Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường và biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng trong công cuộc đổi mới và sinh viên vận dụng quan điểm đó như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.33 KB, 13 trang )

Lời mở đầu
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, khu vực đang có tiềm
năng hát triển kinh tế bước lên từ môt nền kinh tế lạc hậu trì trệ lại phải trả qua 2 cuôc
kháng chiến trường kì chống giặc ngoại xâm nên nước ta vốn đã lạc hậu nay càng kiệt quệ
hơn. Chính vì thế mà sau chiến tranh nước ta tiếp tục con đường mà mình đã lựa chọn: đó
là đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tuy nhiên để tiến lên được CNXH thi chúng ta phải
trải qua nhiều chặng đường gian lao và thử thách. Đó là bước quá độ để Việt Nam sánh
vai với các cường quốc hung mạnh trên thế giới. Đó là bước quá độ để chúng ta tiến đến
xã hội mới, đó là chế đô cộng sản, chế độ mà moi người đều hưởng hạnh phúc, ấm no và
công bằng. Tuy nhiên, để làm được việc đó chúng ta còn có rất nhiều việc để làm, bao
nhiêm vụ cần hàn tất. Con đường chúng ta đi đầy chông ga, đòi hỏi chúng ta phải có
đường lối đúng đắn, phải nêu rõ nhiệm vụ cần làm. Để làm được điều đó chúng ta cần có
nhân thức đúng đắn về CNXH và con đường quá độ lên CNXH
Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa ở nước ta là con đường
khách quan tất yếu, duy nhất đúng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây
là con đường đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu để sánh vai với các cường
cường quốc trên thế giới.
Đối với chúng em - những thế hệ trẻ thì nhiệm vụ càng nhiều và càng thêm gánh
nặng, đòi hỏi chúng em phải luôn cố gắng, nỗ lực hết mình để góp phần vào cùng đất
nước tiến lên. Đó cũng chính là lý do nhóm chúng em chọn đề tài “Quan điểm của Hồ
Chí Minh về con đường và biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vận
dụng quan điểm đó trong công cuộc đổi mới hiện nay. Và việc sinh viên vận dụng
quan điểm đó hiện nay như thế nào”


Chương I: Quan điểm của hồ chí minh về con đường và biện pháp quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.1.
-

Loại hình của thời kì quá độ


Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa mac-lenin, có hai con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những
nước tư bản phát triển cao. Con đường thứ hai là con đường gián tiếp lên CNXH
phát triển còn thấp hoặc những nước tiểu tư bản, hoặc như V.I.Lenin cho rằng,
những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kì phát triển của chủ nghĩa tư
bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó.
- Hồ Chí Minh đã chỉ ra Việt Nam thuộc loại hình quá độ gián tiếp
Theo Hồ Chí Minh cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể

của mỗi nước khi bước vào thời kỳ quá độ: “tuỳ hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo
con đường khác nhau... Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội, có nước thì phải kinh
qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Từ đó Hồ Chí Minh xây dựng
quan niệm quá độ gián tiếp căn cứ vào thực tiễn của Việt Nam từ một xã hội thuộc địa,
nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định
con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
+ Về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam: “Đặc điểm to lớn nhất
của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. + Về mâu thuẫn cơ
bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là mâu thuẫn giữa một bên là
yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ xã hội mới có “công, nông nghiệp hiện đại,
khoa học kỹ thuật tiên tiến” với một bên là tình trạng lạc hậu phải đối phó với bao thế lực
cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng ta”. + Về độ dài của thời kỳ quá độ, lúc đầu dựa theo
kinh nghiệm của Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh dự đoán “chắc đôi ba, bốn kế


hoạch dài hạn,...” sau đó quan niệm được điều chỉnh: “xây dựng CNXH là một cuộc đấu
tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.
1.2.


Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ

Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất
là phải cải biến tình trạng kinh tế xã hội: phải xây dựng một nền kinh tế XHCN với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Muốn vậy trong thời kỳ
quá độ chúng ta cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
1.2.1 Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước
Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dưng cơ
vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa

xã hội

sở

nhằm phát triển lực lượng sản xuất.

