy trước tiên trong hoạt động của các công ty
xuyên quốc gia hiện đại. Nếu như vào năm 1995, thế giới có khoảng 40 ngàn


6

công ty xuyên quốc gia với giá trị sản lượng hàng hóa tạo ra là 3.000 tỷ USD, thì
hiện nay đã tăng lên hơn 60 ngàn công ty xuyên quốc gia với giá trị sản lượng
hàng hóa tạo ra là 4.500 tỷ USD, tương đương 45% GDP nước Mỹ. Theo thống
kê của Liên Hợp Quốc, năm 1970, trong số 7.000 cơng ty xun quốc gia lớn

nhất thì có hơn 50% là của Anh và Mỹ. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX
mở rộng đến Nhật bản, Đức, Thụy Sỹ và các nước Tây Âu. Tiếp đó có “bốn con
rồng châu Á”. Hiện nay đã có hơn 2.000 cơng ty là của hơn 100 nước đang phát
triển. Các công ty xuyên quốc gia tràn ngập khắp hành tinh bằng các dòng vốn
đầu tư trực tiếp FDI, tạo ra các vùng kinh tế tự do và các xí nghiệp hỗn hợp, đặt
hàng trăm ngàn chi nhánh đại diện hay các cơng ty ở nước ngồi.
Cùng với việc tăng thêm về số lượng, bản thân các công ty xuyên quốc
gia đã có sự tập trung tư bản ngày càng lớn. Ở Mỹ, những cơng ty cơng nghiệp
lớn có vốn trên 1 tỷ USD từ 22 công ty năm 1925 tăng lên 316 cơng ty năm
1992. Những cơng ty có vốn là 10 tỷ USD năm 1970 chỉ có 2 cơng ty, đến năm
1992 có 49 cơng ty; tốc độ tăng trưởng lần lượt là 13,4 lần và 25,5 lần. Những
công ty có vốn hơn 1 tỷ USD trở lên chiếm tỷ lệ trong tồn bộ tư bản cơng
nghiệp năm 1960 là 23%, đến năm 1990 tăng lên 71,2%. Trong đó 30% cơng ty
chiếm 80% tồn bộ giá trị tăng trong ngành chế tạo. Do vốn tăng, lợi nhuận cũng
tăng theo. Ở Mỹ, những cơng ty lớn có vốn hơn 1 tỷ USD lợi nhuận đạt được so
với lợi nhuận chung của các công ty thường chiếm tỷ lệ cao từ 30% năm 1960 đã
tăng lên 73,2% năm 1990. Lợi nhuận của 100 công ty đã lên tới mức vượt quá
lợi nhuận của 37 vạn công ty khác cộng lại. Anh, Đức, Nhật Bản những cơng ty
có vốn hơn 1 tỷ USD năm 1965 có 1 cơng ty, đến năm 1991 có 197 cơng ty;
cơng ty có vốn hơn 10 tỷ USD năm 1970 có 1 cơng ty, năm 1991 có 56 công ty,
tăng trưởng lần lượt là 190 lần và 55 lần. Ở Nhật Bản, chỉ có 0,9% cơng ty


7

khống chế 86% vốn. Ở Đức, có 109 cơng ty khống chế 64,7% vốn, ở Anh có 3
cơng ty lớn nhất trong 42 công ty sở hữu 42,2% vốn.
Một số ít ngân hàng lớn dường như khống chế lượng tiền vốn của toàn xã
hội. Trong số 500 ngân hàng lớn nhất trên thế giới, thì Mỹ từ chỗ có 185 ngân
hàng năm 1970, đã giảm xuống chỉ còn 96 ngân hàng năm 1980, tiền gửi ngân

hàng (tồn khoản) lại tăng lên từ 296 tỷ USD lên 1.330 nghìn tỷ USD. Tiền gửi
ngân hàng của 10 ngân hàng lớn nhất cũng chiếm tỷ lệ trong số tiền gửi của toàn
bộ hệ thống ngân hàng từ 15,5% năm 1950 tăng lên 30% năm 1982. Có 5 ngân
hàng thương nghiệp Nhật Bản tập trung 2/3 tiền gửi của tồn quốc, có 4 ngân
hàng thương nghiệp của Anh tập trung trên 90% tiền gửi tồn quốc và một phần
khơng nhỏ lượng tiền gửi ở nước ngồi. Số ít trùm sỏ lũng đoạn khống chế toàn
bộ nền kinh tế Mỹ, chi phối nhiều hoạt động của khơng ít nước khác. Ở Mỹ, 3
cơng ty Thung Dung, Phu-sơ, Clat-si-lơ khống chế 90% sản lượng xe hơi nước
Mỹ. Ở Nhật Bản, công ty Tô-yô-ta, hi-ta-chi, Hon-đa khống chế 3/4 sản lượng xe
hơi Nhật và hàng chục chi nhánh ở các nước khác.
Tồn cầu hóa chiến lược sản xuất - kinh doanh
Do cạnh tranh quốc tế diễn ra ngày càng khốc liệt, muốn có được ưu thế
trong cạnh tranh và thu lợi nhuận cao, các công ty xuyên quốc gia phải gắn liền
các hoạt động kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới, đồng thời phải coi thị
trường thế giới là một chỉnh thế để lưu thơng tiến hành đầu tư, sản xuất, bn
bán. Vì vậy, việc tồn cầu hóa chiến lược kinh doanh đã trở thành một trong
những xu thế nổi bật trong hoạt động của các công ty xuyên quốc gia hiện đại.
Thực tế cho thấy, tồn cầu hóa chiến lược kinh doanh đã và đang đáp
ứng kịp thời sự thay đổi về các cơng nghệ, làm giảm chi phí vận chuyển và thơng
tin liên lạc, tạo điều kiện khuếch trương sản xuất và tiếp thị trên toàn thế giới.


