Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh Bắc Cạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.81 KB, 78 trang )

Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU

Trước xu hướng phát triển chung của thế giới, quá trình toàn cầu hoá
nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia. Trong tình hình đó,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước đã chủ trương
thực hiện chuyển dich cơ cấu nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm đưa nền kinh tế thoát
khỏi tình trạng lạc hậu và kém phát triển, chủ động hội nhập vào nền kinh tế
thế giới. Và tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng
định đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
mà trọng tâm là phát triển nhiều thành phần kinh tế có nhiều hình thức sở
hữu, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữu vai trò chủ đạo. Kinh tế Nhà
nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước, kinh tế Nhà nước
là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó cần phải có những nhận thức và
đánh giá đúng ý nghĩa về thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc
dân. Thành phần kinh tế Nhà nước là một phạm trù kinh tế chính trị dùng để
nhận thức tổng thể kết cấu kinh tế - xã hội. Thành phần kinh tế Nhà nước là
một trong 6 thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay, đại diện cho quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa.
Như vậy chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát triển khu vực kinh
tế Nhà nước, trong đó bộ phận doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí then chốt
trong thành phần kinh tế Nhà nước, sẽ đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ
và khoa học. Vì vậy quá trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước
ở Việt Nam hiện nay được xem là giải pháp tối ưu giúp doanh nghiệp Nhà
nước hoạt động hiệu quả hơn trong cơ chế mới; là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng và Nhà nước về quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nước.
Ý thức được vai trò và tầm quan trọng của thành phần kinh tế Nhà
nước nói chung và hệ thống doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đối với nền


kinh tế của địa phương, kể từ ngày tách tỉnh Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
tỉnh Bắc Cạn đã thực hiện ngay việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo chủ
trương của Đảng và Nhà nước, tức là tập chung phát triển khu vực kinh tế
Nhà nước. Tuy nhiên với điểm xuất phát thấp, nền kinh tế lạc hậu và chậm
phát triển so với mặt bằng chung của đất nước nên quá trình chuyển dịch cơ
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 1 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cấu kinh tế tại Bắc Cạn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là hệ thống doanh
nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý chưa phát huy được vai trò chủ đạo, đa số
các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả, gây thất thoát cho
Nhà nước một cách nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế cũ của
doanh nghiệp không phù hợp với cơ chế mới, cơ chế thị trường. Chính vì vậy
muốn phát huy được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước, muốn
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động hiệu quả thì tỉnh Bắc Cạn cần phải tiến
hành đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý. Trên
thực tế cho thấy, trong những năm gần đây Bắc Cạn đã có nhiều cố gắng nâng
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước bằng việc đổi mới và săp xếp
lại doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên công tác đổi mới và sắp xếp lại doanh
nghiệp Nhà nước tại Bắc Cạn còn gặp nhiều bất cập, nhiều vướng mắc trong
việc thực thi hình thức đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước tại địa
phương. Do đó, trước sự phát triển không ngừng của đất nước, tỉnh Bắc Cạn
cần phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của địa phương, đồng thời tìm
những giải pháp sử dụng hiệu quả hơn nữa các hình thức đổi mới và sắp xếp
doanh nghiệp Nhà nước; Cần phải đẩy nhanh tiến độ đổi mới và sắp xếp
doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý.
Như vậy, với mục tiêu đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước tại
Bắc Cạn, cùng với sự giúp đỡ và hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thị Lệ
Thuý, chính là lý do khiến em chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm
đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh Bắc Cạn quản lý
trong giai đoạn 2001 – 2010.” Hy vọng sẽ góp phần làm rõ thêm về vấn đề

bức xúc của tiến trình đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước ở Bắc Cạn
trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên với trình độ còn hạn chế, bài viết sẽ
không thể tránh những sai sót về kết cấu và nội dung. Vì vậy kính mong cô
giáo giúp đỡ và cho ý kiến để em hoàn thành được bài viết.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chuyên đề thực tập gồm 3 chương:
Chương I. Những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Chương II. Thực trạng đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước tại Bắc
Cạn giai đoạn 2001 – 2010.
Chương III. Một số giải pháp đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước do
Bắc Cạn quản lý.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 2 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
I. LÝ LUẬN VÀ NHẬN THỨC VỀ NHÀ NƯỚC VÀ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC.
1. Nhà nước và vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân.
1.1. Nhà nước.
1
Nhà nước về thực chất là một thiết chế quyền lực chính trị, là cơ quan
thống trị giai cấp của một hoặc một nhóm giai cấp này đối với một hoặc toàn
bộ các giai cấp khác, đồng thời còn để duy trì và phát triển xã hội mà nhà
nước đó quản lý trước các nhà nước khác và trước lịch sử.
Trong các đặc trưng về chất của nhà nước thì đặc trưng về mặt kinh tế
bao gồm các vấn đề sản xuất và vấn đề lợi ích kinh tế là quan trọng nhất.
Nội dung của nhà nước: Bao gồm thiết chế nhà nước và thể chế hoạt
động của nhà nước.


1

Giáo trình quản lý xã hội-Trang 42 - 44.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 3 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Nhà nước
Quyền lực của nhà nước
Thiết chế nhà nước Thể chế hoạt động của nhà nước
Các
nguyên
tắc tổ
chức nhà
nước
Các
nguyên tắc
hoạt động
của nhà
nước
lập pháp Hành pháp Tư pháp
Hệ thống
các cơ
quan nhà
nước
nguồn
gốc
quyền
lực
Chế độ
chính
trị
Hệ
thống
luật