Công nghiệp hoá là quá trình chuyển một nước có nền nông nghiệp lạc hậu thành
nước có nền công nghiệp phát triển thực chất chuyển lao động thủ công thành lao động cơ
khí hóa.
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động

kinh

tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính

sang

việc


sử

dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến,
tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở những nước có nền kinh tế lạc hậu, chủ

nghĩa tư bản

chưa

phát triển.
Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc độ, biện pháp công
nghiệp hoá- hiện đại hoá của mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải được xuất
phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kỳ.
Chỉ có hoàn thành công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được
cơ sở vật chất- kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động đến mức chưa
từng có để làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm trở thành phổ biến
Vì con người lao động là lực lượng sản xuất cơ bản nên trong lao động


con người có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội hoá cao với kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến nhất. Bởi lẽ :" Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa"
Đối với nước ta muốn xây dựng cơ sở vật kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội thì chúng
ta cũng phải tiến hành công nghiệp hoá muộn, mà điểm xuất phát lại quá thấp do đó
khoảng cách lạc hậu giữa nước ta với các nước ngày càng xa. Muốn rút ngắn khoảng
cách đó thì chúng ta không thể phát triển theo con đường tuần tự như các nước đã đi mà
chúng ta cần phải và có thể kết hợp những bước phát triển tuần tự với các bước phát triển
nhảy vọt đi tắt tức là chúng ta phải thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá nền kinh tế

quốc dân
1.2.2 Xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN
Phải xây dựng từng bước những mối quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển cuả lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất
mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy
luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát
từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết
quả tất yếu tạo lên những lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuấ
tmới ở nước ta phải được phát triển từng bước, theo định hướng XHCN
Phải xây dựng và phát triển đồng bộ cả ba nội dung của nó: quan hệ sở hữu, quan
hệ quản lý, quan hệ phân phối trong đó quan hệ sở hữu là cơ bản nhất vì ai nắm TLSX thì
người đó nắm quyền lãnh đạo, phát triển quan hệ sản xuất phải tuân theo các quan điểm


bản sau:

- Xây dùng và phát triển quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN phải từng bước phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là do quy luật quan hệ
sản xuất quyết định
- Phải nâng cao, tăng cường vai trò điều tiết kinh tế của Nhà Nước. Phải thực hiện phân
phối theo nguyên tắc của KTTT và phải tang cường phúc lợi xã hội, thực hiện sự phân
phối lại thông qua ccs chính sách của xã hội của Nhà nước để thực hiện sự công bằng xã
hội.


- Phải nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà Nước đồng thời phải
phát huy tốt nhất vai trò, vị trí của từng thành phần kinh tế trong nền KTQD
- Phải phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mà đặc trưng của nó là hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế( phát triển kinh tế mở cửa)
1.2.3 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa
học côngnghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín, mà là phải tích
cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính
chất quy luật trong thời đại hiện nay.
Chúng ta " mở của" nền kinh tế, thực hiện da dạng, da phương hoá quan hệ kinh tế
quốc tế, nhằm thu hót các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế
trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm... mở
rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở tạo
điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới.
Mở rộng quanhệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi và không can
thiệp vào công

việc

nội

bộ của nhau. Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức mạnh cạnh tranh quốc tế; tích cực k
hai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác
kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúngđắn mối quan hệ
kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh , bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
1.3 Nội dung xây dựng XHCN trong thời kỳ quá độ
1.3.1Chính trị
- Nội dung quan trọng nhất là phải phát huy và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đảng phải luôn tự đổi mới và chỉnh đốn để Đảng thực sự là Đảng cầm quyền. Với Người,
Đảng cầm quyền đó phải là Đảng không quan liêu, xa dân, tha hóa, biến chất, làm mất
lòng dân.
- Bên cạnh nội dung quan trọng trên thì ta cần phải củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng



sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như
từng thành tố của nó.
1.3.2 Kinh tế:
- Hồ Chí Minh đề cập đến các mặt: LLSX, QHSX, cơ chế quản lý kinh tế. Người
nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa; chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, cơ cấu ngành và cơ cấu các
thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
- Hồ Chí Minh quan niệm: lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ
thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu
cầu thiết yếu của nhân dân.
- Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Người lưu ý phát triển kinh tế đồng đều ở cả nông
thôn và thành thị và đặc biệt chú trọng đến kinh tế ở vùng núi, hải đảo.
- Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương kinh tế nhiều thành phần suốt thời kỳ
quá độ ở nước ta, Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần
kinh tế.
+ Ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh.
+ Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, nhà nước cần đặc
biệt khuyến khích, giúp đỡ nó phát triển.
+ Đối với làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ, nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với
tư liệu sản xuất, hướng dẫn cách làm ăn.
+ Đối với các nhà tư sản công thương, nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu tư liệu sản
xuất và của cải của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp
với kinh tế nhà nước.


- Bên cạnh đó, Người còn là người đầu tiên đề cập đến chế độ khoán trong sản
xuất, gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm không hưởng là “điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích
công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lời
riêng…; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”.

1.3.3 Văn hoá - xã hội:
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới; coi trọng nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và sử dụng nhân tài. Người đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và
khoa học kỹ thuật trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.4 Biện pháp xây dựng XHCN ở VN
-Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra 2
nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính quốc tế, cần nắm vững nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chế độ mới. Phải học tập kinh nghiệm của các nước
anh em nhưng không áp dụng máy móc vì nước ta có đặc điểm riêng của ta. “Tất cả
các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau”.
+ Xác định bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ điều kiện
thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
1.4.1 Phương châm
Bác đã xác định phương châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
dần dần ,thận trọng từng bước một ,từ thấp đến cao,không chủ quan nóng vội và việc xác
định các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào các điều kiện khách quan quy định .Bác nhận
thức về phương châm " Tiến nhanh ,tiến mạnh ,tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội
"không có nghĩa là làm bừa ,làm ẩu ,"đốt cháy giai đoạn", chủ quan duy y chí mà phải
làm vững chắc từng bước ,phù hợp với điều kiện thực tế.


Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến vai trò của
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là "con đường phải đi của chúng ta", là nhiệm
vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và phát triển nền nông nghiệp
toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ đa dạng nhằm
giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho nhân dân, các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu
cho xã hội.
1.4.2 Bước đi và biện pháp

Hồ

Chí

Minh

nêu

2

nguyên

tắc



tính

phương

pháp

luận:

- Xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính quốc tế, cần nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chế độ mới. Phải học tập kinh nghiệm của các nước anh
em nhưng không phải sao chép,áp dụng máy móc giáo điều vì nước ta có đặc điểm riêng
của ta. “Ta không thể giống Liên-xô,...”
“Tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn
giống nhau”.

- Xác định bước đi, biện pháp phải xuất phát từ thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả
năng thực tế của nhân dân.
1.4.2. Về bước đi
Phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh,... chớ ham làm
mau, ham rầm rộ... Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”. Bác sớm ngăn ngừa
xu hướng chủ quan, nóng vội. “Chớ thấy Liên Xô, Trung Quốc đã có nông trường quốc
doanh, tổ chức hợp tác xã thì ta cũng vội tổ chức ngay hợp tác xã”.
+Bước đi nông nghiệp: từ cải cách ruộng đất sau tiến lên tổ đổi công cho tốt cho
khắp,

lại

tiến

lên

hình

thức

hợp

tác



dễ

dàng,...


+Về bước đi công nghiệp, “...Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến
tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”, “làm trái với
Liên-xô cũng là Mác xít" .


+Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội.Bác đặc biệt lưu ý đến vai trò của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ,coi đó là "con đường phải đi của chúng ta " là nhiệm vụ
trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội :nhưng công nghiệp hóa không có
nghĩa là xây dựng những nhà máy xí nghiệp cho thật to,quy mô cho thật lớn ,bất chấp
những điều kiện cụ thể cho phép trong từng giai đoạn nhất định .Theo người công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và phát triển nền
nông nghiệp toàn diện , vững chắc ,một hệ thống tiểu thủ công nghiệp ,công nghiệp nhẹ
đa dạng , nhằm giải quyết vấn đề lương thực ,thực phẩm cho nhân dân,các nhu cầu tiêu
dùng thiết yếu cho xã hội
Chương II: Vận dụng quan điểm đó trong công cuộc đổi mới hiện nay. Và việc sinh
viên vận dụng quan điểm đó
2.1.Những thành tựu đã đạt được và những hạn chế trong việc vận dụng quan điểm đó
trong công cuộc đổi mới đất nước
2.1.1 Những thành tựu đạt được
Nước ta đã vượt qua thời kì khủng hoảng hoảng kinh tế - xã hội, Nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Sau 2 cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc nước ta bị phá hủy nặng nề. Nền
nông nghiệp nghèo nàn lạc hâu, nền công nghiệp trì trệ kém phát triển. trong thời kì bao
cấp (giai đoan trước năm 1986) được coi là giai đoạn thất bại tù đọng của nước ta. Sau
năm 1986 đảng và nhà nước chỉ đạo công cuộc đổi mới đất nước đã có những sự cải cách
kinh tế và một số mặt xã hội. Từ một đất nước dân không đủ ăn đủ mặc trở thành một
trong top dẫn đầu xuất gạo trên thế giới.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng xác định rõ ràng hơn: Cho
đến nay, Đổi Mới về chính trị ở Việt Nam là chuyển từ việc lãnh đạo kinh tế chủ

quan, duy ý chí sang tôn trọng quy luật khách quan của thị trường.


Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp tác với các nước XHCN sang chú trọng
quan hệ hợp tác đa phương, làm bạn với tất cả các nước, trên quan điểm bình đẳng, cùng
có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Việt Nam đã bình thường hóa
quan hệ với Mỹ, gia nhập các tổ chức khu vực ASEAN, APEC, WTO...
Phát huy những kết quả đạt được trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng mà đất
nước ta đạt được.
Kinh tế tăng trưởng, tổng sản phẩm GDP trong nước tăng bình quân hàng năm là
7%. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường.
Văn hóa xã hội có những tiến bô. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, quốc phòng
anh ninh được tăng cường.
Công tác xây dựng đảng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được
củng cố.
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tê được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả.
Tổng sản lượng trong nước tăng manh. Ngày nay thế lực của nước ta đã lớn mạnh
hơn nhiều.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng an ninh được tăng
cường


- Đổi mới toàn diện và đồng bộ hơn, động viên mọi nguồn lực của toàn xã hội, đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển mạnh nhanh và
bền vững nhằm sớm đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
2.1.2 Hạn chế
Nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả và sưc cạnh tranh thấp. một số vấn đề văn

hóa còn nhiều bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết.
Kế hoạch đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa còn rất
là khó khăn. Tư tưởng của người dân vẫn theo tác phong nông nghiệp, phụ thuộc, ỷ lại
chưa bắt kip với các nước công nghiệp trên thế giới.
Cơ chế chính sách chưa đồng bộ, tình trạng tham nhũng, suy thoái ở một số bộ
phận cán bộ, đảng viên. Đây là những vấn đề nhanh chóng cần được giải quyết, khắc phục
để

đất

nước

phát

triển

bền

vững.