8

Nếu như vào giữa thế kỷ XIX, trên thế giới còn phổ biến các nền sản xuất địa
phương, khoảng 90% hàng hóa - dịch vụ được chế tạo bằng nguyên vật liệu tại
chỗ, trong vịng bán kính 150 km, và cũng trong bán kính này, người ta bán các
sản phẩm làm ra. Trái lại, ngày nay một nước công nghiệp phát triển có khơng
dưới một nửa số sản phẩm được các công ty con hoặc các chi nhánh đặt ở nước
ngồi làm ra, đồng thời có chừng ấy tỷ lệ nguyên vật liệu được nhập khẩu hay

sản xuất ở bên ngồi quốc gia. Các cơng ty xun quốc gia cũng đã thực hiện
quốc tế hóa mạng lưới sản xuất của mình để khai thác tính kinh tế theo quy mơ
các hệ thống tri thức và quản lý độc quyền, từ đó tận dụng tối đa cơ hội phân bố
các cơng đoạn sản xuất và tiếp thị giữa các quốc gia dựa trên ngun tắc tiết
kiệm chi phí.
Đa dạng hóa cơ cấu đầu tư.
Trước đây, hướng đầu tư chủ yếu của các công ty xuyên quốc gia là các
nước tư bản phát triển, bởi ở đây có nhiều thuận lợi về vốn, khoa học - cơng
nghệ, kết cấu hạ tầng, chính trị – xã hội... Chẳng hạn, trong những năm 80, các
công ty xuyên quốc gia của Mỹ đã tập trung tới 73,6% số vốn đầu tư vào các
nước thuộc OECD, trong khi đó phần của các nước đang phát triển chỉ chiếm
24,6%. Với các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản, phần đầu tư vào Mỹ chiếm tới
42,9%, vào Tây Âu chiếm 17,7% tức là đầu tư vào hai khu vực chủ yếu đã chiếm
tới 66,7% tổng luồng đầu tư.
Hiện nay, khu vực đầu tư có sự thay đổi, các công ty xuyên quốc gia
hiện đại đang tiến hành mở rộng đầu tư sản xuất - kinh doanh vào các nước đang
phát triển, như : Trung Quốc, các nước Đông Âu, Mỹ la tinh và một phần ở châu
Phi. Theo thống kê, năm 1993, vốn của công ty phương Tây đầu tư vào các nước
đang phát triển là 80 tỷ USD. Chỉ tính riêng Mỹ đầu tư vào các nước châu Á đã


9

tăng 16%. Còn Singapo, một quốc gia đảo với hơn 3 triệu dân, nhưng đã có tới
3.000 cơng ty xun quốc gia của nhiều nước trên thế giới và các cơng ty này đã
nắm giữ vị trí quan trọng của các ngành công nghiệp chủ chốt (80% năng lực sản
xuất) và tham gia tới 70% kim ngạch xuất khẩu.
Trong đầu tư, các công ty xuyên quốc gia ngày càng chú ý coi trọng khả
năng tiếp thụ công nghệ mới, đầu tư ở những ngành kỹ thuật cao, nhằm thu lợi
nhuận cao.

Ví dụ: Cơng ty lớn IBM, Simen, Boing…đều lần lượt đầu tư mở xưởng ở
các nước có kinh tế phát triển như, Trung Quốc, bốn con rồng châu Á…
Cơ cấu đầu tư cũng từ các hạng mục hữu hình vươn tới vơ hình, hướng
đầu tư cũng từ những ngành sản xuất truyền thống sang những ngành kỹ thuật
cao và các ngành dịch vụ. Trong đó bao gồm cả các ngành vàng bạc, đá quý, bảo
hiểm, công nghệ thông tin…Đối với ngành dịch vụ, tỷ trọng vốn đầu tư mà các
công ty xuyên quốc gia thực hiện tăng rất nhanh, trung bình 10% ở các nước tư
bản phát triển và hơn 20% ở các nước đang phát triển. Với các công ty của Nhật
Bản, gần 2/ 3 tổng số vốn đầu tư vào các nước đang phát triển được đưa vào
ngành dịch vụ.
Đặc biệt, ngân hàng xuyên quốc gia của các nước Anh, Pháp, Đức, Mỹ,
đã đặt hơn 2.000 chi nhành, cơ quan đại diện ở nước ngoài. Ngành vàng bạc, đá
quý quốc tế của ngân hàng xuyên quốc gia thuộc các nước phát triển chủ yếu đã
chiếm hơn 50% tổng mức cho vay trên thế giới, lợi nhuận thu được chiếm 50 80% toàn bộ lợi nhuận, phạm vi cơ cấu đầu tư mạng lưới cũng ngày càng mở
rộng đến các lĩnh vực và ngày càng đa dạng hóa.


