HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT THỦ TỤC
HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ “MỘT CỬA” Ở UỶ BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2007
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
4
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về
giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”.
13
1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về giải
quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”.
13
1.2. Yêu cầu và những điều kiện bảo đảm thực hiện pháp
luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” .
24
1.3. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về giải quyết thủ
tục hành chính theo cơ chế “một cửa”.
46
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết
thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” ở UBND tỉnh Bắc
Giang.
52
2.1. Những kết quả trong cải cách hành chính và thực
hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” ở UBND tỉnh Bắc Giang.
2.2. Những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện pháp
luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” ở
UBND tỉnh Bắc Giang.
52
62
2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc
thực hiện pháp luật và giải quyết thủ tục hành chính theo cơ
73
chế “một cửa” ở UBND tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện
3
pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”
84
ở UBND tỉnh Bắc Giang hiện nay.
84
3.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện pháp luật về giải
quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”.
88
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giải
quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” ở UBND tỉnh
Bắc Giang hiện nay
114
KẾT LUẬN
117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
119
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cải cách hành chính nhà nước luôn là một trong những chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc
đổi mới nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, sử dụng đúng
quyền lực và từng bước hiện đại để quản lý có hiệu quả công việc của
Nhà nước, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển lành mạnh, xây dựng nếp
sống và làm việc theo pháp luật. Mặt khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
đây là nhiệm vụ mới và rất khó khăn đòi hỏi Nhà nước không ngừng
phải đổi mới cả về tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng những yêu cầu
của đất nước đặt ra.
Để công cuộc cải cách hành chính Nhà nước có hiệu quả thì một
trong những nhiệm vụ quan trọng là phải cải cách một bước cơ bản các
thủ tục hành chính. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VII), ngày 23/01/1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một
bước nền hành chính đã chỉ rõ: “ Tập trung cải cách thủ tục trong tất cả
các lĩnh vực tác động trực tiếp đến đời sống và sản xuất kinh doanh của
nhân dân. Qui định chế độ công vụ và qui chế phối hợp của các cơ quan
có trách nhiệm giải quyết công việc của dân một cách công khai, minh
bạch, chống cửa quyền”.
Trong những năm qua, từ khi có Nghị quyết về cải cách hành
chính của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã
quyết định phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính giai
5
đoạn 2001 – 2010. Từ đó đến nay, các cấp chính quyền đã tiến hành
được nhiều việc: Từ phân cấp, định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của chính quyền các cấp đối với các hoạt động kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng… đến giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước với các tổ chức và công dân. Song trên thực tế, công việc cải cách
hành chính còn diễn ra chậm và bất cập so với yêu cầu phát triển của đất
nước trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới… Một trong
những mấu chốt của cải cách thủ tục hành chính, là làm sao các thủ tục
hành chính đơn giản, tiện lợi và chống được tiêu cực. Điều này có ý
nghĩa: nếu như các công việc có liên quan đến tổ chức và công dân chỉ
qua “một cửa” được thực hiện tốt thì cũng có nghĩa là cơ quan hành
chính nhà nước đã dỡ bỏ những tấm rào chắn bấy lâu nay gây nhiều bức
xúc, cản trở phát triển. Trong thực tế, khi muốn giải quyết một việc cụ
thể nào đều phải qua nhiều bước trung gian, thủ tục rườm rà, không ít
trường hợp cán bộ, công chức sách nhiễu, tiêu cực, gây khó khăn đã làm
xói mòn lòng tin của tổ chức và công dân đối với Nhà nước. Thực hiện
cơ chế “một cửa” thực chất là cơ quan hành chính nhà nước tạo ra một
cơ sở pháp lý mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với
tổ chức và công dân, đồng thời tạo ra một quan niệm mới: cơ quan hành
chính nhà nước có nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ các tổ chức và công
dân để đem lại sự phát triển – nó hoàn toàn trái ngược với quan niệm lâu
nay cho rằng cơ quan hành chính nhà nước chỉ duy nhất có nhiệm vụ đại
diện cho quyền lực nhà nước làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, cho phép,
ban phát các quyền cho tổ chức và công dân… mà những quyền đó thực
chất là quyền của tổ chức và công dân đã được Hiến pháp và pháp luật
qui định.