pháp
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2. Vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân.
Tuỳ theo phạm vi, tính chất và nội dung của hoạt động kinh tế, người ta
đưa ra nhiều phạm trù và nhiều khái niệm khác nhau về kinh tế như kinh tế vi
mô, kinh tế vĩ mô, kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế kế hoạch hoá,
kinh tế thị trường.v.v., các phạm trù, khái niệm kinh tế nói trên có mối quan
hệ và chế ước lẫn nhau và hình thành nên khái niệm nền kinh tế quốc dân.
Như vậy kinh tế quốc dân là một chỉnh thể hữu cơ phức hợp do các hoạt động
kinh tế hợp thành, nền kinh tế quốc dân là một hệ thống to lớn nó bao gồm cả
hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội. Đối với nền kinh tế quốc dân vận hành
theo cơ chế thị trường, tức là ở đó nền kinh tế sản xuất cái gì? Sản xuất như
thế nào? Sản xuất cho ai? Sản xuất để làm gì? Được quyết định khá lớn thông
qua thị trường, chẳng hạn như việc mua bán và trao đổi hàng hoá và các dịch
vụ của nền kinh tế đều thông qua thị trường, hơn nữa cơ chế thị trường góp
phần kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất, mặt khác khi tham gia thị
trường thì lợi nhuận phụ thuộc vào giá cả của thị trường, còn theo Adam
Simth thì đó là “bàn tay vô hình”. Cho nên kinh tế thị trường xuất hiện như
một yêu cầu khách quan không thể thiếu được của kinh tế hàng hoá và là giai
đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá trong hệ thống nền kinh tế quốc dân.
Bởi vậy việc thực hiện mối quan hệ nội tại và vận động tuần tự của hệ thống
kinh tế quốc dân trước hết là dựa vào giá trị nhờ vào cơ chế thị trường. Mặc
dù cơ chế thị trường là một cơ chế kích thích và điều tiết kinh tế có hiệu quả,
nhưng cơ chế thị trường không phải là vạn năng, hoàn hảo, bởi vì nó còn
những khiếm khuyết, hạn chế, tiêu cực cố hữu của nó. Chính những khuyết tật
và tác động tiêu cực của quy luật giá trị và cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước
có sự can thiệp hợp lý đối với nền kinh tế, nếu không thì việc phân bổ sản
xuất và lao động giữa các vùng sẽ không hợp lý, đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh và trao đổi hàng hoá và dịch vụ hay xu hướng toàn cầu hoá giữa

các quốc gia trên thế giới đều cần có sự quản lý của Nhà nước. Có thể nói sự
quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhằm đảm bảo: Hoạt động của
doanh nghiệp theo định hướng kế hoạch của Nhà nước; Hạn chế hoạt động tự
phát, cạnh tranh “cá lớn nuốt cá bé”, hạn chế rủi ro, sự phá sản của doanh
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 4 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp; Giúp doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật, thực hiện tốt những
nhiệm vụ cơ bản và phát huy vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền
kinh tế quốc dân.
Tóm lại, vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân là quản lý
kinh tế quốc dân hay quản lý Nhà nước về kinh tế là sự hoạt động quản lý do
Nhà nước tiến hành bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân
nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước,
đồng thời thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội nhất định.
1.3. Sơ đồ về công cụ quản lý của Nhà nước đối với kinh tế.
2
2. Quan niệm về kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
2.1 Quan niệm về kinh tế nhà nước.
Kể từ năm 1986 đến nay, sau 20 năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế
một cách toàn diện theo chủ trương của Đảng, đồng thời chuyển nền kinh tế
kế hoạch tập chung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hộ chủ
nghĩa. Lý luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộ lúc này đã có
2
Giáo trình Chính sách kinh tê-xã hội-Trang 9.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 5 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Công cụ quản lý của
Nhà nước
Hệ
thống
thông

tin Nhà
nước
Văn
hoá
dân
tộc
Chính
sách KT
- XH
Kế
hoạch
Pháp
luật
Bộ máy
Nhà nước
và cán bộ,
công chức
Nhà nước
Tài sản
của Nhà
nước
Ngân sách
Nhà nước
Kết cấu
hạ tầng
Doanh
nghiệp
Nhà nước
Đất đai và
tài nguyên

Công
khố
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
những thay đổi căn bản, và trong cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộ của
mình, và đặc biệt là từ Đại hội VI đến nay, trên cơ sở tư duy ngày càng rõ hơn
về thực tiễn của đất nước và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã không ngừng đổi mới quan điểm, chính sách về chế
độ sở hữu và thành phần kinh tế. Và trước hết đó là sự thừa nhận về sự tồn tại
khách quan của năm thành phần kinh tế, đặc biệt trước những đổi mới quan
trọng có tính đột phá về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế thì sự thừa nhận
kinh tế Nhà nước là một thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế đa thành phần.
Và tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta tiếp tục khẳng định
đường lối đổi mới, bổ xung và làm rõ thêm khái niệm về kinh tế Nhà nước.
Thật vậy, đối với kinh tế nhiều thành phần tồn tại không phải do ý muốn chủ
quan của nhà nước, nó xuất hiện, tồn tại và phát triển phụ thuộc vào những tiền
đề kinh tế và chính trị khách quan của nền kinh tế. Còn sở hữu Nhà nước có thể
tồn tại ở nhiều tổ chức kinh tế, và khi đó mọi nhà nước đều có chức năng kinh
tế, chức năng này được thể hiện với mức độ khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn
phát triển. Ở bất kỳ nước nào, dù kém phát triển, đang phát triển hay phát triển
thì chức năng kinh tế của Nhà nước luôn gắn liền và thể hiện thông qua các
hoạt động kinh tế của Nhà nước và trên cơ sở tiềm lực vật chất của Nhà nước.
Bởi vì Nhà nước cần có lực lượng vật chất mạnh trong tay để chi phối, hướng
dẫn điều tiết sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, lực lượng vật chất này cùng
với luật pháp kế hoạch, chính sách tạo cho Nhà nước một sức mạnh làm cho
nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. Và tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, bổ
sung và làm rõ thêm về khái niệm kinh tế Nhà nước, trong quá trình thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò của
thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên tới nay vẫn còn nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với khái