10

Trong khi đó, với ngành cơng nghiệp khai khống, tỷ trọng đầu tư đang
tiếp tục giảm mạnh. ở Nhật Bản giảm từ 19,1% thời kỳ 1951 - 1980 xuống còn
1,9% vào những thập kỷ 90; ở Đức, giảm từ 12,6% xuống còn 9,9% cùng kỳ.
Tăng cường thực thi việc sáp nhập, thơn tính và liên minh rộng rãi.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, việc sáp nhập, thơn tính và
liên minh giữa các cơng ty xun quốc gia hiện đại đã trở thành một trào lưu lớn.
Nếu cả năm 1992, các hoạt động giao dịch, thơn tính, thu mua của các công ty là
1.800 cuộc, với tổng số tiền giao dịch là hơn 70 tỷ USD, thì đến năm 1999, tổng
giá trị các vụ sáp nhập giữa các công ty xuyên quốc gia trên thế giới là 2.200 tỷ
USD, tăng 165% so với năm 1998. Từ năm 1993 đến năm 1998 ở Mỹ có 2.492
vụ với giá trị trên 200 tỷ USD. Tính riêng số vụ sáp nhập của các cơng ty có trị

giá trên 1 tỷ USD cho thấy, số lượng tăng, năm sau cao hơn nhiều so với các
năm trước (từ 35 vụ năm 1995 lên 45 vụ năm 1996 và 58 vụ năm 1997 với giá trị
tổng cộng lần lượt là 59 tỷ USD, 86 tỷ USD và 161 tỷ USD). Sáp nhập, thôn tính
diễn ra ở tất cả các ngành, trong đó nổi bật là vụ Hoechst AG (Đức) với Marion
Merrel (Mỹ) trong ngành dược phẩm đạt tới quy mô 7,1 tỷ USD; vụ sáp nhập
giữa Zurich Versi Cherungs GmbH và BAT Industries PLC Financial trị giá 18,4
tỷ USD.
Trong ngành hàng không, những năm 70, cả thế giới chỉ có 10 liên minh
hàng không, song vào năm 1986 con số này là 52, năm 1987 là 350 liên minh,
trong đó Star là một trong những liên minh hàng đầu, gồm nhiều hãng hàng
không có tên tuổi như Lufthanse (Đức), Unitted Airline (Mỹ), Thai Airways
(Thái lan), Canada Air (Canada), Varig (Braxin) và SAS (Bắc Âu).
Trong ngành tài chính ngân hàng, nổi bật là vụ sáp nhập của Citibank với
Salomon Smith Bartney thành Citicorp vào năm 1998. Sau đó Citicorp lại tiếp


11

tục sáp nhập với Travelers Group (một tập đoàn tài chính lớn của Mỹ) hình
thành nên Citigroup có mạng lưới bao trùm tồn cầu và trở thành cơng ty dịch vụ
tài chính lớn nhất thế giới với tổng giá trị tài sản 70 tỷ USD.
Bên cạnh đó, các hoạt động sáp nhập, thơn tính đối với các ngành vận tải,
du lịch, thực phẩm, khoa học - kỹ thuật cao cũng đang diễn ra sơi nổi. Trong đó,
Mỹ là nơi nổi bật, nhất là từ năm 1999 đến nay, giá trị của nó đạt 1.070 tỷ USD.
Cịn ở Nhật Bản, các công ty xuyên quốc gia của nước này dựa vào
khoản dự trữ lớn của mình cũng tiến hành các hoạt động thơn tính lớn ở bên
ngồi. Ví dụ, một cơng ty cổ phần của nhiều công ty xuyên quốc gia của Nhật
mua đất của vùng duyên hải đông bắc và đơng nam Trung Quốc, thực hiện thơn
tính gần 100 xí nghiệp lớn và vừa đang ở cảnh bị thua lỗ hoặc đang đứng trước
nguy cơ bị phá sản. Riêng 6 tháng đầu năm 1989 số công ty xuyên quốc gia nước

ngồi bị các cơng ty xun quốc gia Nhật Bản mua lại và hợp nhất là 170 cơng
ty (trong đó có 84 cơng ty Mỹ, 40 cơng ty châu Âu, 34 cơng ty châu Á và châu
Đại dương…). Cịn vào những năm 90, số vụ sáp nhập, thơn tính đạt 908 vụ,
bình qn mỗi vụ 86,7 triệu USD. Chính sự sáp nhập, thơn tính của các cơng ty
xun quốc gia đã tạo ra những những cơng ty có quy mơ khổng lồ.
Các công ty xuyên quốc gia phương Tây đã tăng cường khống chế cổ
phần đan xen giữa các công ty và thực hiện rộng rãi việc ký kết liên minh chiến
lược. Ngành ô tô là ngành liên minh xuyên quốc gia sớm nhất. Ví dụ: liên minh
giữa hãng Ford và Mazda.
Việc khống chế cổ phần đan xen và hùn vốn để sản xuất - kinh doanh
cũng khá phát triển. Ví dụ: cơng ty Ford với 24 cổ phần của công ty ô tô Đông
Dương.


12

Việc ký kết liên minh chiến lược giữa các công ty xuyên quốc gia là một
hình thức cạnh tranh quốc tế mới làm thay đổi cục diện chiến tranh của thị
trường thế giới. Sở dĩ các công ty xuyên quốc gia hiện đại có sự liên minh, thơn
tính là do mấy lý do sau:
- Tìm kiếm lợi nhuận trong điều kiện lạm phát diễn ra yếu.
-Thị trường chứng khoán giúp chúng có khả năng thanh tốn cho các vụ
mua đoạt quy mô lớn.
-Luật chống Trust. Nhờ luật này, nhiều lĩnh vực mới đã mở cửa cho cạnh
tranh.
- Để thích ứng được với q trình tồn cầu hóa đang diễn ra với cường độ
cao chưa từng thấy, các công ty cần phải có tầm vóc đủ sức mạnh cạnh tranh
tồn cầu và phương sách phù hợp.
Làn sóng hợp nhất hiện nay còn tuân thủ mục tiêu hiệu quả và thống trị
thị trường. Đồng thời cũng là biểu hiện cụ thể của q trình tích tụ và tập trung

sản xuất trong điều kiện sức sản xuất phát triển nhảy vọt của những năm cuối thế
kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
Đa dạng hóa các cơ sở sản xuất - kinh doanh.
Cùng với việc gia tăng bảo hộ trở lại và khu vực hóa kinh tế, địa phương
hóa các cơ sở sản xuất - kinh doanh cũng trở thành một xu thế trong hoạt động
của các công ty xuyên quốc gia hiện đại. Các công ty từng bước thực hiện người
địa phương quản lý xí nghiệp địa phương; khơng ít cơng ty đã sử dụng tối đa
nhân cơng, các nguồn lực sẵn có của khu vực địa phương mình để các xí nghiệp
của mình hoạt động.
Các nước đẩy mạnh sức cạnh tranh của nước mình thơng qua sự phát
triển của các cơng ty xun quốc gia. Ví dụ châu Á đang dùng thế tăng trưởng


