Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Chất lượng của lao động tư nhân là lao động công hiện nay đang chênh lệch khá rõ rệt. Muốn cải thiện điều này, cụ thể là tăng chất lượng lao động công thì chính sách được nhiều người ủng hộ là tăng mức lương tối thiểu của lao động công ngang bằng với mức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.89 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đôi khi trong cuộc sống, có nhiều người trong chúng ta thường tự hỏi, tại sao
cũng 24h như nhau nhưng có những người sống một cuộc sống thật thảnh thơi, thoải
mái,giàu sang, trong khi nhiều người khác lại phải luôn chật vật với cuộc sống của mình
thậm chí luẩn quẩn trong vòng quay tài chính không lối thoát. Liệu đó có phải do người
giàu may mắn hơn người nghèo hay anh này có số giàu còn anh kia có số nghèo? Tất cả
đều không phải, đó là sự khác nhau đơn giản về tư duy kiếm tiền giữa một người giàu
có và một người lao động thông thường.
Lao động có khá nhiều kiểu lao động, trong đó lại có 2 loại chính, đó chính là lao
động tư nhân và lao động công. Hai khối lao động này có nhiều điểm giống và khác
nhau, như thời gian làm việc, mức độ công việc ...và được quan tâm nhất là mức lương
tối thiểu. Qua thống kê thực tế, ta luôn thấy mức lương của lao động tư nhân luôn cao
hơn mức lương của lao động công, đồng thời chất lượng ngày công lao động cũng khá
khác nhau: trong khi lao động tư nhân rất hiệu quả thì lao động công tỏ ra trì trệ, chậm
chạp. Vì vậy muốn nâng cao chất lượng lực lượng lao động công thì chính phủ Việt
nam cần có chính sách tăng mức lương tối thiểu trong khu vực công sao cho bằng mức
lương tối thiểu của khu vực tư nhân hiện nay.Chúng ta sẽ cùng đi làm rõ qua điểm này
thông qua lý thuyết kinh tế học lao động về lao động công và lao động tư nhân.

1


I. Cơ sở lý thuyết
1.Các khái niệm
- Lương tối thiểu: là mức lương thấp nhất theo luật định trả cho lao động giản đơn nhất
trong điều kiện lao động bình thường nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu đủ để tái tạo
sức lao động. Lương tối thiểu được quy định bằng tiền lương danh nghĩa .
- Lao động công là người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh,
trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ quan,
tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này.


2. Giới thiệu về hệ thống lương ở khu vực công và khu vực tư nhân hiện nay.
Tiền lương là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế - xã hội, tạo động
lực tăng trưởng kinh tế và giải quyết công bằng, tiến bộ xã hội, nâng cao năng lực và
hiệu quả quản lý Nhà nước, khai thác tiềm năng sáng tạo của người lao động.
+Trong khu vực tư nhân, tiền lương chịu sự tác động và chi phối rất lớn của thị
trường và thị trường lao động.
+Trong khu vực công, tiền lương là số tiền mà các cơ quan, tổ chức của Nhà
nước trả cho người lao động theo cơ chế, chính sách của Nhà nước và được thể hiện
trong hệ thống thang, bảng lương do Nhà nước quy định. Trong hoạt động công vụ, tiền
lương đóng giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu tố kiên quyết thu hút
và giữ được những người có tài năng tham gia hoạt động trong khu vực công, tránh hiện
tượng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư. Đối với công chức bao gồm
lương cơ bản, phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên và thưởng. Các vị trí khác nhau
được hưởng lương khác nhau. Những người có vị trí cao và chịu trách nhiệm nhiều hơn
được hưởng lương cao hơn nhiều so với người ở vị trí thấp.

*Quy định về Tiền lương năm 2014
a. Lương tối thiểu vùng
Mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp
tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn
lao động.
Theo đó, mức lương tối thiểu vùng như sau:
2


- 2.700.000 đồng/tháng đối với vùng I.
- 2.400.000 đồng/tháng đối với vùng II
- 2.100.000 đồng/tháng đối với vùng III.
- 1.900.000 đồng/tháng đối với vùng IV.
b. Lương cơ sở

Mức lương cơ sở áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương, phụ
cấp và người lao động (gọi chung là người hưởng lương, phụ cấp) làm việc trong các cơ
quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và hội có
tính chất đặc thù ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp huyện), ở xã, phường, thị trấn (cấp xã) và lực lượng vũ
trang.
Theo đó, mức lương cơ sở là 1.150.000 đồng/tháng.
c. Lương tối thiểu ngành
Mức lương tối thiểu ngành được xác định thông qua thương lượng tập thể ngành, được
ghi trong thỏa ước lao động tập thể ngành.
Theo đó, mức lương tối thiểu ngành không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng.