niệm kinh tế Nhà nước. Cho nên để hiểu rõ hơn về khái niệm kinh tế Nhà
nước, chúng ta cần phải phân biệt thế nào là kinh tế Nhà nước? hay khu vực
kinh tế Nhà nước; tài sản thuộc sở hữu nhà nước? hay tài sản Nhà nước? và
thành phần kinh tế Nhà nước. Cụ thể như sau:
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 6 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tài sản thuộc sở hữu Nhà nước là phần tài sản thuộc sở hữu toàn dân
mà nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu. Tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước hay tài sản Nhà nước có phạm vi rộng, gồm nhiều bộ phận hợp thành,
đó là tài sản trong hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản khác thuộc sở
hữu nhà nước như hệ thống kết cấu hạ tầng, các loại tài nguyên, ngân sách
Nhà nước, ngân hàng Nhà nước, kho bạc nhà nước.v.v. Do đó nhà nước có
quyền định đoạt, quản lý, sử dụng các lực lượng vật chất đó và kết quả kinh tế
do các lực lượng vật chất đó đem lại theo mục đích đã định.
3
Thành phần kinh tế nhà nước đó là một phạm trù kinh tế chính trị dùng
để nhận thức tổng thể kết cấu kinh tế - xã hội.
Kinh tế Nhà nước là khu vực kinh tế do Nhà nước nắm giữ, tức là toàn
bộ hoạt động kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, vì vậy Nhà nước có quyền quản
lý, sử dụng hiệu quả kinh tế do lực lượng của kinh tế Nhà nước mang lại. kinh
tế Nhà nước được thể hiện trên sự hoạt động của nền kinh tế (nền kinh tế ở
trạng thái động), khi đó Nhà nước phải là chủ thể, có quyền tổ chức, chi phối
sự hoạt động của kinh tế theo hướng đã định. Như vậy ta có thể phân biệt
được giữa kinh tế Nhà nước với tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, chẳng hạn
như tài nguyên chưa khai thác “nằm im” trong lòng đất thì được xem là tái
sản thuộc sở hữu Nhà nước (nền kinh tế ở trạng thái tĩnh) nhưng chưa phải là
kinh tế Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước là một bộ phận quan trọng, có tác dụng thiết thực trong
cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Nhưng tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước mà
kinh tế Nhà nước có vị trí, vai trò, phạm vi và mức độ hoạt động khác nhau. Và

trên thực tế kinh tế Nhà nước được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động khác
nhau với các hình thức tổ chức tương ứng như hoạt động trong các lĩnh vực sản
xuất, dịch vụ, các hoạt động đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội mà ở đó
Nhà nước biểu hiện như một chủ sở hữu, chủ thể kinh doanh, người tham gia,
tức là kinh tế Nhà nước có nhiều bộ phận hợp thành, mỗi bộ phận hợp thành
kinh tế Nhà nước có chức năng và nhiệm vụ kinh tế khác nhau.
4
Cụ thể, ta sẽ tìm hiểu sơ lược về các bộ phận cấu thành kinh tế Nhà nước.
5
3
Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
4
Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
5
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh Bắc Cạn lần thứ IX-Trang 15.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 7 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
 Hoạt động trực tiếp trong sản xuất.
Quản lý khai thác, bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên tự nhiên
nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội.
Đầu tư, quản lý và khai thác các công trình hạ tầng kỹ thuật (khu công
nghiệp, giao thông, bến cảng.v.v.)
Các hoạt động kinh tế trong công nghiệp, nông nghiệp, thương mại,
dịch vụ trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hang, bảo hiểm, dự trữ quốc
gia.v.v.
Hoạt động bảo hiểm cũng là một lĩnh vực hoạt động quan trọng của
khu vực kinh tế Nhà nước.
 Hoạt động kinh tế nhằm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất xã hội.
Ngân sách Nhà nước thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có nhiệm
vụ điều chỉnh, quản lý kiểm soát các hoạt đông của khu vực kinh tế Nhà nước

và các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế - xã hộ đã định.
Kho bạc Nhà nước với chức năng quản lý tiền tệ và kiểm soát quá trình
chi tiêu ngân sách. Các quỹ dự trữ quốc gia. Các tổ chức sự nghiệp có thu. Hệ
thống doanh nghiệp Nhà nước.v.v.
Như vậy chúng ta có thể hiểu thế nào là kinh tế Nhà nước hay khu vực
kinh tế Nhà nước. Đó là một khu vực rộng lớn, hoạt động trong nhiều lĩnh
vực của nền kinh tế quốc dân. Các bộ phận của khu vực kinh tế Nhà nước tuy
có nhiệm vụ chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt trẽ với nhau trong
hệ thống kinh tế Nhà nước thống nhất và hoạt động theo một thể thống nhất
do Nhà nước quy định.
2.2. Quan niệm về doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Doanh nghiệp là gì? Đó là một tổ chức kinh tế được thành lập để tiến
hành các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản xuất, chế biến,
chế tạo sản phẩm hoặc mua bán hàng hoá làm dịch vụ cung ứng nhằm thoả
mãn nhu cầu của thị trường và xã hội. Mục đích căn bản của doanh nghiệp là
kiếm lời tức là thu lợi nhuận hoặc lãi. Tuy nhiên đó mới chỉ là khái niệm về
doanh nghệp nói chung. Còn thế nào là doanh nghiệp Nhà nước? Đó mới là
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 8 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mục đích cần nghiên cứu, và để trả lời cho câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu
cụ thể hơn quan niệm về doanh nghiệp Nhà nước.
2.2.1. Quan niệm về doanh nghiệpNhà nước trên thế giới.
Trên thế giới, khi nghiên cứu hoặc đề xuất phương án cải cách doanh
nghiệp Nhà nước các học giả cũng thường có quan niệm khác nhau về bản thân
khái niệm doanh nghiệp Nhà nước. Mặc dù doanh nghiệp Nhà nước là một bộ
phận của doanh nghiệp nói chung được hình thành và phát triển trong nền kinh
tế của nhiều quốc gia trên thế giới, thế nhưng các định nghĩa pháp lý và học
thuật, các tiêu thức cụ thể để phân loại và nhận biết về doanh nghiệp Nhà nước
của các quốc gia rất khác nhau. Phụ thuộc vào điều kiện của nước mình mà
các quốc gia có thể nhấn mạnh tiêu chí này hoặc tiêu chí khác về khái niệm

doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên chúng ta có thể tìm thấy những tiêu chí tiêu
biểu trong các định nghĩa về doanh nghiệp Nhà nước do các tổ chức cơ quan
thuộc Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế đưa ra. Có thể
trình bày 3 quan niệm tiêu biểu về doanh nghiệp Nhà nước, đó là:
6
Thư nhất: Chính phủ là cổ đông chính trong doanh nghiệp hoặc Chính
phủ có thể thự hiện việc kiểm soát những chính sách chung mà doanh nghiệp
theo đuổi và bổ nhiệm hoặc cách chức ban quản lý doanh nghiệp.
Thứ hai: Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ bán
cho công chúng, cho các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước khác.
Thứ ba: Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về thu chi trong hoạt động
về sản xuất kinh doanh.
Nếu một doanh nghiệp thiếu điều kiện một thì đó là doanh nghiệp tư
nhân, còn thiếu điều kiện hai hoặc ba thì chưa thể là doanh nghiệp Nhà nước
mà chỉ xem như một tổ chức công cộng, tổ chức sự nghiệp của Chính phủ.
Ngoài ra ta có thể tìm hiểu thêm tiêu thức đánh giá về các khái niệm
doanh nghiệp Nhà nước ở một số nước trên thế giới. Ở Anh thì quy định doanh
nghiệp Nhà nước phải có ba điều kiện sau: Hội đồng quản trị doanh nghiệp do
chính phủ bổ nhiệm; Uỷ ban quốc hữu hoá công nghiệp kiểm tra tài khoản kinh
doanh của doanh nghiệp; Thu nhập của doanh nghiệp phần lớn không dựa vào
6
Quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 1986-2000.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 9 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sự cung cấp của quốc nội hoặc của các cơ quan tài chính nhà nước. Còn ở Pháp
thì doanh nghiệp phải thoả mãn các điều kiện sau: Tính công hữu của quyền sở
hữu doanh nghiệp, nhờ đó chính phủ xác lập được địa vị lãnh đạo của nhà nước
đối với doanh nghiệp; Có địa vị pháp nhân độc lập; Thực hiện các hoạt động
công thương độc lập, quy định nó là tổ chức kinh tế có hoạch toán lỗ lãi chứ
không phải là đơn vị hành chính sự nghiệp của chính phủ.

Tóm lại các định nghĩa, các tiêu chí cụ thể về việc nhận biết doanh
nghiệp Nhà nước ở các nước trên thế giới rất khác nhau. Khi đó việc phân loại
doanh nghiệp Nhà nước tại các quốc gia cũng sẽ khác nhau, chẳng hạn:
Nếu phân theo mục tiêu kinh tế – xã hội thì doanh nghiệp Nhà nước có
hai loại đó là doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động
công ích). Nghĩa là lợi nhuận là của công chứ không thuộc một nhóm tư nhân
nào, và những quyết định về kinh doanh và hoạt động chính do các tổ chức
nhà nước đảm nhận, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước xã hội; Doanh
nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, tức là doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, tài chính doanh nghiệp phải được
đảm bảo, giá cả phải bù đắp được chi phí.
Nếu phân theo mức độ sở hữu thì doanh nghiệp có hai loại, đó là doanh
nghiệp chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là Nhà nước, loại thứ hai doanh
nghiệp có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà nước nắm giữ một phần sở hữu
nhất định. “một xí nghiệp nhà nước là một xí nghiệp mà chính phủ ngoài tiêu
thức là chủ sở hữu chính về vốn ( không nhất thiết chiếm đa số vốn), còn có
quền cử hoặc bãi chức người lãnh đạo cao nhất của xí nghiệp (chủ tịch hoặc
tổng giám đốc điều hành)”.
7
Ngoài ra căn cứ vào sự khác nhau về địa lý pháp luật doanh nghiệp có
thể còn chia thành nhiều loại khác nữa, chẳng hạn như doanh nghiệp Nhà
nước do chính phủ trực tiếp quản lý, không có đầy đủ địa vị pháp nhân độc
lập (đó là các doanh nghiệp độc quyền như sản xuất vũ khí, đường sắt.v.v.),
doanh nghiệp có đầy đủ địa vị pháp nhân và toàn bộ tài sản thuộc về Nhà
7
Tạp chí Tài chính, số 7/2001, trang 30-31
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 10 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nước ( doanh nghiệp kinh doanh nước sạch, bệnh viện bưu chính.v.v.), doanh
nghiệp hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và Nhà nước có quyền sở hữu

một phần tài sản ( doanh nghiệp cổ phần và hoạt động theo nguyên tắc của
doanh nghiệp tư nhân).
8
Có thể nói doanh nghiệp Nhà nước có mặt ở hầu khắp các nước trên thế
giới và đã trở thành một bộ phận tất yếu quan trọng để bù đắp những thiếu hụt
của kinh tế thị trường.
2.2.2. Quan niệm về doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Trước khi đổi mới, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế kế hoạch hoá
tập chung, tức là tự cung tự cấp và phát triển dưa trên quan niệm về mô hình
kinh tế xã hội chủ yếu bao gồm hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể.
Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập chung, doanh nghiệp Nhà nước mà
trước đây còn gọi là xí nghiệp quốc doanh, nông trường quốc doanh, công ty
quốc doanh.v.v., đó là những tổ chức Nhà nước đầu tư và nắm giữ 100% vốn,
nên Nhà nước có quyền quyết định thành lập, quyết định phương hướng hoạt
động, quyết định bộ máy quản lý và tuyển dụng người lao động theo chế độ
biên chế ổn định. Doanh nghiệp quốc doanh thường được hiểu là đồng nhất
với kinh tế quốc doanh, còn người lao động làm việc trong các doanh nghiệp
Nhà nước thì được xem như là công chức Nhà nước trong biên chế.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng
nghĩa với việc chuyển đổi cải cách nền kinh tế thì quan niệm về doanh nghiệp
Nhà nước đã được nhận thức đúng hơn. Điều này thể hiện rõ trong các văn
bản pháp quy, nhiều luật, nghị định đều có đề cập đến khái niệm về doanh
nghiệp Nhà nước. Tiêu biểu như luật doanh nghiệp Nhà nước do Quốc hội
thông qua ngày 20/4/1995:
9

“Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao.
8

Kinh tế học các nước đang phát triển.
9
Luật kinh tế-Trang 71.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 11 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa
vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm
vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp Nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính
trên lãnh thổ Việt Nam”.

Định nghĩa trên cho thấy doanh nghiệp Nhà nước có những đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế khác với tổ chức
hành chính và tổ chức sự nghiệp nhà nước, được nhà nước thành lập để thực
hiện những mục tiêu do nhà nước giao.
Thứ hai: Doanh nghiệp Nhà nước do nhà nước đầu tư vốn cho nên tài
sản trong doanh nghiệp cũng thuộc sở hưu nhà nước, doanh nghiệp quản lý,
sử dụng tài sản theo duy định của chủ sở hữu nhà nước.
Thứ ba: Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các
điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Thứ tư: Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu
hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong
phạm vi số tài sản do doanh nghiệp quản lý.
Từ đó các nhà nghiên cứu kinh tế có thể phân loại doanh nghiệp Nhà
nước theo các tiêu chí pháp lý khác nhau. Nếu dựa vào quy mô và hình thức
tổ chức của doanh nghiệp thì có thể chia doanh nghiệp Nhà nước thành: Tổng
công ty Nhà nước đó là doanh nghiệp có quy mô lớn, được thành lập và hoạt
động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên như đơn vị hạch toán độc
lập, phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp. Tổng công ty Nhà nước được phân biệt