13

mạnh của mình để trở thành điểm tập trung vốn đầu tư lớn của công ty xuyên
quốc gia, thúc đẩy vốn đầu tư của toàn cầu dịch về khu vực phía đơng.
Theo đà phát triển của khu vực hóa kinh tế, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch
mà đặc trưng là các hàng rào phi thuế quan không ngừng được sử dụng, vì thế
ảnh hưởng tới sản xuất - kinh doanh của các cơng ty xun quốc gia. Để né tránh
nó hoặc bảo hộ mậu dịch không thể thu được lợi ích kinh tế nhiều hơn, thì các
cơng ty xun quốc gia phát triển theo hướng thơn tính, mua lại và liên minh.
Bên cạnh đó, việc quốc tế hóa thị trường vàng bạc làm cho việc kinh doanh toàn
cầu về vốn và vàng bạc đứng trước những rủi ro về ngoại tệ ngày càng lớn, buộc
các công ty xuyên quốc gia phải chuyển các cơ sở sản xuất của mình đến các
nước đang phát triển.
Một số doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tồn tại trong cạnh tranh cũng phải
tập trung vốn thành lập cơng ty xun quốc gia để mong có được sự phát triển
phồn vinh. Mấy năm gần đây, các cơng ty của Nhật Bản trong q trình phát
triển mở rộng ra nước ngồi để kịp thích ứng với nhu cầu của khách hàng ở nước

ngoài đang xây dựng hệ thống tình báo quốc tế, từ đó làm nâng cao trình độ quản
lý của tầng quyết sách cao nhất trong cơng ty xun quốc gia, giúp dự báo tốt
tình hình.
Các công ty xuyên quốc gia của Mỹ thường chú trọng khai thác các sản
phẩm mới và chiếm lĩnh thị trường, bỏ ra nhiều khoản vốn lớn đầu tư cho sản
phẩm mới thu lợi nhuận. Như công ty GE của Mỹ, mỗi năm chi phí cho việc
nghiên cứu sản phẩm mới trên 1 tỷ USD, gần bằng 10% tổng thu nhập hàng năm
của cơng ty, do đó, đã có chỗ đứng lâu bền trên thị trường quốc tế.
Các công ty xuyên quốc gia của Mỹ còn quan tâm nhiều đến việc đa dạng
hóa sản phẩm khi thâm nhập vào thị trường nước ngồi. Như vậy có thể lợi dụng


14

chu kỳ sống của các sản phẩm khác nhau và hàng hóa ứ đọng khác nhau ở thị
trường nước ngồi để duy trì kinh doanh bình thường.
Các cơng ty này của Mỹ còn áp dụng một số phương thức kinh doanh đặc
biệt, đem tài sản vơ hình nhượng cho các xí nghiệp nước ngồi, như nhãn hiệu
hàng hóa, bí mật kỹ thuật…để tăng nhanh tốc độ thẩm thấu vào nước khác. Đến
nay, hình thức kinh doanh đó đã phổ biến trong các lĩnh vực như chuyển phắc
nhanh, giải khát, cho thuê ô tô.
Các công ty xuyên quốc gia của các nước đang phát triển cũng bắt đầu
xuất hiện, một số đã bước vào hàng ngũ các công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế
giới.
Có thể thấy rằng, với những hoạt động mới này, các công ty xuyên quốc
gia đã tạo ra “thế giới mới” theo hình mẫu và với cách thức riêng của mình.
Thêm vào đó, nhờ hoạt động mang tính tồn cầu, các cơng ty xun quốc gia có
những ưu thế đặc biệt như: lưu chuyển tư bản nhanh chóng tồn cầu, tiết kiệm
thời gian sản xuất và các dự trữ sản xuất; điều phối và giảm thiểu tối đa cơng
suất khơng sử dụng giữa các nước, do đó, chu kỳ sống của sản phẩm hay vịng

đời của cơng nghệ - những cơng nghệ lạc hậu ở chính quốc có thể được chuyển
sang cho các nước ngoại vi; hơn nữa, làm cho sản phẩm tồn cầu có thể thích
ứng với nhu cầu dị biệt của mỗi vùng hay địa phương.
Những biểu hiện mới trong hoạt động trên đây đã chứng tỏ sự nhanh
nhạy, kịp thích ứng của các cơng ty xuyên quốc gia hiện đại với các biến đổi trên
thực tế cả về thực lực, cả về thị trường đầu vào, đầu ra nhằm đạt lợi nhuận cao.
Đồng thời, cũng cho thấy sự chật chội về không gian - vật chất của thế giới tư
bản, giờ đây nó trở nên thiếu tính hấp dẫn, khơng cịn là nơi đảm bảo “nguồn
sống” cho bản thân các công ty xuyên quốc gia.