3. Mô hình luật mức lương tối thiểu
3.1. Mô hình luật mức lương tối thiểu áp dụng toàn diện
Luật mức lương tối thiểu có thể có những hiệu ứng phụ không mong muốn chống
lại mục tiêu của chương trình giảm nghèo đói. Xem xét một thị trường lao động chưa
lành nghề và giả sử ban đầu là tất cả các công nhân đều được áp dụng luật mức lương tối
thiểu
Hình 3.1 cho thấy thị trường của những công nhân chưa lành nghề, trong đó điểm
cân bằng thị trường trước khi áp dụng luật mức lương tối thiểu có mức lao động sử dụng
3


là E0 và mức lương thực tế W0/P0. bây giờ, giả sử Quốc Hội ban hành mức lương tối thiểu
danh nghĩa là W1 > W0 , luật này sẽ làm tăng mức lương thực tế lên W 1 / P0 và giảm
xuống E1 công nhân mà hãng muốn thuê. Mặc dù một lượng lớn công nhân E 2 sẵn sàng
tham gia thị trưường lao động với mức lương này, nhưng áp lực giảm đè lên lương danh
nghĩa do lương không thể giảm dưới mức danh nghĩa tối thiểu. Kết quả là tác động tức
thời của việc tăng lương tối thiểu là giảm sử dụng lao động và tăng thất nghiệp tương ứng
với E2 –E1 .


Tiền lương thực tế

S

W2/P1=W0/P0
W1/P1=W0/P0
D

0

E1 E0 E2

Số lao động (E)

Hình 3.1
Qua thời gian, Chính Phủ có biện pháp khuyến khích nền kinh tế với hi vọng giảm
thất nghiệp. Những hành động như vậy luôn bao gồm những chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ nới lỏng (tăng chi tiêu chính phủ và cung tiền, giảm thuế). Tuy nhiên, khi giá
tăng, mức lương thực tế lại giảm do mức lương danh nghĩa được giữ nguyên, khiến cho
lượng lao động được sử dụng tăng lên. Nếu Quốc Hội không thực hiện hoạt động nào
khác mà vẫn theo đuổi chính sách nới lỏng thì giá sẽ tăng tới mức W 1 /P1 = W0 / P0. như
vậy, giá trị thực sự của mức lương tối thiểu lại giảm xuống mức ban đầu của thị trường
và tình trạng sử dụng lao động lại quay về ban đầu. Trong khi tác động tức thời của lương
tối thiểu tăng khiến cho giẳm dụng lao động, qua một thời gian dài tình trạng giảm sử
dụng lao động sẽ được hạn chế tại thời điểm mức giá cao hơn.
Như đã nói ở trên, quốc hội cứ định kỳ lại tăng mức lương tối thiểu nhằm khôi phục lai
giá trị tương đối của số tiền trung bình có thể kiếm được trả theo giờ sản xuất.nếu tăng tới
W2 , tại đây W2 /P1 =W1/P0 và một lần nữa lai giảm lao động sử dụng xuống E 1 và tạo ra
áp lực cho Chính Phủ phải hành động nhằm giảm thất nghiệp. Kết quả là chu kỳ lương tối

4


thiểu tăng làm mất việc trong ngắn hạn, lạm phát làm giảm giá trị thực của lương tối
thiểu và khôi phục việc làm, và sau đó việc tăng lương danh nghĩa lại bắt đầu quá trình
này lại từ đầu. Theo định kỳ, các đề xuất chính sách được trình lên Quốc Hội nhằm thắt
chặt mức lương tối thiểu với mức giá tiêu dùng hoặc số tiền trung bình có thể kiếm được
trả theo giờ; mức lương tối thiểu sẽ tự động tăng mỗi năm nhằm duy trì giá trị tương đối
không đổi với các biến trên. Nếu quá gắn với mức lương tối thiểu cũ, tác động ròng của
luật này sẽ gắn mức lương thực tế của lao động kỹ năng thấp với mức W 1/P0 ở hình 3.1.
liệu chính sách như vậy có thỏa mãn nhóm lao động kỹ năng thấp như là một nhóm phụ
thuộc vào hoặc là mức lương cao hơn đủ để đền bù cho các công nhân kỹ năng thấp vì
mất việc (E0-E1 ) và phụ thuộc vào các chương trình hỗ trợ thu nhập như bảo hiểm thất
nghiệp sẵn có đối với công nhân thất ngiệp. Tăng mức lương tối thiểu gây mất việc cho
các công nhân và Chính Phủ phải cố gắng giúp đỡ họ.

3.2. Mô hình luật mức lương tối thiểu không áp dụng toàn diện
Mặc dù việc áp dụng mức lương tối thiểu ngày càng rộng rãi, nên ngày nay khoản
88% người lao động ở Mỹ không phải bị giám sát được áp dụng luật này. Trong khi năm
1965 khoảng hơn 1/3 số lượng lao động này không được áp dụng luật này. Các khu vực
không áp dụng luật này chủ yếu là những nơi buôn bán lẻ, các ngành công nghiệp dịch vụ
và nông nghiệp. Ngày nay, những người lao động trong các ngành công nghiệp này đều
làm cho những hãng nhỏ. Sẽ là có ích để thể hiện những tác động của mức lương tối thiểu
khi chưa áp dụng được cho toàn bộ lao động. Để đơn giản hóa thảo luận này chúng ta sẽ
giả sử rằng:
a. Giá cả cố định
b. Thị trường lao động chưa lành nghề có đặc điểm là đường cung theo trục tung nên