thành Tổng công ty 91 và Tổng công ty 90; Doanh nghiệp Nhà nước độc lập
là doanh nghiệp Nhà nước không nằm trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
khác, bao gồm doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn, doanh nghiệp vừa và
nhỏ; Doanh nghiệp Nhà nước thành viên là doanh nghiệp nằm trong cơ cấu
của tổng công ty nhà nước.
10
10
Luật kinh tế, trang 72-73.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 12 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Còn nếu dựa vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp thì có thể phân
biệt doanh nghiệp Nhà nước thành doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh
doanh và doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích.
3. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước.
Ở các nước tư bản thì doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu giải quyết các
nhu cầu tiêu dùng và sản xuất cho cộng đồng về những loại sản phẩm mà các
thành phần kinh tế tư nhân không muốn làm hoặc không có khả năng thực
hiện. Còn ở các nước xã hội chủ nghĩa, bên cạnh ý nghĩa đó các doanh nghiệp
Nhà nước còn là một bộ phận quan trọng của kinh doanh Nhà nước. Tuy
nhiên trên thực tế đa phần các nước đều xem xét vai trò của các doanh nghiệp
Nhà nước trong các mối quan hệ sau: Doanh nghiệp Nhà nước trong mối quan
hệ với các chính sách phát triển kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế; Tương
quan của doanh nghiệp Nhà nước trong hệ thống các giải pháp, công cụ kinh
tế mà Nhà nước lựa chọn để điều tiết, thúc đẩy và thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế; Tương quan của doanh nghiệp Nhà nước với hệ thống doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Còn đối với Việt Nam thì các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò là
một trong các công cụ quan trọng giúp Nhà nước điều hành kinh tế. Cụ thể
như sau: Thứ nhất các doanh nghiệp Nhà nước là nơi giải quyết các vấn đề
kinh tế bức bách của Nhà nước cho xã hội; Thứ hai các doanh nghiệp Nhà

nước là các tâm điểm thực thi công nghệ và chính sách phát triển kinh tế xã
hội, đi đầu trong việc bảo vệ môi trường sinh thái; Thứ ba các doanh nghiệp
Nhà nước trực tiếp tạo ra của cải và tích luỹ cho xã hội, việc làm cho nhân
dân; Thứ tư các doanh nghiệp Nhà nước còn là chất men góp phần đổi mới cơ
cấu kinh tế, đô thị hoá nông thôn, giảm sự chênh lệch về kinh tế và xã hội
giữa các vùng và các khu vực trong nước. Mặt khác khu vực doanh nghiệp
Nhà nước còn đóng góp vào tỷ trọng GDP của đất nước, kể từ khi đổi mới
đến nay khu vực doanh nghiệp Nhà nước liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 13 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong giai đoạn 2001 – 2005 khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng trưởng đạt
11,2%.
11
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI VÀ SẮP XẾP LẠI DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
1. Các khái niệm về đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước.
1.1. Khái niệm đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
1.1.1. Khái niệm.
Đổi mới doanh nghiệp tức là thay đổi tư duy, phương pháp quản lý
doanh nghiệp, quy trình sản xuất chất lượng sản phẩm và mẫu mã của sản
phẩm.v.v., nhìn chung đó là sự thay đổi về chất và lượng của doanh nghiệp.
Còn sắp xếp lại doanh nghiệp là quá trình cải tổ lại doanh nghiệp, rà soát,
đánh giá để tạo phương hướng, mục tiêu và những kế hoạch hợp lý cho doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động tốt hơn trong điều kiện mới. Cho nên đổi mới và
săp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước là một quá trình khá phức tạp bao gồm
nhiều vấn đề có liên quan đồng bộ với nhau nhằm thúc đẩy doanh nghiệp Nhà
nước phát triển thích nghi với cơ chế mới. Thực chất của công tác đổi mới và
sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước là hoàn thiện tổ chức sản xuất và quản lý
hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, nhằm cơ cấu lại bảo đảm sự phát triển hợp
lý của doanh nghiệp trong khu vực kinh tế Nhà nước và toàn bộ nền kinh tế

với nhiều thành phần cùng tồn tại và phát triển, đồng thời đẩy nhanh quá trình
tích tụ và tập trung sản xuất của các doanh nghiệp Nhà nước, bảo đảm phát
huy được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước theo cơ chế mới.
Như vậy vấn đề đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước mang mục
đích cụ thể thông qua các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất tiến hành rà soát, đánh giá phân loại các doanh nghiệp nhà
nước để định hướng phát triển và lập phương án kế hoạch đổi mới và sắp xếp
lại doanh nghiệp nhà nước hiện có.
11
Nguồn: www.vnn.vn
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 14 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thứ hai là tiến hành đổi mới và sắp xếp thông qua các hình thức như
sáp nhập, giải thể, cổ phần hoá, bán khoán cho thuê và tiến hành hợp tác liên
doanh trong và ngoài nước để hình thành các doanh nghiệp liên doanh.
Thứ ba là xây dựng và thực hiện đồng bộ các giải pháp để đảm bảo
phương án đổi mới và sắp xếp đạt được mục tiêu đã đề ra. Hỗ trợ các doanh
nghiệp sau khi đổi mới và sắp xếp.
1.1.2. Các nguyên tắc trong quá trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà
nước.
Như đã nói vì sự phức tạp của doanh nghiệp Nhà nước, nên quá trình
đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước không thể ngày một ngày hai
giải quyết các vấn đề sao cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động phù hợp với
cơ chế mới. Chẳng hạn một doanh nghiệp Nhà nước muốn khắc phục những
khó khăn mang tính đặc thù của mình như về vốn và công nghệ hay là
phương pháp điều hành, quản lý hoạt động kinh doanh; Nếu như trước đây
các doanh nghiệp luôn được sự quan tâm và quản lý của Nhà nước, cho nên
những khó khăn đó đều do Nhà nước giải quyết. Thậm chí sự hoạt động sản
xuất kinh doanh không mang lại hiệu qủa thì Nhà nước lại phải gánh chịu hậu
quả. Còn bây giờ trong nền kinh tế thị trường, sự quan tâm và giúp đỡ của