6
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của cơ chế “một cửa”, ngày
04/9/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 181/QĐ-TTg về
việc ban hành qui chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương. Từ khi có qui chế ra đời, nhiều cấp chính quyền
từ cơ sở đến tỉnh đã tổ chức triển khai thực hiện, xây dựng đề án và đã
được các cấp có thẩm quyền phê duyệt… Nhưng vấn đề thực hiện cơ chế
“một cửa” vào giải quyết công việc hành chính ở UBND tỉnh một cách
đồng bộ, hiệu quả như thế nào? Cần có những giải pháp gì để cơ chế
“một cửa” thực sự là khâu đột phá, góp phần cải cách thủ tục hành
chính, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, minh bạch, trong
sạch, hiện đại, hoạt động có hiệu quả theo các nguyên tắc xây dựng Nhà
nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng... thì việc áp dụng mô hình
cơ chế “một cửa” trong giải quyết các thủ tục hành chính có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn cách mạng
hiện nay.
Với cách đặt vấn đề trên, tôi chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về
giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” ở Uỷ ban nhân
dân tỉnh Bắc Giang hiện nay” làm luận văn thạc sỹ luật học tại Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu:
Vấn đề nhà nước, vấn đề cải cách hành chính trong đó có thủ tục
hành chính liên quan đến thực hiện cơ chế “một cửa” đã được nhiều
lãnh tụ, các nhà khoa học ở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp
lý và quản lý hành chính, các vụ và cán bộ khoa học, lãnh đạo ở Bộ Nội
vụ nghiên cứu, trong đó đáng chú ý một số công trình nghiên cứu sau:
- Lênin toàn tập - tập 45 – Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1978.
7
Hồ Chí Minh (1995) toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
- Trần Ngọc Đường (1999), “ Chủ động cải cách bộ máy nhà nước
trong xu thế của thời đại”, nghiên cứu lý luận (3), [trang 13-15].
- Nguyễn Ngọc Hiến (2001), giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Tô Tử Hạ (1998), công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Mạnh (2000), “ Cải cách nền hành chính nhà nước,
thực trạng và giải pháp”, Lý luận chính trị (2), [trang 14-17].
- Lê Hữu Nghĩa (2000), “ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa với việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước ta hiện nay”,
Quản lý nhà nước (8), [trang 6 – 8].
- Đào Trí Úc (1995), “ Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước
và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
- Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam (2002), Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Đinh Duy Hoà (2001), Yếu tố con người trong cải cách hành
chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thâm (2000), Những nguyên nhân ảnh hưởng đến
quá trình cải cách hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hồi (2005), tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước
với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Đặng Đình Tân (2006), thể chế Đảng cầm quyền một số vấn đề
8
lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Ngoài ra còn một số bài báo trên các Tạp chí cũng đề cập đến
vấn đề cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”.
Mặc dù, Quyết định 181/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành qui chế “một cửa” nhưng cho đến nay vẫn chưa có công
trình nghiên cứu nào phân tích một cách có hệ thống và việc áp dụng
Quyết định trên ở cấp tỉnh như thế nào để có hiệu quả? sự liên thông và
phối hợp giữa các cơ quan hành chính ra sao? thực trạng và những vấn
đề phát sinh như thế nào? những vấn đề gì cần được qui định cụ thể và
không để chồng chéo? vấn đề con người trong thực hiện pháp luật theo
cơ chế “một cửa”? việc áp dụng khoa học công nghệ thông tin trong
thực hiện?. Phân tích khoa học các yếu tố trên để tìm ra các nhiệm vụ và
giải pháp khắc phục nhằm làm cho việc thực hiện pháp luật về giải quyết
thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” trở thành điểm nhấn có tính
chất đột phá trong việc đổi mới trình tự và thực hiện các thủ tục hành
chính một cách nhanh chóng, thuận lợi đúng pháp luật ở các cơ quan
hành chính cấp tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả cho việc
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; huy động mọi nguồn lực xây dựng
tỉnh, từng bước khắc phục tệ quan liêu, phiền hà, xây dựng mối quan hệ
giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với tổ chức và công dân
trên địa bàn ngày càng tốt hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, mục đích của luận
văn nhằm: nghiên cứu, đề xuất và luận chứng các giải pháp bảo đảm
thực hiện pháp luật về giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” tại các cơ quan hành chính thuộc UBND tỉnh Bắc Giang đáp
9
ứng với yêu cầu cải cách hành chính nhà nước hiện nay.