toàn bộ lao động chưa lành nghề được sử dụng là ET
c. Thị trường này có một khu vực áp dụng mức lương tối thiểu và một khu vực

không áp dụng mức lương tối thiểu
d. Các công nhân chưa lành nghề di chuyển đi di chuyển lại giữa những khu vực này
nhằm tìm kiếm việc với mức lương cao nhất có thể
Những giả thiết gợi ý rằng nếu không có mức lương tối thiểu,mức lương ở các khu
vực sẽ là như nhau. Ở hình 3.2 giả sử rằng mức lương “trước khi áp dụng mức tối thiểu”
là W0 và tổng số lao động là ET thì bị hạ xuống E0c trong khu vực áp dụng mức lương tối
thiểu công với E0U trong khu vực không áp dụng mức lương tối thiểu.

5


Nếu tăng mức lương ở khu vực này từ W 0 lên W1, giảm cầu và lượng lao động sử
dụng trong khu vực áp dụng luật mức lương tối thiểu sẽ giảm từ E 0C xuống E1C. Một số
công nhân trước đây đã có việc làm trong khu vực áp dụng mức lương tối thiểu bây giờ
phải tìm việc trong khu vực chưa áp dụng luật này. Do đó, một số công nhân trước đây
làm trong khu vực chưa áp dụng mức lương tối thiểu là E0U thì giờ có thêm E0C-E1C những
người công nhân khác tìm kiếm việc làm ở khu vực này. Vì vậy, tất cả các công nhân
chưa lành nghề mà có đủ may mắn để tìm thấy việc trong khu vực áp dụng mức lương tối
thiểu W1 giờ phải tìm việc trong khu việc chưa áp dụng mức lương tối thiểu. cung lao
động tăng trong khu vực này làm giảm mức lương từ W0 xuống W2.
Tiền lương

tiền lương
W0

W1
W0

W1


D

D
0

E1 C

E0C Số lao động (E)

0

E0U

E1U

số lđ (E)

Hình 3.2
Giống như các luật khác, việc mức lương tối thiểu chưa được áp dụng hết ở các
khu vực tạo ra cả người hưởng lợi và người bị hại. Người hưởng lợi là những người ở
khu vực được áp dụng mức lương tối thiểu đã giữ được công việc của họ và giờ nhận
mức lương tối thiểu cao hơn.

II. Chính sách mức lương tối thiểu ở khu vực tư nhân và khu vực công ở
Việt Nam hiện nay.

1. Chất lượng lực lượng lao động
1.1.Lực lượng lao động tư nhân
Tính đến 1/7/2011, cả nước có 51,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động, chiếm 58,5% tổng dân số. Trong đó lực lượng lao động của khu vực nông thôn

chiếm 70,3%.

6


-Tuy nhiên, số người trong độ tuổi lao động đông nhưng số lao động có tay nghề , có
chất lượng của nước ta đang còn rất hạn chế, trình độ học vấn chưa cao và không đồng
đều giữa các vùng miền .
Nguồn lao động dồi dào, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây liên tục
tăng, nhưng các doanh nghiệp vẫn kêu thiếu lao động. Nguyên nhân là do lao động Việt
Nam chỉ mới đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chứ chưa đáp ứng được nhu cầu về chất
lượng
- Do nguồn lực tăng nhanh nên hàng năm trung bình có thêm trên một triệu lao động gia
nhập vào thị trường lao động nên nguồn nhân lực nước ta là một trong những quốc gia có
một nguồn nhân lực trẻ. Lực lượng lao động trẻ cũng là một lợi thế của nước ta trong việc
phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước
Thực tế khẳng định, năng suất lao động ở Việt Nam thấp so với các nước không phải
do người Việt Nam thua kém lao động các nước khác về tính cần cù, cường độ lao động,
khả năng nắm bắt kiến thức cần thiết khi được đào tạo đúng nội dung và phương thức,
cũng như khả năng sáng tạo, tinh thần kỷ luật, năng lực hội nhập và thích nghi với quy
trình và môi trường lao động hiện đại khi được khuyến khích và tạo cơ hội, điều kiện phù
hợp...
1.2.Chất lượng lao động công
Cả nước đến nay có khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 1131 giáo sư, 52129
giảng viên đại học và cao đẳng trong đó có 49% có trình độ thạc sĩ trở lên. Đội ngũ trí
thức Việt Nam ở nước ngoài hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3 triệu
Việt kiều trong đó 200 giáo sư đang giảng dạy tạị một số trường đại học trên thế giới. Sự
tăng lên đáng kể này cho thấy lực lượng lao động công ở Việt Nam có chất lượng tiến bộ
nhanh chóng trong những năm gần đây.