15

Nghiên cứu những biểu hiện mới này cho ta một cơ sở chắc chắn để nhìn
nhận đầy đủ hơn về sự tồn tại, xu thế vận động của các công ty xuyên quốc gia;
hiểu rõ đặc điểm, bản chất của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, từ đó rút ra được
những bài học, kinh nghiệm quý cho chính chúng ta trong tổ chức quản lý, hoạt
động của các doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng.
PHẦN 2

Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI VIỆC
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẮP XẾP VÀ ĐỔI MỚI
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là những doanh nghiệp giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế, cung ứng những hàng hóa và dịch vụ cơng cộng cần thiết
trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội, quốc phòng, an ninh và một số
ngành sản xuất kinh doanh trọng yếu khác của nền kinh tế. Theo đó, trong tình
hình hiện nay, việc sắp xếp và đổi mới các DNNN là việc làm cần thiết, làm cho
DNNN thực sự trở thành lực lượng vật chất và công cụ quan trọng để nhà nước

định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô theo định hướng xã hội chủ nghĩa; có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự vững mạnh của thành phần kinh tế nhà nước nói
riêng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung. Hội nghị lần thứ 3 Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã chỉ rõ: “Việc tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ cấp
bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới
mẻ”.
Thực hiện chính sách đúng đắn này, những năm qua, công tác sắp xếp và
đổi mới DNNN ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Cụ thể là, số lượng


16

DNNN giảm từ trên 12.000, đầu những năm 90 xuống còn 3.293 vào năm 2005
(dự kiến hết năm 2006 còn 2.767 DNNN). Trong số các doanh nghiệp được sắp
xếp, thì ngành công nghiệp - giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng
65,5%, thương mại - dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông - lâm - ngư nghiệp
chiếm 5,8%. Số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng giảm 50%; số DNNN có vốn trên
10 tỷ đồng tăng từ 15 đến 25%; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng 7 lần;
năng suất lao động tăng trung bình 63,9%, thu nhập bình quân hàng tháng của
lao động tăng 34,5% so với trước. Tỷ lệ nộp ngân sách trên một đồng vốn tăng
trên 20%; tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước cũng như đóng góp của DNNN
trong GDP đều tăng. Nhiều doanh nghiệp đã có tinh thần chủ động, sáng tạo, học
hỏi vươn lên, mạnh dạn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ thiết bị, nâng cao
sức cạnh tranh trong q trình hội nhập…Những kết quả này đã góp phần quan
trọng vào việc bảo đảm nhiều cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tế, chúng tơi thấy q trình sắp xếp và đổi
mới DNNN cũng đã và đang tồn tại nhiều vướng mắc cần khắc phục. Có thể chỉ
ra mấy vấn đề chính như sau:
Các cơ chế, chính sách về cổ phần hóa chưa đồng bộ, quy trình và thủ tục

cịn phức tạp, chưa khuyến khích doanh nghiệp cổ phần hóa. Việc khống chế tỷ
lệ mua cổ phần lần đầu; quy định số cổ phần ưu đãi; định giá doanh nghiệp; xử
lý phần vốn tự bổ sung…còn nhiều bất cập. Các biện pháp giao, bán, khoán kinh
doanh, cho thuê DNNN chưa được đẩy mạnh, chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm chỉ đạo thực hiện chủ trương này;
chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ thể.
Cơ cấu DNNN còn nhiều bất hợp lý, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề
và tổ chức quản lý. Các doanh nghiệp của các ngành kinh tế - kỹ thuật hoạt động


17

phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau, điển hình là
trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn…Hiện tại đa số các doanh nghiệp được cổ
phần hóa đều có vốn nhà nước quá nhỏ (số lượng các doanh nghiệp có quy mơ
vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm gần 60%, chỉ có 18,5% số doanh nghiệp cổ
phần hóa có quy mơ vốn nhà nước trên 10 tỷ VND).
Khơng ít bộ, ngành, địa phương cịn do dự, khơng muốn chuyển đổi sở
hữu, cổ phần hóa vì sợ mất quyền quản lý của mình đối với doanh nghiệp trực
thuộc. Người lao động trong doanh nghiệp đều sợ mất sự bao cấp, bảo hộ và che
chắn của nhà nước, sợ mất quyền lợi, mất việc làm. Nhiều doanh nghiệp được
lựa chọn cổ phần hóa, giao, bán, khốn, kinh doanh, cho thuê nhưng chưa có sự
đổi mới mạnh trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư
duy quản lý vẫn mang nếp cũ nên hiệu quả kinh doanh thấp, tài chính khơng lành
mạnh, nợ phải trả lớn, công nghệ lạc hậu; đa số lãnh đạo công ty cổ phần đều là
cán bộ cũ của DNNN chuyển sang, khơng có thêm những khn mặt mới với
cách tư duy theo lối mới để đem lại sức sống mới cho công ty…đã không hấp
dẫn các nhà đầu tư và vướng mắc ngay khi bắt đầu triển khai thực hiện.
Môi trường kinh doanh giữa các thành phần kinh tế chưa thực sự bình
đẳng. DNNN vẫn được hưởng nhiều ưu đãi hơn so với doanh nghiệp dân doanh,

nên chưa muốn cổ phần hóa hoặc chưa thực hiện các biện pháp chuyển đổi sở
hữu. Đặc biệt, ở các tổng cơng ty lớn, mặc dù có sự vươn lên đáng kể nhưng
nhìn chung chưa tương xứng với yêu cầu và điều kiện hiện có. Các tổng cơng ty
được nhà nước tập trung đầu tư và tạo điều kiện thuận kợi về vốn, đất đai, tín
dụng, thuế…nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao.
Tình hình trên dẫn đến hậu quả là quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN diễn
ra chậm, chưa đúng theo kế hoạch đề ra (so với Đề án được Thủ tướng Chính