Để phù hợp với mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu những cơ sở lý luận việc thực hiện pháp luật về giải
quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” như: khái niệm thủ tục
hành chính; khái niệm pháp luật giải quyết thủ tục hành chính; khái
niệm, đặc điểm của việc thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành
chính theo cơ chế “một cửa”; yêu cầu, những nhân tố bảo đảm và vai trò
của việc thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa”.
- Đánh giá những thành tựu đã đạt được và những tồn tại trong
thực hiện pháp luật giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa” trong thời gian qua của cơ quan hành chính ở Bắc Giang.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giải quyết
thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” trong thời gian tới ở tỉnh Bắc
Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Do luận văn nghiên cứu một vấn đề tương đối cụ thể nên đối
tượng nghiên cứu của luận văn là: “Những vấn đề lý luận thực hiện pháp
luật về giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế “ một cửa”.
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính
theo cơ chế “một cửa” ở UBND tỉnh Bắc Giang.
- Những giải pháp chủ yếu để thực hiện pháp luật về giải quyết thủ
tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính là UBND
tỉnh Bắc Giang, thời gian từ năm 2003 đến nay.
10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN; nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; về
cải cách hành chính; về cơ chế “một cửa” trong giải quyết thủ tục hành
chính.
Phương pháp cụ thể được sử dụng để nghiên cứu trong luận văn là
phương pháp điều tra, khảo sát và so sánh để đánh giá thực trạng cũng
như đề ra các giải pháp một cách chính xác, khoa học. Luận văn cũng sử
dụng các phương pháp của triết học Mác - Lênin, chủ yếu là các phương
pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể
và sử dụng một số phương pháp khác của xã hội học, khoa học hệ thống.
6. Những điểm mới của luận văn:
Luận văn có những điểm mới sau:
Một là, về lý luận, luận văn tập trung phân tích đặc điểm, các yêu
cầu, nhân tố bảo đảm và vai trò của thực hiện pháp luật về giải quyết các
thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” .
Hai là, luận văn đưa ra một số biện pháp để thực hiện pháp luật
giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” đảm bảo tính pháp
lý, hiệu quả, minh bạch và sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính
nhằm loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để sách
nhiễu, gây khó khăn cho tổ chức và công dân.
Ba là, luận văn đề cập đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức tiếp nhận và giải quyết công việc có phẩm chất đạo đức tốt, thái độ
11
và tinh thần trách nhiệm cao, nghiệp vụ chuyên môn vững vàng để tham
mưu, đề xuất và thực hiện nhiệm vụ; đồng thời qui định trách nhiệm của
người có thẩm quyền và thực hiện nhiệm vụ để từ đó có hình thức khen
thưởng những tập thể và cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao; xử lý nghiêm những tập thể; người có thẩm quyền và công chức có
hành vi hách dịch, sách nhiễu, vô trách nhiệm.
Bốn là, luận văn đặt ra việc kiến nghị, đề xuất để từng bước
chuyên nghiệp hoá việc thực hiện pháp luật giải quyết thủ tục hành chính
theo cơ chế “một cửa” nhằm nâng cao hiệu quả xử lý, công khai hoá việc
xử lý trong các cơ quan hành chính.