Những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, công chức đã được rèn luyện, thử thách qua quá
trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với sự nghiệp cách mạng. Kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng
lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được nâng cao về mọi
mặt, góp phần tích cực vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn
vừa qua.
Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ công chức hiện nay vẫn bộc lộ những yếu kém, bất cập.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức chưa tương xứng, chưa đáp ứng
yêu cầu công việc; tính chủ động, ý thức trách nhiệm với công việc được giao còn thấp;
7


khả năng quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế. Một bộ phận công chức thoái hoá, biến
chất, tham ô, buôn lậu, nhũng nhiễu phiền hà, thiếu công tâm, khách quan khi giải quyết
công việc ; kỷ luật hành chính lỏng lẻo, bản lĩnh thiếu vững vàng, lãng phí....
Ta cần nhận thấy một thực tế: còn không ít cán bộ, công chức trong các cơ quan hành
chính Nhà Nước hiện nay làm việc thiếu tích cực. Đi muộn về sớm hay “đi để điểm
danh” là một hiện tượng phổ biến. Điều đó còn thể hiện ở chỗ: nhiều cán bộ, công chức
bảo thủ trong cách nghĩ, cách làm, thiếu sự năng động, sáng tạo và đổi mới; cách làm
việc quan liêu, hành chính hoá, không thạo việc, tác phong chậm chạp, rườm rà, thái độ
thờ ơ, thiếu trách nhiệm... dẫn đến sự trì trệ về phương thức hoạt động trong các cơ quan
hành chính khi người dân kêu ca về tinh thần, thái độ, ý thức trách nhiệm của không ít
cán bộ, công chức trong giải quyết công việc, lợi ích của người dân bị tổn hại. Bên cạnh
đó, vì lương không đáp ứng đủ cho nhu cầu nên nhiều nguời còn “làm thêm ngoài giờ”,
không chú trọng vào công việc Nhà Nuớc.
Ngoài ra, còn có hiện tượng chạy chọt, xin xỏ, dựa vào các mối quan hệ để vào làm trong
Nhà Nuớc do đó việc chất luợng kém là điều không tránh khỏi.
2. Phân tích chính sách mức lương tối thiểu ở khu vực tư nhân và khu vực công
2.1.Mức lương tối thiểu ở khu vực công
Như tất cả mọi người đã biết, chính sách lương của cán bộ công chức nói riêng và

nhân viên các quan quản lý Nhà Nước của nước ta thật tệ, dẫn đến tình trạng các cơ
quan quản lý nhà nước không thu hút nổi người tài, người có năng lực. Người tài lần
lượt đến và đi, và chủ yếu là nơi có cho họ thu nhập cao hơn đồng nghĩa với việc sức
lao động của họ được coi trọng. Những người ở lại một là không có tài thực sự, hoặc là
gia đình giàu có hậu thuẫn mới yên tâm công tác.
Trên thế giới hiện phổ biến ba hình thức lương tối thiểu: lương tối thiểu duy nhất
chung cho cả nước, lương tối thiểu theo ngành nghề và lương tối thiểu theo vùng. Việt
Nam là trường hợp ngoại lệ, bởi các doanh nghiệp Nhà Nước đang áp dụng mức lương
tối thiểu thấp hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một đặc thù khác, lương
tối thiểu ở Việt Nam có quá nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh. Nếu như ở các nước,
lương tối thiểu gắn với yếu tố lạm phát, thường được điều chỉnh kịp thời dựa trên những
thay đổi về chỉ số giá linh hoạt thì ở Việt Nam, lương tối thiểu còn là cơ sở để điều chỉnh
lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc…Chính vì lẽ đó, trong khi nhiều
nước có thể điều chỉnh mức lương tối thiểu định kỳ hằng năm cho phù hợp với biến động
của thị trường, thì Việt Nam không thể làm được điều này.
Chính sách tiền lương tối thiểu vẫn còn nhiều hạn chế:
8


Thứ nhất, mức lương tối thiểu thấp, chưa được tính đúng, tính đủ cho mức
sống tối thiểu của người có nuôi con và chỉ đáp ứng được 60- 65% nhu cầu cơ bản của
người lao động. Tiền lương chưa bảo đảm người hưởng lương chủ yếu sống bằng
lương. Đây chính là nguyên nhân khu vực nhà nước không giữ được lao động có năng
lực. Hiện tượng chảy máu chất xám từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân đã trở
thành xu hướng phổ biến những năm qua. Một bộ phận đáng kể người lao động có thu
nhập ngoài lương chiếm tỷ trọng lớn làm cho quan hệ tiền lương bị méo mó.
Thứ hai, vẫn tồn tại sự bất bình đẳng trong việc xác định tiền lương giữa người
lao động và người sử dụng lao động; giữa khối doanh nghiệp Nhà Nước và khối doanh
nghiệp FDI, doanh nghiệp tư nhân; giữa lao động nam và nữ; giữa các vùng miền.
Ngoài ra, chính sách tiền lương bị ràng buộc bởi các chính sách an sinh xã hội và có sự

phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp theo sở hữu. Hệ thống thang bảng lương
còn rườm rà, phức tạp.Vấn đề tiền lương dễ tạo ra vòng luẩn quẩn trong việc tháo gỡ
những vướng mắc của thị trường lao động.
Để đáp ứng sự gia tăng giá cả của thị trường, cũng như nhằm cải thiện mức sống của đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Việt Nam cũng thực hiện áp dụng chế độ lương tối
thiểu và đã thực hiện việc tăng lương tối thiểu liên tục qua các năm. Kể từ năm 2001,
Chính phủ đã có 8 lần nâng lương tối thiểu từ 210.000đ/tháng đến 1.050.000đ/tháng như
thời điểm hiện nay. Việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu thời gian qua đã cải thiện phần
nào cuộc sống của người lao động. Tuy nhiên, mức điều chỉnh đó cũng chỉ đạt 65% mức
sống tối thiểu của người lao động. Xung quanh mức lương tối thiểu (LTT), cơ chế áp
dụng, thời gian điều chỉnh LTT ở Việt Nam còn không ít bất cập. Việc ấn định, điều
chỉnh LTT vùng chủ yếu xuất phát từ phía cơ quan Chính phủ, việc tham gia, tham vấn
của các cơ quan đại diện cho người lao động và người sử dụng lao động còn hạn chế, do
vậy tiền lương tối thiểu chưa phản ánh đầy đủ các yếu tố thị trường lao động, chưa có
nghiên cứu đầy đủ về địa bàn phân vùng để quy định mức lương tối thiểu.
Những kết quả đầu ra của chương trình cải cách tiền lương cán bộ công chức chưa
đáng kể, chưa tạo được những thay đổi cơ bản như mục tiêu đề ra. Tiền lương chưa thực
sự trở thành động lực của nền công vụ, chưa thúc đẩy cán bộ công chức hoàn thành
nhiệm vụ và do đó chưa góp phần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công chức, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính công, các thang, bảng, ngạch, bậc lương hiện rất
phức tạp. Hệ thống tiền lương hiện nay còn mang nặng tính bình quân, cào bằng, không
có tác dụng khuyến khích, thúc đẩy cán bộ công chức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trong đó, vấn đề khoảng cách tối thiểu - trung bình - tối đa (1 - 2,34 - 10) đang là một bất
hợp lý đáng kể. Cần mở rộng thêm đáng kể khoảng cách tiền lương tối thiểu - trung bình
- tối đa thì mới có tác dụng khuyến khích, động viên, khắc phục tình trạng bình quân như
hiện nay. Việc mở rộng khoảng cách này còn làm cho tiền lương phản ánh chính xác hơn
kết quả, hiệu quả lao động của công chức.
9



Về nội dung chính sách tiền lương: Quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa chưa
hợp lý, hệ số trung bình quá thấp nên chưa cải thiện được đời sống, chưa khuyến khích
được cán bộ, công chức và người lao động có hệ số lương thấp.
Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ công) còn
chậm và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó khăn cho cải
cách tiền lương, thiếu nguồn tài chính để trả lương xứng đáng cho cán bộ công chức và
người lao động; chưa tách bạch rõ ràng chính sách tiền lương đối với công chức khu vực
hành chính Nhà nước và viên chức khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công. Hiện vẫn
phổ biến tình trạng trả lương còn mang tính “cào bằng”, cán bộ, công chức được trả theo
chức vụ, chức danh nghiệp vụ chuyên môn, thâm niên công tác; “làm nhiều, làm ít cũng
hưởng lương như nhau”, tiền lương chưa phù hợp với mức độ cống hiến, chưa phản ánh
đúng năng lực, kết quả công tác của cán bộ, công chức.
Về mức lương tối thiểu chung và mức lương tối thiểu vùng: Mức lương tối thiểu hiện nay
chưa thật sự phù hợp với cơ chế thị trường, dù liên tục điều chỉnh nhưng tăng vẫn không
kịp so với tốc độ trượt giá và mức tăng trưởng của nền kinh tế. Do đó, tiền lương thực tế
của cán bộ, công chức và người lao động có phần giảm sút, chưa bảo đảm trang trải cho
các nhu cầu thiết yếu của bản thân, chưa kể đến gia đình họ.
2.2. Mức lương tối thiểu ở khu vực tư nhân
Từ năm 2008 đến tháng 10-2011, mức lương tối thiểu vùng của doanh nghiệp còn gắn
với mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với khu vực hưởng lương từ ngân sách Nhà
Nước, dẫn đến khó khăn trong nâng tỷ lệ tăng lương do phụ thuộc chủ yếu vào nguồn
ngân sách Nhà Nước. Mặt khác, các doanh nghiệp được phân chia theo địa bàn 4 vùng để
áp dụng mức lương tối thiểu vùng, nhưng thực tế khi áp dụng, các doanh nghiệp chỉ điều
chỉnh tăng tiền lương để đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,… Tiền lương thực
tế doanh nghiệp trả cho người lao động cao hơn nhiều so với quy định, nên các doanh
nghiệp có thể không điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng mức điều chỉnh tăng không
theo tỷ lệ tăng tiền lương tối thiểu vùng.
Ở khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhiều công ty đã trả mức lương trung bình từ
hơn 2 triệu đồng một tháng thì mức này ở phương án tối thiểu của Bộ Lao động và
thương binh xã hội chỉ là 1.5 triệu đồng, điều này cũng gây ra nhiều thiệt thòi cho các lao