2.2 Sinh viên
Thanh niên là hy vọng của Đảng của dân tộc. Bác Hồ nói: "Thanh niên là người
chủ tương lai của nước nhà". Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định: "Tiền đồ rạng rỡ
của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nằm trong tay thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng".
Là người kế tục sự nghiệp cách mạng của những thế hệ đi trước, có lực lượng hùng
hậu và năng lực cách mạng to lớn, thanh niên, sinh viên ngày nay phải coi cương lĩnh của
Đảng là sự nghiệp của chính mình, nhận lãnh sứ mệnh biến cương lĩnh đó thành hiện thực
sinh động trên đất nước ta.
Là sinh viên : "Nhiệm vụ của sinh viên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình

những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà". Lời dạy đó chỉ ra cho sinh viên
nhận thức đúng về vấn đề cống hiến và hưởng thụ, về một cuộc sống có lý tưởng cao đẹp,


đồng thời vạch rõ cách suy nghĩ về trách nhiệm, về chỗ đứng của sinh viên trước yêu cầu
của xã hội. Sinh viên phải đứng trên vị trí người làm chủ, người chiến sĩ cách mạng mà
nâng cao ý chí phấn đấu, dám hy sinh, dám chịu đựng vì sự sống còn của Tổ quốc, vì sự
nghiệp lớn của nhân dân, nêu cao chí tiến thủ, nhằm thẳng quân thù, nhìn rõ khó khăn,
dám tiến công và chỉ tiến công chứ không lùi bước, phát huy mọi nhân tố tích cực, mọi
tiềm năng hiện thực, dựa vào tập thể, tìm ra cách làm tốt, làm đúng, sáng tạo những
phương pháp có hiệu quả để đẩy mạnh sản xuất xây dựng, học tập, tổ chức tốt đời sống,
thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Trong cuộc sống hiện nay trách nhiệm của sinh viên ngày càng quan trọng hơn .
Sinh viên phải đi đầu sáng tạo, xây dựng nền văn hóa mới, mở rộng phong trào văn hóa
quần chúng, phát triển phong trào thể dục thể thao, phát triển nền văn học, nghệ thuật xã
hội chủ nghĩa đậm đà tính chất dân tộc và tiếp thụ những tinh hoa của văn học, nghệ thuật
thế giới. Không ngừng học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, hiểu biết về khoa học xã
hội, y tế đời sống, tu dưỡng văn hóa, phát triển các kỹ năng ứng dụng vào thực tế cuộc
sống. Để trở thành không chỉ là những nhà kinh tế tài ba đưa đất nước ta từ một nước
nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước với nền công nghiệp hóa.

Tổng kết
HCM đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở những nước chưa phát triển như
Việt Nam, không chỉ là đấu tranh giai cấp là trước hết và trên hết phải tạo công ăn việc
làm cho người lao động làm sao cho dân giàu nước mạnh, nhân dân được tự do, hạnh
phúc -Đó là con đường phấn đấu lâu dài, gian khổ liên tục trên mọi phương diện từ kinh
tế,

chính


trị

đến

văn

hóa



hội,

y

tế

giáo

dục.

Như vậy, có thể khẳng định con đường mà Việt Nam đang đi là đúng đắn, để đạt
tới thành quả là một nước XHCN còn nhiều khó khăn và gian khổ, nhưng chỉ cần xác
định rõ mục tiêu, đi đúng con đường mà mình đã chọn, trên cơ sở vận dụng triết học MacLenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định chúng ta sẽ tiến đến cái đích thành công, sớm
sánh vai với các cường quốc năm châu,có một nền kinh tế phát triển, chính trị ổn định


vững chắc và đời sống nhân dân thực sự no đủ, chúng ta sẽ xây dựng thành công một đất
nước

thực


sự

của

dân,

do

dân





dân.

Tất cả những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua nhóm em
luôn tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai của nước mình. Sự cố gắng và nỗ lực của
mỗi con người, mỗi thành viên ngày hôm nay chính là một viên gạch quý xây dựng nên
thành công của cách mạng XHCN sau này. Cho nên chúng em sẽ cùng nhau phấn đấu vì
đó là sự phấn đấu cho hạnh phúc của bản thân, cho hạnh phúc của cộng đồng , đó cũng là
điều kiện càn thiết để tiến tới thành công của cách mạng XHCN.
.



×