Cả 4 nội dung trên, các văn bản của Chính phủ mới đề cập đến
nguyên tắc và phương hướng, nhưng cơ sở lý luận, vai trò của thực hiện
pháp luật giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, đồng
thời vận dụng nó như thế nào? biện pháp gì để thực hiện thì chưa đề ra đó chính là điểm mới và có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện pháp
luật giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” được đề ra
trong luận văn, hy vọng góp phần nhỏ vào cải cách hành chính ở chính
quyền tỉnh Bắc Giang.
7. Ý nghĩa của luận văn:
Ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ trực tiếp việc áp dụng và nâng
cao chất lượng thực hiện pháp luật giải quyết thủ tục hành chính theo cơ
chế “một cửa” ở cơ quan hành chính cấp tỉnh, nhất là thấy rõ những hạn
chế và giải quyết những vương mắc còn nảy sinh nhằm thực hiện tốt hơn
cơ chế “một cửa” hiện nay.
12
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
hành chính cấp huyện và xã, cho nhiệm vụ cải cách hành chính nói
chung; đồng thời góp phần xây dựng kỹ năng nghề nghiệp, ý thức trách
nhiệm của cán bộ, công chức trước yêu cầu thực hiện công cuộc cải cách
hành chính nhà nước hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3 chương
và 8 tiết.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI QUYẾT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO
CƠ CHẾ “MỘT CỬA”
1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về giải quyết thủ
tục hành chính theo cơ chế “một cửa”.
1.1.1. Khái niệm thủ tục hành chính và pháp luật về giải quyết
thủ tục hành chính.
a) Khái niệm thủ tục hành chính.
Một trong những đặc điểm cơ bản của Nhà nước là tổ chức và hoạt
động theo một trật tự pháp lý, nghĩa là pháp luật quy định về cơ cấu tổ
chức, thẩm quyền và trình tự thực hiện thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước trong việc giải quyết các quyền và
nghĩa vụ thuộc nội bộ cơ quan nhà nước với tổ chức và công dân.
Trong hoạt động của Nhà nước, có những qui tắc pháp lý qui định
về trình tự thực hiện thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong việc giải
quyết nhiệm vụ của nhà nước và công việc có liên quan đến cá nhân hay
tổ chức, bằng nhiều công việc, với nhiều qui tắc pháp lý đã hình thành
một hệ thống qui phạm thủ tục; các qui phạm thủ tục đó là những qui tắc
bắt buộc các cơ quan nhà nước cũng như cán bộ, công chức nhà nước,
các tổ chức và cá nhân phải tuân thủ thực hiện trong quá trình giải quyết
công việc thuộc chức năng của mình. Thí dụ: trong quá trình làm luật có
các qui phạm thủ tục làm hiến pháp và các luật; trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự, dân sự đều có trình tự thủ tục hay còn gọi là các
thủ tục tố tụng để giải quyết các vụ án đó. Còn trong thủ tục hành chính
được thực hiện bởi người có thẩm quyền trong quản lý hành chính nhà
nước, nhưng không phải được thực hiện tùy tiện mà thực hiện do các qui
14
phạm pháp luật của thủ tục hành chính qui định. Do đặc thù của quản lý
nhà nước là hoạt động đa dạng, phức tạp với các hình thức hoạt động
được pháp luật qui định chặt chẽ; bao gồm những hoạt động chủ động,
sáng tạo theo các định hướng, nguyên tắc pháp lý nhằm tổ chức đời sống
xã hội theo pháp luật thông qua cơ chế áp dụng qui phạm pháp luật để
đưa ra các quyết định hành chính và thực hiện các hành vi hành chính
trực tiếp, tức là các hành vi đó được thực hiện liên tục, thường xuyên
hàng ngày để giải quyết công việc nhà nước trong các lĩnh vực, trong
lãnh thổ hành chính và hoạt động cưỡng chế hành chính trong các trường
hợp do pháp luật qui định. Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về
thủ tục hành chính, nhưng có quan niệm chung nhất: đó chính là trình tự
giải quyết công việc kế tiếp nhau theo thứ tự thời gian và không gian
nhằm thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Do tính đa dạng
của quản lý hành chính nhà nước nên có rất nhiều loại thủ tục hành
chính. Tuy nhiên, các loại thủ tục đó đều có những đặc điểm chung,
được thể hiện sau đây:
Thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền trong quản lý
hành chính nhà nước. Thủ tục hành chính do pháp luật hành chính qui
định và có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Thủ tục hành chính là thủ tục viết, hoạt động quản lý hành chính
nhà nước được thực hiện chủ yếu tại văn phòng công sở nhà nước và kết
quả được thể hiện chủ yếu bằng văn bản.