động tại các công ty nước ngoài, khi mà phía nước ngoài sẽ không chấp nhận trả quá cao
so với mức lương tối thiểu mà nhà nước quy định. Các doanh nghiệp đều cho rằng mức
lương này là quá thấp, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn tuyển dụng lao động.
Mức lương tối thiểu cũng khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi khách hàng
tính giá thành cũng dựa vào nó. Hiện tại lương tối thiểu chung và lương tối thiểu vùng
đang áp dụng chung cho cả doanh nghiệp lẫn cả khối hành chính sự nghiệp, cho nên nếu
muốn tăng thì sẽ ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước, điều này khiến mức lương tối thiểu
của doanh nghiệp cũng tăng rất chậm, không phù hợp chức năng.
10


Việc tăng mức lương tối thiểu trong thời gian qua chưa góp phần cải thiện đời sống
của người làm công ăn lương, nhất là người lao động làm việc trong doanh nghiệp sử
dụng nhiều lao động, như lĩnh vực may mặc, giày da, chế biến hải sản,… Chính sách tiền
lương chưa thực sự là đòn bẩy khuyến khích được cán bộ công chức và người lao động
nâng cao trách nhiệm, hiệu quả, phát huy năng lực trong thực thi công vụ. Nhiều công
chức, viên chức, trong đó không ít đội ngũ trẻ, có trình độ chuyên môn cao chuyển sang
làm việc tại các doanh nghiệp có mức lương cao như các công ty dầu khí, công ty nước
ngoài.
Vì vậy việc tăng mức lương tối thiểu trong khu vực tư nhân rất khó khăn, cần được
nghiên cứu kỹ.
2.3. So sánh giữa 2 khu vực
Hệ thống chính sách tiền lương của Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Từ
1/2003 đến 5/2012, Chính phủ đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung áp dụng đối
với cán bộ công chức, viên chức từ 210.000 đồng lên 1.050 đồng/tháng, tăng 400% cao
hơn chỉ số giá tiêu dùng do Tổng Cục thống kê công bố là 154%. Bộ Nội vụ nhận định,
mức lương tối thiểu của đối tượng được hưởng lương ngân sách đến nay vẫn quá thấp.
Cụ thể, mức lương tối thiểu hiện là 1.050.000 đồng/tháng chỉ bằng 75% vùng IV (vùng
thấp nhất của khu vực doanh nghiệp); đồng thời mới đạt 37,5% nhu cầu tối thiểu (nếu
tính cả 25% phụ cấp công vụ thì đạt 46,9% nhu cầu tối thiểu. Mức lương tối thiểu thấp

dẫn đến các mức lương trong ngạch, bậc lương thấp theo (tính cả 25% phụ cấp công vụ
từ tháng 5/2012 thì tốt nghiệp đại học khoảng 3 triệu đồng/tháng, Bộ trưởng khoảng 13
triệu đồng/tháng), thấp hơn nhiều so với khu vực thị trường nên khó giữ và thu hút người
làm việc tốt trong các cơ quan nhà nước.
Chính sách tiền lương hiện hành cho thấy, có sự bất cập khi thực hiện 2 loại
lương tối thiểu khác nhau ở khu vực nhà nước và khu vực doanh nghiệp, tạo sự phân
chia nhu cầu sống tối thiểu của người lao động khác với cán bộ, công chức nhà nước.
Điều này là chưa phù hợp với các nguyên tắc xây dựng tiền lương tối thiểu. Theo Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, về cơ bản bước đầu đã hình thành được hệ thống
lương tối thiểu và cơ chế xác định điều hành theo cơ chế thị trường; các phương pháp
xác định mức lương tối thiểu có căn cứ khoa học. Chính phủ đã xác định công bố lộ
trình và thực hiện thống nhất giữa các loại hình doanh nghiệp cam kết WTO, điều chỉnh
tăng dần từng bước hướng tới nhu cầu tối thiểu của người lao động. Nhưng trong quá
trình thực hiện do năng lực thỏa thuận của người lao động và công đoàn cơ sở còn hạn
chế, sức ép việc làm lớn, nhiều doanh nghiệp vẫn bám vào mức lương tối thiểu để trả
lương hoặc dùng mức lương tối thiểu để trả cho người lao động có trình độ chuyên môn
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động

11


Ngoài ra, đối với doanh nghiệp Nhà Nước, thang bảng lương chưa trở thành thước đo để
trả lương mà chủ yếu dùng để đóng hưởng bảo hiểm xã hội. Doanh nghiệp dân doanh,
FDI xây dựng thang, bảng lương mang tính đối phó chưa thực chất; kéo dài số bậc lương,
chia tách tiền lương thành phụ cấp, trợ cấp để giảm đóng bảo hiểm xã hội. Bên cạnh đó,
cơ chế tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước chưa thực sự gắn với năng suất lao
động, hiệu quả kinh doanh. Một số doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động thấp nhưng vẫn
hưởng lương cao, có doanh nghiệp lương cao không phải do năng suất và hiệu quả cao
mà chủ yếu do hưởng lợi thế kinh doanh.
3. Ảnh hưởng chính sách của Chính phủ về tăng mức lương tối thiểu ở khu vực tư

nhân và khu vực công
3.1 Ảnh hưởng (tác động) của chính sách tăng mức lương tối thiểu ở khu vực tư nhân
và khu vực công đến chất lượng lao động
*Tác động tích cực