18

phủ phê duyệt thì số DNNN được cổ phần hóa chưa đạt 80%). Hiệu quả sản xuất
- kinh doanh của các doanh nghiệp thấp, chưa tìm được chỗ đứng vững chắc và
sức cạnh tranh cũng như uy tín trên thị trường cịn nhiều hạn chế, ảnh hưởng
khơng nhỏ đến củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là việc chúng ta chuẩn
bị ra nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh rất
lớn không chỉ từ các doanh nghiệp trong nước, mà cịn từ các doanh nghiệp nước
ngồi, bởi những cam kết mở cửa theo quy định của WTO buộc các doanh
nghiệp phải dỡ bỏ sự khống chế vế tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài
(giảm thuế quan đối với các mặt hàng công nghiệp từ mức bình qn 21,7%
xuống cịn 13%, bỏ các hạn chế định lượng, bỏ các khoản trợ giá và ưu đãi
không phù hợp, mở cửa 110/115 ngành dịch vụ, chấp nhận các nguyên tắc vế đối
xử quốc gia, sửa đổi trên 30 luật pháp chủ yếu v. v.). Trong bối cảnh đó, nhiều
doanh nghiệp của chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ bị “thơn tính”. Theo dự báo
của các nhà kinh tế, khi ra nhập WTO sẽ có khoảng 50% doanh nghiệp may mặc
của ta sẽ bị phá sản nếu khơng có những điều chỉnh thích hợp.
Bài học của khơng ít các nước trong khu vực, trên thế giới và của chính
các công ty xuyên quốc gia hiện đại cho thấy, các doanh nghiệp chỉ có thể tồn
tại, đứng vững trên thị trường khi bản thân các doanh nghiệp năng động, thường

xuyên đổi mới cho phù hợp với xu thế vận động khách quan cả về cơ cấu tổ
chức, cả về chiến lược, sách lược, kế hoạch và phương thức sản xuất - kinh
doanh.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên nhằm đáp ứng những đòi hỏi
khách quan, vấn đề nâng cao hiệu quả việc sắp xếp và đổi mới DNNN ở nước ta


19

hiện nay là việc làm hết sức cấp bách và cần thiết. Muốn vậy, theo tôi, chúng ta
cần giải quyết tốt mấy nội dung cơ bản dưới đây:
Một là, Thực hiện nhất quán chủ trương sắp xếp lại căn bản khu vực
DNNN trên cơ sở lấy tiêu chuẩn hiệu quả làm thước đo chủ yếu. Nhà nước cần
đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp (như cơng ty cổ phần, công ty liên
doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên…). Chấn chỉnh lại việc sắp
xếp DNNN, thực hiện việc chuuển đổi hình thức sở hữu thơng qua biện pháp cổ
phần hóa; áp dụng luật phá sản đối với những DNNN thua lỗ kéo dài khơng có
khả năng phục hồi và khơng có tầm quan trọng đặc biệt; đồng thời áp dụng phổ
biến cơ chế giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập phần lớn các DNNN
có quy mô nhỏ. Thống nhất về tiêu thức phân loại, lựa chọn doanh nghiệp khi
sắp xếp; cần làm rõ các tiêu chí xác định những lĩnh vực có tầm chiến lược cần
sự có mặt của các DNNN và những DNNN có vai trị đặc biệt quan trọng cần
duy trì trong q trình sắp xếp và đổi mới DNNN. Đồng thời, nhà nước khẩn
trương sửa đổi hệ thống cơ chế, chính sách cho đồng bộ, tạo lập mơi trường kinh
doanh bình đẳng làm cho các doanh nghiệp chống gian lận thương mại. Với tư
cách là “bà đỡ” cho các doanh nghiệp khi mới ra đời hoặc chuyển đổi sở hữu, cổ
phần hóa, nhà nước có cơ chế tài chính - tín dụng thơng thống và ưu đãi để hỗ
trợ doanh nghiệp thực hiện phương án sản xuất - kinh doanh mới hoặc củng cố
ổn định sản xuất, đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hai là, Các doanh nghiệp cần có phương án sản xuất kinh doanh hợp lý,

áp dụng khoa học - kỹ thuật mới để cải tiến mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm phù
hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng; đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO, thực hành tiết
kiệm, chống tham ô, tham nhũng. Điều quan trọng là, phải nối mạng thông tin


20

doanh nghiệp để đưa sản phẩm lên mạng intơrnet nhằm tăng khả năng tiếp thị,
quảng cáo, mở rộng thị trường tiêu thụ; chủ động cắt giảm và xóa bỏ các khoản
chi phí bất hợp lý và có kế hoạch sắp xếp lại sản xuất, lao động cho phù hợp với
hoạt động sản xuất - kinh doanh; sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, giảm bớt
vốn vay, giảm chi phí, hạ giá thành. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế diễn
ra nhanh chóng, nhất là việc chúng ta chuẩn bị ra nhập WTO, do vậy, các doanh
nghiệp phải có kế hoạch vươn lên, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần không chỉ ở
thị trường quốc tế mà ngay cả ở thị trường trong nước. Trước mắt, phải xác định
đúng đắn chiến lược sản xuất - kinh doanh, chiến lược đầu tư, chiến lược sản
phẩm của doanh nghiệp phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt
khác, DNNN phải có kế hoạch nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ
kỹ thuật của doanh nghiệp và công nhân lành nghề, bậc cao, chú trọng đào tạo
kiến thức mới và kỹ năng hiện đại, kết hợp bồi dưỡng trong nước và nước ngoài,
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Ba là, Nhà nước cần nhanh chóng bổ sung, hồn thiện một cơ chế và
chính sách sau:
1 - Hồn thiện chính sách cổ phần hóa DNNN, bãi bỏ quy định hạn chế
mức mua cổ phần lần đầu, khắc phục xu hướng bán cổ phần lần đầu trong nội bộ
doanh nghiệp; điều chỉnh mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ quản lý doanh
nghiệp để phát huy vai trị tích cực của người quản lý doanh nghiệp; cho phép
nhà đầu tư mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa mà nhà
nước không cần giữ cổ phần chi phối theo quy định của Luật Doanh nghiệp và