Thủ tục hành chính được thực hiện bởi nhiều cơ quan và người có
thẩm quyền, các cán bộ, công chức hành chính là những chủ thể tiến
hành thủ tục hành chính theo qui định của pháp luật.
Thủ tục hành chính là thủ tục giải quyết công việc nội bộ nhà nước
và của các tổ chức, cá nhân khác nhau cho nên có nhiều loại thủ tục hành
chính khác nhau chẳng hạn: thủ tục xin cấp tiền khác với thủ tục xin cấp
15
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...
Từ những phân tích trên, có thể nêu khái niệm thủ tục hành chính
là:
Thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền của các cơ
quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân được ủy
quyền theo các qui định của pháp luật để giải quyết các công việc của
nhà nước và các kiến nghị, yêu cầu hợp pháp của công dân hoặc tổ
chức nhằm thi hành nghĩa vụ hành chính, bảo đảm công vụ nhà nước và
phục vụ nhân dân.
b) Khái niệm pháp luật giải quyết thủ tục hành chính.
Pháp luật giải quyết thủ tục hành chính là một phạm trù rộng, nó
không chỉ chứa đựng các qui phạm thủ tục hành chính mà còn chứa
đựng các yếu tố chính trị - xã hội, điều kiện, đặc điểm, lịch sử, tự nhiên
ở mỗi vùng miền nhưng đều thống nhất chung về nguyên tắc. Vì vậy,
việc đảm bảo pháp luật giải quyết thủ tục hành chính được củng cố, tăng
cường và hoàn thiện là yêu cầu khách quan trong quá trình cải cách hành
chính nhằm xây dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Nội dung của pháp luật giải quyết thủ tục hành chính bao gồm
nhiều lĩnh vực rất phong phú, trong thực hiện quyền hành pháp của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có bao nhiêu lĩnh vực thì có bấy
nhiêu loại các trình tự, các qui định để giải quyết tương ứng với các lĩnh
vực đó; do mỗi lĩnh vực, chuyên ngành đều có tính chất, đặc thù mà cần
có sự quản lý khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật giải quyết các thủ tục
hành chính cũng phải dựa theo nguyên tắc chung nhất đó là dựa trên nội
dung của các văn bản qui phạm pháp luật, nhà quản lý phải xây dựng
được hệ thống các trình tự, thủ tục đảm bảo được nội dung pháp luật qui
định, hướng các trình tự, thủ tục qui định đó vào việc quản lý hành
16
chính, có lợi cho phát triển chung và chuyên ngành. Hay nói một cách
khác là: nói đến pháp luật giải quyết thủ tục hành chính nhà nước là nói
đến những qui phạm pháp luật để đảm bảo trật tự, trình tự, thủ tục giải
quyết công việc trong thẩm quyền nhằm đảm bảo trật tự, trình tự, thủ tục
giải quyết công việc trong lĩnh vực hành pháp nhằm bảo vệ, thực hiện
các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân.
Từ những phân tích trên cho thấy, pháp luật giải quyết thủ tục
hành chính cũng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật giải quyết thủ tục hành chính do các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành, được thể hiện
dưới hình thức văn bản qui phạm pháp luật có tính chất bắt buộc đối với
các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan.
Thứ hai, pháp luật giải quyết thủ tục hành chính không có tính ổn
định, lâu bền mà phụ thuộc vào các yếu tố chính trị - xã hội và yêu cầu
của người có thẩm quyền nhằm thay đổi phương pháp, mục tiêu, đối
tượng được quản lý.