Nhà nước là có hạn, bởi vậy các doanh nghiệp phải tự làm chủ về tài chính,
công nghệ của sản phẩm, tự chủ trong kinh doanh, phải thay đổi tư duy điều
hành và quản lý, tập thể người lao động phải có một vị trí và vai trò như là
người chủ trong việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Thế nhưng để
hoàn thiện các tiêu chí trên thì các doanh nghiệp Nhà nước cần phải làm gì?
Và làm như thế nào? Đây mới chính là yếu tố giúp doanh nghiệp tồn tại và
phát triển trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò
của Nhà nước đã giảm đi nhiều, sự bảo hộ và quan tâm của Nhà nước chỉ tồn
tại ở một số doanh nghiệp đặc biệt mang tính chất độc quyền trong hệ thống
doanh nghiệp Nhà nước như doanh nghiệp sản xuất, cung ứng vật liệu nổ;
doanh nghiệp sản xuất thuố lá điếu.v.v.. Khi vai trò của Nhà nước giảm đi có
nghĩa là một phần vai trò của Nhà nước đã được san sẻ bớt hoặc hoàn toàn
cho các thành viên có liên quan trong doanh nghiệp, nhằm làm cho doanh
nghiệp tự chủ về mọi mặt. Điều này rất phù hợp với cơ chế thị trường, bởi vì
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 15 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi
phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh, nhằm mục tiêu
lợi nhuận.
Như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước cần phải tìm cho mình giải pháp
tối ưu và hợp lý để có thể hội nhập với cơ chế thị trường. Và hiện nay, ở Việt
Nam giải pháp tối ưu nhất đối với các doanh nghiệp là phải đổi mới và sắp
xếp, sở dĩ như vậy vì trước đây các doanh nghiêp Nhà nước hoạt động theo cơ
chế cũ không phù hợp, nay muốn phù hợp với cơ chế mới thì các doanh
nghiệp cần phải đổi mới và sắp xếp lại. Tuy nhiên quá trình đổi mới và sắp
xếp doanh nghiệp Nhà nước không thể thực hiện một cách tuỳ tiện mà phải có
tổ chức, trình tự hợp lôgíc, và khoa học, phải tuân theo nguyên tắc ràng buộc
nhất định. Thường thường, quá trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam cần phải tuân theo các yêu cầu sau:
12

Thứ nhất: Xác định rõ ràng đối với doanh nghiệp cần đổi mới và sắp
xếp lại, cần phải căn cứ vào loại hình doanh nghiệp, như ngành nghề mà
doanh nghiệp hoạt động, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, vốn, dây chuyền công nghệ,
rồi quy mô doanh nghiệp.v.v..Quá trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp
Nhà nước trên địa bàn phải tiến hành đồng bộ.
Thứ hai: Quá trình đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước phải
dựa trên nguyên tắc tự nguyện và dân chủ, phải đảm bảo được mối liên hệ
giữa Nhà nước trung ương với chính quyền địa phương.
Thứ ba: Quá trình đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước phải liên
tục không rời rạc, đặc biệt phải khẩn trương và phải có những kế hoạch, chiến
lược hợp lý.
Thứ tư: Quá trình đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước phải đảm
bảo được sự thống nhất cao về tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên, người lao
động, hạn chế vấn đề tiêu cực xã hội phát sinh.
Thứ năm: Muốn thực hiên tốt công việc thì cần phải học hỏi kinh
nghiệm của các nước trên thế giới, phải xây dựng một tổ chức chuyên tư vấn
về quá trình đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước.
12
Các văn bản về đổi mới doanh nghiệp Nhà nước – Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển, Hà Nội, 2003, tr
145-147.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 16 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2. Các hình thức đổi mới và sắp xếp.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp Nhà nước, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, một số doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả,
kinh doanh thua lỗ kéo dài, không còn thể hiện được vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân. Trước thực trạng đó Đảng và Nhà nước cần có những giải
pháp thích hợp nhằm giúp doanh nghiệp Nhà nước thể hiện tốt vai trò của
mình trong nền kinh tế quốc dân. Khi đó thành lập doanh nghiệp nhà nước
theo mô hình kinh tế thị trường được xem như là giải pháp, tuy nhiên giải

pháp thứ hai là chuyển mô hình hoạt động theo cơ chế cũ của doanh nghiệp
Nhà nước sang mô hình hoạt động kinh tế thị trường bằng biện pháp đổi mới
và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước là sự lựa chọn tối ưu. Giải pháp đổi
mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình
thức cụ thể như sau:
13
Sáp nhập doanh nghiệp Nhà nước.
Thành lập các doanh nghiệp Nhà nước và Tổng công ty Nhà nước.
Giải thể và phá sản doanh nghiệp Nhà nước.
Chia tách doanh nghiệp Nhà nước.
Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Trong đó:
a/ Sáp nhập doanh nghiệp Nhà nước, tức là sáp nhập doanh nghiệp hoạt
động kém hiệu quả vào những doanh nghiệp khác hoạt động tốt hơn. Chú ý,
khi thực hiện việc sáp nhập thì phải căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của doanh
nghiệp xem có cùng hình thức không, thứ hai là xem nhu cầu của thị trường
có cần đến những loại hình doanh nghiệp đó không nếu không cần thì mới
thực hiện việc sáp nhập; Và mục tiêu của việc sáp nhập phải mang được lợi
ích kinh tế cho doanh nghiệp,
13
Luật kinh tế-Trang 77.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 17 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
b/ Thành lập các doanh nghiệp Nhà nước và Tổng công ty Nhà nước:
Trước khi đổi mới nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế kế hoạch tập chung,
không phải là nền kinh tế mở cho nên quy mô và cơ cấu kinh tế của các doanh
nghiệp Nhà nước và Tổng công ty Nhà nước còn rất nhỏ bé chưa thể hiện
được nhiều, nó chỉ mang tính khắc phục những thiếu sót về nhu cầu của thị