Từng bước hoàn thiện cơ sở lí thuyết về tiền lương tối thiểu, xác định được khung lí
thuyết về tạo điều kiện cho việc xây dựng, áp dụng, quản lí tiền lương tối thiểu ở
Việt Nam trong giai đoạn mới.



Hệ thống tiền lương trong một chừng mực nhất định đã trở thành cơ sở cho việc
hoạch định chính sách tiền lương mang đặc thù của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, làm cho cơ sở cho việc điều tiết quan hệ lao động trong xã hội cũng như trong
các tổ chức doanh nghiệp.



Người lao động sẽ yên tâm hơn khi có được đồng lương ổn định và đương nhiên khi
đó khả năng nhảy việc sẽ ít đi rất nhiều. Như vậy sẽ có lợi cho doanh nghiệp trong
việc đào tạo lại nhân công lành nghề.



Trong khu vực doanh nghiệp, bước đầu đã quy định mức lương tối thiểu phù hợp
tính chất và khả năng của từng loại doanh nghiệp. Trong đó, đối với công ti nhà
nước, hình thành cơ chế áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm so với mức lương tối
thiểu chung, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện tính đúng, tính đủ chi phí
tiền lương theo cơ chế thị trường, gắn tăng tiền với tăng năng suất lao động, hiệu quả

sản xuất, kinh doanh. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hình thành
được mức lương tối thiểu vùng, đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho người lao động và
phù hợp với các chệnh lệch giá cả sinh hoạt, chi tiêu, mức sống dân cư giữa các
vùng

12


*Tác động tiêu cực
Thứ nhất, quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng là
đúng, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng việc thể chế hoá
chưa đầy đủ và thực hiện chưa nghiêm. Cơ chế phân phối tiền lương đổi mới chậm,
không theo kịp cơ chế quản lý kinh tế trong kinh tế thị trường nên chưa tạo động lực
mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; nhất là tiền lương tối thiểu chung còn thấp, bị
ràng buộc tự động với nhiều chính sách xã hội khác và bị chi phối bởi ngân sách nhà
nước.
Thứ hai, phân phối tiền lương và thu nhập trong khu vực sản xuất, kinh doanh
chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ phân phối công bằng trong kinh tế thị trường, cụ
thể:
- Trong kinh tế thị trường, Nhà nước quy định mức lương tối thiểu làm cơ sở cho
các bên trong doanh nghiệp thoả thuận về tiền lương, nhưng các mức này lại quy định
còn thấp và khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp.
- Cơ chế phân phối tiền lương và thu nhập còn có sự khác nhau giữa các loại hình
doanh nghiệp; hiện nay ở nước ta đang tồn tại 3 cơ chế phân phối tiền lương khác nhau
giữa các loại hình doanh nghiệp, chưa phù hợp với kinh tế thị trường. Tiền lương và thu
nhập của người lao động chưa gắn chặt với năng suất, hiệu quả kinh tế, kết quả sản xuất,
kinh doanh; tiền lương chưa trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy nâng cao năng suất lao
động, khuyến khích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực …
- Trên thực tế, phân phối tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp chưa phản
ánh đúng thực chất quan hệ phân phối công bằng trong kinh tế thị trường.

Chính sách phân phối tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất hợp lý, nhất
là còn bao cấp, chưa tách được yếu tố lợi thế so sánh và xóa độc quyền đối với doanh
nghiệp nhà nước, đồng thời chưa đảm bảo doanh nghiệp nhà nước tham gia dầy đủ vào
thị trường.
- Cơ chế thương lượng, thoả thuận về tiền lương chưa đảm bảo đúng nguyên tắc
thị trường và phát huy tác dụng, còn hình thức. Khi xảy ra tranh chấp về tiền lương
thường không qua bước thương lượng, thoả thuận mà đi thẳng đến đình công, dẫn đến
đình công tự phát có xu hướng gia tăng.
Thứ ba, phân phối tiền lương và thu nhập trong khu vực hành chính Nhà nước và
khu vực sư nghiệp cung cấp dịch vụ công còn nhiều bất cập, cụ thể:
- Tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức bị ràng buộc và chi phối mạnh của
Ngân sách Nhà nước, nên cũng rất thấp và thấp hơn khu vực sản xuất, kinh doanh, chưa
bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống chủ yếu bằng tiền lương; thu nhập ngoài
lương lớn, là một trong những nguyên nhân của tiêu cực, tham nhũng; quan hệ tiền lương
13