Thứ ba, pháp luật giải quyết thủ tục hành chính được thể hiện ở
nhiều cơ quan hành chính nhà nước khác nhau, có những công việc có
liên quan và được nhiều cơ quan giải quyết nên nó có đặc điểm liên
thông giữa các cơ quan trong quá trình tổ chức thực hiện.
Thứ tư, pháp luật giải quyết thủ tục hành chính được thể hiện công
khai như: công khai các loại thủ tục hành chính để nhân dân biết, đồng
thời khi thực hiện các thủ tục phải đảm bảo công khai, trừ trường hợp
pháp luật qui định phải bí mật theo qui định chung hoặc theo đề nghị
hợp pháp của các bên tham gia.
Từ những nhân tố phân tích trên, có thể hiểu: Pháp luật giải quyết
thủ tục hành chính là tổng thể các qui phạm pháp luật do cơ quan nhà
17
nước có thẩm quyền ban hành, qui định về trình tự, thủ tục, nội dung,
cách thức để giải quyết công việc hành chính nhằm thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ
chức và công dân.
Pháp luật giải quyết thủ tục hành chính đòi hỏi các cơ quan nhà
nước, tổ chức và công dân khi tham gia và thực hiện công việc của mình
phải triệt để tuân thủ theo qui định của pháp luật, đây chính là những
đảm bảo pháp lý cơ bản có tác dụng thiết thực để xây dựng nhà nước,
thực hiện và bảo vệ quyền công dân, quyền con người và đảm bảo công
bằng xã hội.
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành
chính theo cơ chế “ một cửa” .
a) Khái niệm thực hiện pháp luật.
Pháp luật là công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có
thể phát huy được vai trò và giá trị của nó khi nó được tôn trọng và thực
hiện trong cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp luật là hoạt động không thể
thiếu được kể từ khi pháp luật xuất hiện.
Thực hiện pháp luật trước hết là một trong những hình thức để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Tất cả các nhà nước để có
thể tổ chức, quản lý và điều hành xã hội đều bắt buộc phải tiến hành xây
dựng và ban hành pháp luật và bằng các biện pháp để nó được thực thi
trong đời sống xã hội. Do vậy, đối với nhà nước vấn đề quan trọng là
không chỉ có ban hành pháp luật với nhiều các qui phạm pháp luật mà
điều quan trọng hơn là phải tổ chức thật tốt để chúng được thực hiện
trong thực tế làm cho các yêu cầu, qui định của pháp luật được thực
hiện.
Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
18
Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người, nên việc
thực hiện pháp luật phải thể hiện ở hành vi pháp luật của con người; tất
cả các hoạt động nào của cá nhân, các tổ chức mà được thực hiện phù
hợp với các qui định của pháp luật thì đều được coi là biểu hiện của việc
thực hiện các qui định của pháp luật, luôn phù hợp với các qui định của
pháp luật.
Thực hiện pháp luật là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan
trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Trong quá trình thực hiện pháp
luật vừa nhằm đạt được những mục đích xã hội mà vì chúng nhà nước đã
ban hành pháp luật; mặt khác, còn cho thấy những hạn chế, khiếm
khuyết, bất cập của các qui định pháp luật cần đưa ra các giải pháp hữu
hiệu, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của xã hội và đưa pháp luật vào
cuộc sống. Thực hiện pháp luật nghiêm minh sẽ tạo ra trật tự cần thiết để
các quan hệ xã hội tồn tại và phát triển.
Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau, tiến hành dưới
nhiều cách thức khác nhau. Pháp luật bao gồm rất nhiều loại qui phạm
pháp luật khác nhau, do vậy, đối với mỗi loại qui phạm pháp luật thì
cách thức thực hiện chúng cũng khác nhau. Việc thực hiện pháp luật có
thể phụ thuộc ý chí của mỗi chủ thể, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc ý
chí của nhà nước. Hành vi thực hiện pháp luật có thể được chủ thể tiến
hành trên cơ sở nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải làm như vậy do
chủ thể tự giác thực hiện hoặc có thể thực hiện khác do ảnh hưởng hoặc
do bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước. Một số qui phạm
pháp luật về thực hiện có thể được tiến hành thông qua những qui trình
giản đơn như chủ thể pháp luật nhận thức, song cũng có nhiều qui phạm
pháp luật để thực hiện phải thông qua những qui trình hết sức phức tạp
với sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau theo một trình tự,
thủ tục chặt chẽ...