Luật khuyến khích đầu tư trong nước; mở rộng hình thức bán cổ phần lần đầu
thơng qua đấu giá hoặc áp dụng các hình thức khác như bán thỏa thuận qua bảo
lãnh phát hành, đại lý phát hành; cải tiến phương pháp định giá doanh nghiệp, áp


21

dụng cơ chế đấu giá trên cơ sở cung cầu, phản ánh đúng giá trị của doanh nghiệp
cổ phần hóa; nâng cao hiệu quả hoạt động của quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần
hóa; miễn lệ phí trước bạ đối với tài sản chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần;
bố trí nguồn kinh phí trong dự tốn ngân sách hàng năm (không nằm trong mục
chi thường xuyên) bên cạnh nguồn vốn thu được trong quá trình cổ phần hóa để
thúc đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN.
2 - Hoàn thiện cơ chế giao, bán, khốn kinh doanh các DNNN quy mơ
nhỏ, thua lỗ kéo dài, khơng cổ phần hóa được và nhà nước khơng cần nắm giữ để
sử dụng có hiệu quả tài sản của nhà nước, bảo đảm việc làm, thu nhập, quyền lợi
hợp pháp của người lao động. Mục đích là làm cho khu vực DNNN khơng cịn
các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có quy mơ nhỏ, cơng nghệ lạc hậu, làm
ăn không hiệu quả, thua lỗ kéo dài phải bao cấp thường xuyên. Việc giao, bán,
khoán kinh doanh trước hết ưu tiên cho tập thể người lao động, bảo đảm cho
người lao động là người đồng sở hữu doanh nghiệp, tham gia làm chủ trong quá
trình quản lý doanh nghiệp. Khuyến khích tổ chức và cá nhân tiếp cận các
DNNN thuộc loại này để tiếp tục đầu tư phát triển nhằm bảo toàn vốn và giải
quyết việc làm cho người lao động, nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản nhà nước
tại doanh nghiệp. Khẩn trương chuyển đổi các DNNN của các tổ chức chính trị,
chính trị - xã hội sang hoạt động theo mơ hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên. Nghiên cứu triển khai xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh của
nhà nước theo mơ hình “cơng ty mẹ - cơng ty con”, trước hết là với số tổng cơng
ty.
3 - Thí điểm thực hiện phương thức nhà nước đầu tư và quản lý doanh

nghiệp thơng qua cơng ty tài chính nhà nước. Đây là một tổ chức tài chính của
nhà nước có chức năng kinh doanh vốn của nhà nước nhằm mục đích: chuyển từ


22

cơ chế nhà nước cấp phát vốn sang cơ chế nhà nước đầu tư vốn vào doanh
nghiệp, xác lập rõ quyền sở hữu về vốn của nhà nước và quyền sử dụng vốn của
doanh nghiệp, chuyển phương thức quản lý tài chính mang tính hành chính sang
phương thức kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường, góp phần thực hiện nhanh
q trình cơng ty hóa DNNN và xóa bỏ chế độ chủ quản của cơ quan hành chính
cấp trên trực tiếp. Thành lập công ty mua bán nợ để xử lý các khoản nợ khó địi
và thực hiện một số chức năng trong quá trình cải cách doanh nghiệp. Giải quyết
dứt điểm tình trạng nợ tồn đọng, nợ dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau trong khu
vực doanh nghiệp, nhằm xác lập lại hệ thống quan hệ tài chính lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, doanh nghiệp và ngân hàng. Trên cơ sở phân loại và xác định
tính chất, nguyên nhân các khoản nợ, để có biện pháp xử lý thích hợp như xóa
nợ, chuyển đổi nợ thành cổ phần doanh nghiệp.
4 - Quy định chế độ khấu hao gắn với khuyến khích đổi mới cơng nghệ,
kỹ thuật; ưu đãi tài chính đặc biệt cho các doanh nghiệp có trang bị công nghệ,
kỹ thuật cao; thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường đóng góp xây dựng và tích
cực sử dụng các quỹ phát triển sản phẩm mới, quỹ hỗ trợ quốc gia về khoa học công nghệ; thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm
mới, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế trong quá trình hội nhập.
Chuyển đổi cách phân loại doanh nghiệp cơng ích nhằm huy động mọi
tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế cùng tham gia hoạt động cung ứng các
dịch vụ cơng ích cho xã hội. Nhà nước cần giảm số lượng, thu hẹp phạm vi hoạt
động theo hướng chỉ duy trì, củng cố các doanh nghiệp hoạt động cơng ích gắn
với dịch vụ an ninh, quốc phịng, những dịch vụ cơng ích mà các thành phần
kinh tế khác khơng được phép hoặc khơng thể phục vụ có hiệu quả. Thực hiện
khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế khác tham gia cung ứng dịch vụ