chưa hợp lý, các mức lương theo hệ số tiền lương gắn quá chặt với tiền lương tối thiểu
chung; tiền lương chưa gắn thật chặt với vị trí, chức danh và hiệu quả công tác, chất
lượng cung cấp dịch vụ công.
- Tiền lương chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài
năng và cống hiến. Tiền lương thấp không kích thích được cán bộ, công chức gắn bó với
nhà nước, không thu hút được nhân tài; ngược lại, có xu hướng tăng người làm việc giỏi,
người có tài bỏ khu vực nhà nước ra làm việc cho khu vực ngoài Nhà nước, nơi có tiền
lương và thu nhập cao.
- Trong khi tiền lương không đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất cao và
không kiểm soát được, dẫn đến làm méo mó quan hệ tiền lương trong khu vực này. Thu
nhập ngoài lương lớn, có phần hợp pháp, hợp lý, nhưng có phần do tham nhũng, tiêu cực
trong thi hành công vụ (từ biếu xén, từ cơ chế xin - cho, từ cơ chế ăn chia, từ tạo sân
sau...).

- Tiền lương Nhà nước quy định trả cho cán bộ, công chức, viên chức còn thấp,
nhưng tổng quỹ lương và trợ cấp do ngân sách Nhà nước bảo đảm lại chiếm khá cao
trong tổng chi ngân sách Nhà nước.
- Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ
công) còn chậm, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… làm khó khăn cho cải cách tiền
lương và tạo nguồn để trả lương cao cho viên chức khu vực sự nghiệp,cán bộ, công chức
khu vực hành chính nhà nước.
Thứ tư, việc tăng mức lương tối thiểu làm giảm cầu lao động vì nhiều doanh
nghiệp thiếu lao động nhưng vì lương tối thiểu vượt quá doanh thu cận biên nên không
thể thuê thêm lao động dẫn đến thất nghiệp gia tăng, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
3.2. Ảnh hưởng tích cực của c/sách tăng mức lương tối thiểu ở khu vực công bằng mức
lương tối thiểu của khu vực tư nhân hiện nay đến chất lượng lao động công.
- Để thu hút được người tài hoạt động trong khu vực công, chính phủ thường căn cứ
thu nhập của khối tư nhân để đưa ra mức lương cho công chức. Đặc biệt, chú trọng việc
đánh giá lương của các công chức cao cấp được điều chỉnh bằng lương trung bình của
bốn người hưởng lương cao nhất trong sáu ngành, nghề của khu vực tư nhân. Nhờ đó
Việt Nam đã thu hút và giữ được những người tài năng nhất làm việc cho Nhà nước
- Vì lương công chức là một phần thu nhập chính của lao động công nên khi tiền lương
tăng giúp chi trả được những khoản sinh hoạt, làm giảm tiêu cực, tham nhũng trong thi
hành công vụ (biếu - xén, cơ chế xin cho, cơ chế ăn xin, tạo sân sau). Những năm gần
đây chỉ số tham nhũng của Việt Nam được xếp như sau năm 2,6 điểm đứng thứ 123/176
quốc gia và vùng lãnh thổ, năm 2008 đạt 2,7 điểm, xếp thứ 121/180; năm 2009 đạt 2,7

14


điểm, xếp thứ 120/180; năm 2010 đạt 2,7 điểm xếp thứ 116/178 ; năm 2013 đạt 2,9
điểm, xếp thứ 112/182 quốc gia
- Tiền lương của người lao động đã gắn liền với năng suất, hiệu quả kinh tế, kết quả sản
xuất kinh doanh, đó là một động lực mạnh mẽ để nâng cao năng suất lao động, khuyến

khích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Như vậy việc thực hiện chính sách tăng mức lương tối thiểu ở khu vực công bằng mức
lương tối thiểu của khu vực tư nhân đã có nhiều thay đổi tích cực về chất lượng lao
động công:

Tóm lại, chất lượng của lao động tư nhân là lao động công hiện nay đang chênh lệch
khá rõ rệt. Muốn cải thiện điều này, cụ thể là tăng chất lượng lao động công thì chính
sách được nhiều người ủng hộ là tăng mức lương tối thiểu của lao động công ngang bằng
với mức lương tối thiểu của lao động tư nhân. Vì mục đích gần như cuối cùng của lao
động chính là có một mức thu nhập phù hợp với công việc, với khả năng bản thân và với
nhu cầu của người hưởng lương.

Mục Lục:

15


Lời mở đầu 1
I.

Lời mở đầu2
1. Các khái niệm

3

2. Giới thiệu về hệ thống lương ở khu vực công và tư hiện nay 4
3. Mô hình luật mức lương tối thiểu
II.

5


Chính sách mức lương tối thiểu ở khu vực công và tư nhân của Việt Nam 6
1. Chất lượng lực lượng lao động................................................................................6
2. Phân tích chính sách mức lương tối thiểu ở khu vực công và tư nhân hiện

nay............................................................................................................................8
3. Ảnh hưởng chính sách của Chính phủ về tăng mức lương tối thiểu ở khu vực công
và tư nhân...............................................................................................................11

16



×