19
Do vậy, thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện
thực hoá các qui định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
b) Khái niệm thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính
theo cơ chế“một cửa” .
Mô hình “một cửa”có nơi gọi là “tập trung một đầu mối”, cho đến
nay đã được các cơ quan hành chính nhà nước áp dụng trong phạm vi cả
nước và Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 181/2003/QĐ-TTg về
việc thực hiện cơ chế “một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương. Trước yêu cầu đổi mới của đất nước, nhiều địa phương, các
cơ quan hành chính nhà nước đã thực hiện tốt qui chế “một cửa”. Vậy,
thế nào là mô hình “một cửa” - một cửa, về bản chất là việc giải quyết
công việc của cơ quan hành chính nhà nước đối với tổ chức và công dân
bao gồm từ khâu tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị; tiếp đến xử lý và trả lời
kết quả cho tổ chức và công dân thông qua một bộ phận (gọi là “một
cửa” hoặc “một đầu mối”) tại một cơ quan hành chính nhà nước. Như
vậy, có thể khái quát việc giải quyết thủ tục hành chính, theo đó, công
dân, tổ chức có nhu cầu chỉ cần đến một nơi, một đầu mối, “một cửa” để
liên hệ, đề xuất, thực hiện các yêu cầu theo qui định và nhận kết quả giải
quyết của cơ quan hành chính nhà nước mà không phải đi lại nhiều lần,
qua nhiều đầu mối “nhiều cửa” để giải quyết công việc.
Có thể khái quát bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Khi chưa thực hiện cơ chế “một cửa”.
Phòng A
Phòng B
Phòng C
20
Công dân,
tổSơ
chức
đồ 1.2:Theo cơ chế “một cửa”.
Người có
thẩm quyền
Để có kết
quả
Công dân, tổ
chức
Phòng C
Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa”, trước hết xuất phát từ hoạt động có mục đích của việc đổi
mới thực hiện các thủ tục hành chính, nó thể hiện nếu như trước kia tổ
chức và công dân phải tốn rất nhiều thời gian, Phòng
đi nhiều
nơi để giải quyết
A
công việc thì nay chỉ cần đến “một cửa” để giải quyết, đây là bước đột
Bộ tổ
phận
mộthoạt động quản lý nhà nước, bởi các cơ
phá lớn trong tư duy và
chức
Phòng B
cửa
quan hành chính nhà nước đặt cho mình vị thế khó khăn hơn trước bởi
mọi công việc của tổ chức và công dân đều được thực hiện trong nội bộ
các cơ quan nhà nước, các cơ quan này tự giải quyết và thực hiện các
yêu cầu của tổ chức và cá nhân theo qui định của pháp luật, nó hoàn toàn
trái ngược với trước kia là bộ phận cơ quan nhà nước biệt lập giải quyết
còn mặc nhiên cho các tổ chức và cá nhân tự tìm đến và tự khâu nối các
cơ quan nhà nước giải quyết công việc cho mình.
Việc thực hiện pháp luật về giải quyết các thủ tục hành chính theo
cơ chế “một cửa” thực chất còn làm thay đổi bản chất hành chính của
các cơ quan quản lý, nó chủ yếu làm dịch vụ cho tổ chức và cá nhân
(nhận hồ sơ, các yêu cầu, nhận lệ phí dịch vụ) và giải quyết khi đảm bảo
các yếu tố theo pháp luật qui định, điều đó cũng có nghĩa chuyển mạnh
từ quản lý, cho phép sang làm dịch vụ cho tổ chức và cá nhân.