23

công cộng theo phương thức thỏa thuận hoặc ký kết hợp đồng kinh tế. Ngăn
chặn xu hướng chuyển từ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh sang doanh nghiệp
hoạt động công ích.
5 - Thực hiện cơng khai hóa tài chính doanh nghiệp; tổ chức tốt cơng tác
kiểm tốn nội bộ, mở rộng phạm vi kiểm toán độc lập đối với các loại hình
doanh nghiệp; hồn chỉnh cơ chế đấu thầu mua sắm, đấu giá nhượng bán tài sản,
cải tiến hệ thống chi tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp phù
hợp với cơ chế thị trường.
Bổ sung chính sách đối với lao động trong sắp xếp, cơ cấu lại DNNN.
Các DNNN cần rà soát và xây dựng đúng định mức, định biên để xác định số
lượng lao động cần thiết. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về hợp đồng lao
động. Khẩn trương thành lập quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Kết hợp việc giải quyết
lao động dôi dư với việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, trước hết là lao động dơi dư. Hỗ trợ nguồn
kinh phí từ ngân sách nhà nước và các nguồn tài chính vay ưu đãi của các tổ
chức tài chính, tiền tệ quốc tế để giải quyết lao động dôi dư và khơng có việc làm
thơng qua quỹ hỗ trợ sắp xếp, cổ phần hóa. Xây dựng chính sách bảo hiểm xã
hội thích hợp đối với những người nghỉ hưu sớm, ưu đãi trợ cấp theo lương cấp
bậc, chức vụ và thời gian đóng bảo hiểm xã hội; thực hiện chế độ trợ cấp thôi
việc đối với người lao động bị mất việc làm do sắp xếp lại DNNN và có kế
hoạch đào tạo nghề, khuyến khích tự tìm cơng việc mới, bảo đảm đời sống cho
người lao động.
Bổ sung quy định về thu và sử dụng nguồn thu từ cổ phần hóa một cách
cụ thể hơn, đặc biệt là trường hợp phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn và
cho phép sử dụng nguồn vốn này để hỗ trợ các doanh nghiệp sắp xếp, đồng thời



24

xác định rõ nguyên tắc phân chia thặng dư vốn nhà nước và các cổ đông trong
doanh nghiệp.
6 - Cần quy định rõ về nhà đầu tư chiến lược, kết hợp với xóa bỏ độc
quyền mua cổ phần ưu đãi giảm giá với các nhà đầu tư chiến lược trong nước để
tạo sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Nâng tỷ lệ cổ phần bán đấu giá công khai
lên mức không thấp hơn 30% vốn điều lệ (hiện nay là 20%), trong đó giành một
tỷ lệ nhất định để bán cho nhà đầu tư chiến lược.
Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong q trình triển
khai cổ phần hóa; bổ sung thêm chế tài quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của
các bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, giám đốc và các bộ phận quản lý, điều hành
doanh nghiệp trong quá trình triển khai cổ phần hóa các doanh nghiệp trực thuộc.
7 - Ban hành các văn bản dưới luật đối với Luật Doanh nghiệp, Luật Sử
dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh theo hướng tạo khuôn khổ pháp lý
phù hợp cho các loại hình doanh nghiệp; ban hành Luật Chống độc quyền và
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh; sửa đổi Luật phá sản doanh nghiệp theo
hướng người quyết định thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá
sản; sửa đổi Bộ Luật lao động bảo đảm gắn kết chặt giữa quyền lợi hợp pháp và
nghĩa vụ của người lao động.
Rõ ràng, để sắp xếp và đổi mới DNNN đáp ứng yêu cầu thực tiễn phải
xuất phát từ cả hai chủ thể: doanh nghiệp và nhà nước. Yêu cầu hàng đầu để
doanh nghiệp trụ vững và phát triển phụ thuộc vào chính khả năng, sự cố gắng
vươn lên của từng doanh nghiệp; phải đổi mới tư duy, phải vượt qua chính mình
để có cách nhìn mới, có một quan niệm mới về kinh tế nhà nước và vai trò chủ
đạo của nó, về đổi mới và cải cách DNNN; dám từ bỏ lợi ích cục bộ để đảm bảo
được lợi ích của toàn cục, từ bỏ “chiếc mũ bảo hộ” của nhà nước để tự vượt lên



25

chính mình. Sự hiện diện của các cơ chế, chính sách của nhà nước là yếu tố rất
quan trọng để tạo đà cho doanh nghiệp phát triển vững chắc, nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
KẾT LUẬN

1 - Sự ra đời và phát triển của các công ty xuyên quốc gia là một trong
những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản ngày nay, là kết quả của sự thích ứng
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, của quá trình
cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Các công ty xuyên quốc gia một mặt, là bộ phận
cấu thành năng động, là sản phẩm của q trình quốc tê hóa sản xuất và tư bản,
mặt khác, nó lại là nhân tố thúc đẩy q trình đó, thực hiện gắn kết các bộ phận
khác của nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa nên đã thúc đẩy nhanh q trình
tồn cầu hóa và mở rộng hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Đồng thời với
những hoạt động của mình, bên cạnh sự thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
thúc đẩy quá trình tiến bộ kinh tế của các quốc gia…,cũng tạo ra những trở ngại
và mâu thuẫn mới do chạy theo lợi nhuận siêu ngạch. Đó cũng là biểu hiện tính
hạn chế của hình thức vận động mới mang tính quốc tế của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong điều kiện lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao
và mang tính quốc tế hóa sâu sắc.
2 - Bằng những hoạt động quốc tế của mình, các công ty xuyên quốc gia
đã đưa các nhân tố mới - nhân tố quốc tế - vào các nền kinh tế của mỗi quốc gia,
làm cho mỗi chương trình kinh tế của mỗi quốc gia gắn liền với quốc tế và khu
vực. Vì vậy, khi xây dựng các chương trình, kế hoạch kinh tế, mỗi quốc gia cần
phải tính tới các yếu tố quốc tế, đặc biệt là những hoạt động của các công ty
xuyên quốc gia hiện đại.



×