trường, còn trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp và Tổng công ty cần
phải có quy mô về cơ cấu kinh tế để đáp ứng được nhu cầu của thị trường
cũng như có thể cạnh tranh với các đối thủ.
c/ Giải thể và phá sản doanh nghiệp Nhà nước, là thủ tục pháp lý nhằm
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng
ký kinh doanh. Mục đích giúp Nhà nước có biện pháp quản lý và điều hành
tốt hơn đối với các doanh nghiệp nếu như doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ
kéo dài nhưng chưa lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn;
hay là các doanh nghiệp hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập
mà doanh nghiệp không xin gia nhập; Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp là
không cần thiết.
d/ Chia tách doanh nghiệp Nhà nước. Biện pháp này được áp dụng
trong trường hợp doanh nghiệp hoặc Tổng công ty nhà nước hoạt động kém
hiệu quả, thì có thể tách một số hoặc toàn bộ các đơn vị thành viên ra khỏi
Tổng công ty để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đó hoạt động hiệu quả
hơn; Trong trường hợp sáp nhập doanh nghiệp Nhà nước không mang lại kết
quả thì có thể sử dụng biện pháp chia tách và phá sản doanh nghiệp.
e/ Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Trong
quá trình cải cách lại doanh nghiệp Nhà nước, việc đổi mới cơ chế quản lý là
biện pháp được sử dụng triệt để nhằm giúp doanh nghiệp tăng cường tự chủ
sản xuất kinh doanh, giúp Nhà nước dễ dàng kiểm soát bằng việc đổi mới cơ
cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Thật vậy, trước kia do Nhà nước
quản lý và điều hành hoạt động sản xuất nên các doanh nghiệp không có
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, điều này khiến cho các doanh nghiệp
không thể cạnh tranh với các đối thủ của mình, cho nên việc đổi mới cơ chế
quản lý Nhà nước tức là thay đổi lại tư duy và cơ cấu tổ chức quản lý doanh
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 18 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp Nhà nước nhằm mục đích giúp cho doanh nghiệp hội nhập tốt hơn với
cơ chế mới.

f/ Giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước, là
một hình thức đổi mới và sắp xếp lại những doanh nghiệp Nhà nước có quy
mô nhỏ, kinh doanh thua lỗ kéo dài hoặc không cần duy trì sở hữu nhà nước
nhằm tạo điều kiện cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước, bảo đảm lợi ích của
Nhà nước cũng như của người lao động. Trong đó:
Giao doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước và
tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp thành sở hữu tập thể của người lao
động có điều kiện.
Bán doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển đổi sở hữu có thu tiền toàn
bộ tài sản của doanh nghiệp Nhà nước sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp
nhân khác. Mặt khác dựa vào hình thức bán doanh nghiệp Nhà nước, ngày
13/12/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 330/2005/QĐ-TTg ban
hành quy chế bán đấu giá doanh nghiệp và công ty Nhà nước.
Khoán kinh doanh là phương thức quản lý doanh nghiệp Nhà nước mà
bên nhận khoán được giao quyền quản lý doanh nghiệp.
Cho thuê doanh nghiệp Nhà nước là hình thức chuyển giao cho người
nhận thuê quyền sử dụng tài sản và lao động trong doanh nghiệp theo các điều
kiện ghi trong hợp đồng thuê.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là biện pháp rất quan trọng được
sử dụng trong quá trình cải cách một phần hay toàn bộ doanh nghiệp và công
ty Nhà nước. Mục đích của cổ phần hoá là huy động vốn từ thị trường cho
doanh nghiệp vào việc đầu tư đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản
lý, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng
kinh tế. Cổ phần hoá được tiến hành theo các hình thức sau:
Phát hành trái phiếu, cổ phiếu để thu hút thêm vốn cho doanh nghiệp.
Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp.
Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 19 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để

chuyển thành công ty cổ phần.
2. Sự cần thiết phải đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
Như đã nói, cùng với chủ trương của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thì quá trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà
nước được xem là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm củng cố, nâng
cao vai trò chủ động và giúp các doanh nghiệp Nhà nước có thể phát triển và
tồn tại trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Bởi vì
trước khi cải cách nền kinh tế, Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế lạc hậu và
chậm phát triển so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, cho
nên muốn đuổi kịp mặt bằng phát triển chung của thế giới, muốn thực hiện
chiến lược tăng tốc, rút ngắn và đặc biệt muốn tạo dựng cơ sở của nhà nước xã
hội chủ nghĩa thì Đảng và Nhà nước tất yếu phải chủ động, tích cực tham gia
vào sự phát triển kinh tế. Chính vì thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường. Và với vai trò và vị trí của
mình, tức là hệ thống doanh nghiệp Nhà nước được coi là một bộ phận của hệ
thống kinh tế Nhà nước cho nên công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước
luôn luôn được được Đảng và Nhà nước quan tâm, ưu tiên đổi mới và sắp xếp
trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước.
Ngoài ra, doanh nghiệp Nhà nước còn chiếm một tỷ trọng lớn trong
tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và
công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực
hiện chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản
phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng an ninh, vì vậy việc
đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước cần phải được triển khai khẩn
trương nhằm giúp các doanh nghiệp hoàn thiện về quy mô cơ cấu kinh tế,
giúp các doanh nghiệp hội nhập nhanh và năng động hơn trong cơ chế thị
trường. Mặt khác việc đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước sẽ giúp
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 20 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A

Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
các doanh nghiệp phát triển bền vững, có thể cạnh tranh với các đối thủ một
cách bình đẳng.
Đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước là sự tất yếu: Nếu
không đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước thì các doanh nghiệp rất
khó phát triển và tồn tại trong cơ chế thị trường. Đúng vậy, trước khi đổi mới,
quy mô và cơ cấu của các doanh nghiệp rất nhỏ và rời rạc, thậm chí các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất có quy mô về vốn và nhân công lao
động rất nhỏ, giây chuyền sản xuất thì lạc hậu và cũ kỹ, chất lượng sản phẩm
không đáp ứng được nhu cầu của thị trường, và thị trường hoạt động của các
doanh nghiệp rất nhỏ.v.v.. Tức là với tư duy cũ, lạc hậu các doanh nghiệp
hoạt động không hiệu quả. Do đó đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp là nhu
cầu tất yếu trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, bởi vì: Đổi
mới và sắp xếp sẽ mang lại cho doanh nghiệp về vốn, công nghệ hiện đại, tư
duy quản lý đổi mới, trình độ của người lao động sẽ được cải thiện, quy mô
về cơ cấu kinh tế lớn, doanh nghiệp tự chủ được quá trình sản xuất và kinh
doanh, giúp cho các doanh nghiệp thể hiện tốt vai trò của mình trong nền kinh
tế.v.v., khi đó doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh và
chiếm lĩnh thị trường.
Một lý do nữa của việc đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước
là sự san sẻ trách nhiệm và lợi ích của Nhà nước cho các thành viên tham gia
các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Giúp Nhà nước giảm bớt
gánh nặng về chi tiêu ngân sách cho các doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời
mang lại lợi ích kinh tế quốc dân.
Đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước thể hiện quy luật khách
quan của nền kinh tế. Trước sự phát triển nhanh tróng của các nước trong khu
vực và trên thế giới, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế lớn mạnh không ngừng,
sự liên kết kinh tế - xã hội khu vực và song phương đã có tác động đến quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam phải quan tâm
giải quyết hàng loạt vấn đề từ tạo dựng khuôn khổ pháp lý đến nâng cao năng

lực cạnh tranh của nền kinh tế.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 21 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3. Quy chế pháp lý và quy trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế quôc dân, bất kể một hình thức kinh tế nào đều phải
hoạt động theo những quy chế pháp lý chặt chẽ, nếu không sẽ dẫn đến tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam là một điển hình, các hình thức của quá trình cải cách lại
doanh nghiệp phải có một quy chế pháp lý rõ ràng.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 22 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3.1. Quy chế pháp lý về các hình thức đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp
Nhà nước.
14
Công tác sáp nhập doanh nghiệp Nhà nước phải do người có thẩm
quyền thành lập doanh nghiệp quyết định. Sau khi sáp nhập, các doanh nghiệp
bị sáp nhập phải xoá tên, còn doanh nghiệp tiếp nhận sáp nhập sẽ giữ nguyên
tư cách pháp nhân nhưng phải đăng ký bổ sung về vốn điều lệ mới và sự thay
đổi ngành nghề.
Công tác thành lập doanh nghiệp và Tổng công ty Nhà nước phải bao
gồm:
Tờ trình đề nghị thành lập doanh nghiệp.
Đề án thành lập doanh nghiệp.
Mức độ vốn điều lệ và ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài chính về
nguồn và mức vốn điều lệ được cấp.
Dự thảo điều lệ doanh nghiệp.
Kiến nghị về hình thức tổ chức doanh nghiệp.
Ý kiến bằng văn bản của bộ quản lý ngành đối với các ngành nghề kinh
doanh chính và giấy phép hành nghề đối với một số ngành nghề đòi hỏi phải

có giấy phép theo quy định của pháp luật.
Bản thuyết trình về các giải pháp bảo vệ môi trường.
Ý kiến bằng văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về quyền sử dụng đất.
Giải thể và phá sản daonh nghiệp Nhà nước phải do người đã ra quyết
định thành lập doanh nghiệp Nhà nước quyết định đó là Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng quản lý ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Người
quyết định giải thể doanh nghiệp Nhà nước phải lập hội đồng giải thể.
Quá trình chia tách doanh nghiệp phải do người có thẩm quyền thành
lập doanh nghiệp quyết định, nếu việc chia tách doanh nghiệp dần đến thay
đổi mục tiêu nhành nghề kinh doanh, vốn điều lệ thì doanh nghiệp phải làm
thủ tục đăng ký lại hoặc đăng ký kinh doanh bổ xung.
14
Luật kinh tế, trang 73.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 23 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước. Bao
gồm:
Đại hội công nhân viên chức tham gia vào quản lý doanh nghiệp Nhà
nước, quyết định các vấn đề như kế hoạch sản xuất kinh doanh, phương án
huy động vốn.v.v., đậi hội công nhân viên chức phải thể hiện tính dân chủ,
làm chủ tập thể người lao động.
Hội đồng xí nghiệp là cơ quan đại diện cho đại hội công nhân viện
chức thực hiện chức năng giám sát giám đốc chấp hành nghị quyết đại hội
công nhân viên chức.
Ban thanh tra công nhân là một tổ chức trong doanh nghiệp Nhà nước,
thực hiện quyền kiểm tra của công nhân viên trên các mặt.
Giám đốc doanh nghiệp vừa đại diện cho Nhà nước, lại vừa đại diện
cho công nhân viên. Giám đốc được quyền quyết định cao nhất
Giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước. Phải xá
định rõ

Đối tượng và phạm vi áp dụng.
Giá trị của doanh nghiệp Nhà nước.
Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư.
Nguyên tắc và điều kiện để giao, bán, khoán kinh doanh, cho
thuê doanh nghiệp Nhà nước.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Được quy định tại Nghị định số
44/CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp Nhà nước
thành công ty cổ phần.
3.2. Quy trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
hiện nay.
So với các nước trong khu vực, quá trình đổi mới và sắp xếp lại doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn thí điểm tập chung, quy
trình thực hiện thì rời rạc, thiếu đồng bộ, sự liên kết giữa các bộ phận của
doanh nghiệp khi được đổi mới và sau khi đổi mới vẫn chưa mang lại hiệu
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 24 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Đại học kinh tế quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quả cao. Điều này khiến cho các nhà hoạch định chiến lược kinh tế gặp nhiều
khó khăn, nguyên nhân là do quy trình đổi mới và sắp xếp mang tính dập
khuôn, không thể hiện được sự đồng nhất giữa doanh nghiệp Nhà nước với
nền kinh tế quốc dân. Do đó muốn quá trình đổi mới và sắp xếp lại doanh
nghiệp Nhà nước, đạt kết quả như mong muốn thì Đảng và Nhà nước cần phải
đưa ra những quy trình cụ thể, có tính chiến lược cao.
Quy trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước phải dựa trên
cơ sở Luật doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó theo Nghị định số 50/CP, ta có sơ
đồ sau:
15
Quy trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
hiện nay cần phải đảm bảo được các yêu cầu sau.
Thứ nhất là phải sử dụng triệt để các hình thức đổi mới và sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước.

Thứ hai là phải tiến hành đồng bộ giữa các vùng trong cả nước. Tuy
nhiên quá trình phải thực hiện lần lượt, căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp,
thâm chí ưu tiên những doanh nghiệp có khả năng, phải mang được hình thái
kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa.
Thứ ba là phải có chiến lược, kế hoạch cụ thể cho các doanh nghiệp.
Thứ tư là phải đảm bảo được phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
15
Sở Tài chính Bắc Cạn.
S/v: Đỗ Mạnh Thế - 25 - Lớp: Quản lý kinh tế - 44A
Doanh nghiệp đề
nghị đổi mới và
sắp xếp lại
Người đề nghị đổi
mới và sắp xếp lại
doanh nghiệp
Người có quyền
quyết định đổi mới
và sắp xếp lại
Hội đồng
thẩm định hồ

Cơ quan đầu
mối
Lập đề án
Uỷ quyền quyết
định đổi mới và
sắp xếp
Quyết định
đổi mới và
sắp xếp

×