21
Việc thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ
chế “một cửa” còn được qui định chặt chẽ ở qui chế, qui định cụ thể
từng loại công việc và những giấy tờ cần thiết; nó qui định rõ về quyền
và trách nhiệm của cán bộ, công chức tại bộ nhận “một cửa” cũng như tổ
chức và cá nhân khi tham gia các quan hệ pháp luật tại bộ nhận “một
cửa”. Cơ chế “một cửa” cùng với các qui định cụ thể là các qui phạm
pháp luật mang tính bắt buộc chung đối với cơ quan hành chính nhà
nước, các tổ chức và cá nhân đều phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Như vậy, thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo
cơ chế “một cửa” là hoạt động có mục đích của cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền đối với tổ chức và cá nhân trong quan hệ giải
quyết công việc hành chính nhằm thực hiện các thủ tục hành chính từ
tiếp nhận hồ sơ, yêu cầu đến trả kết quả thông qua một đầu mối, làm
cho việc thực hiện cơ chế “một cửa” đi vào cuộc sống và trở thành hành
vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm của việc thực hiện pháp luật về giải quyết thủ
tục hành chính theo cơ chế “ một cửa” .
Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” có những đặc điểm sau:
Một là, giải quyết thủ tục hành chính chỉ còn ở một đầu mối, ngay
từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước bền hành chính đã
khẳng định: “... phải cải cách một bước cơ bản các thủ tục hành chính
cả về thể chế và tổ chức thực hiện. Loại bỏ những khâu xin phép, xét
duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, ngăn chặn tệ nạn cửa quyền, sách
nhiễu, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật. Lập lại trật tự trong việc
ban hành các thủ tục hành chính; đồng thời qui định phạm vi giao quyền
22
cho cấp tỉnh, thành phố được ban hành một số loại thủ tục mang tính
đặc thù của địa phương”. Mục tiêu của việc thực hiện nội dung của Nghị
quyết nêu trên là giải quyết công việc của tổ chức và cá nhân thuộc thẩm
quyền của cơ quan hành chính nhà nước chỉ thông qua một đầu mối tại
cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời đạt được sự chuyển biến căn
bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa cơ quan hành
chính nhà nước với tổ chức và công dân, giảm phiền hà cho tổ chức và
công dân, chống tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền của cán bộ, công
chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Từ yêu cầu, mục
tiêu nêu trên và từ đòi hỏi của cuộc sống của cơ chế “một cửa” đã ra đời
cách thức giải quyết công việc của dân, sự thay đổi cơ bản là từ nhiều
đầu mối, rút lại chỉ còn một đầu mối.
Hai là, đặc điểm của chủ thể pháp luật về giải quyết thủ tục hành
chính theo cơ chế “một cửa” đã được thể hiện rõ trong Điều 2, Điều 6,
Điều 7 của Qui chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương kèm theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày
24/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định rõ chủ thể thực hiện
pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” là:
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (các sở, ban, ngành, văn
phòng HĐND, UBND tỉnh); UBND quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh;
UBND xã phường, thị trấn... Và cụ thể người có thẩm quyền là Chủ tịch
UBND tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương; thủ trưởng các cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh; chủ tịch UBND các huyện, quận, thành phố và chủ
tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn giữ vai trò là chủ thể thực hiện pháp
luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” .
Ba là, đặc điểm về hình thức thực hiện, một đặc điểm khác của
thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa” đó chính là hình thức thực hiện; hình thức thực hiện này đã được
23
cải tiến hơn nhiều so với trước: Trước cải tiến, để xin cấp phép xây dựng
nhà - tổ chức và cá nhân phải đến nhiều nơi như: phòng tài nguyên môi
trường làm thủ tục về đất; phòng quản lý đô thị để xin cấp phép thiết kế;
công ty điện, nước xin cấp điện, nước; kho bạc để nộp tiền lệ phí thì nay
chỉ cần đến “một cửa” là xong các thủ tục nêu trên, do đó tổ chức và
công dân đỡ mất công đi lại, tiết kiệm được thời gian. Từ hình thức trên,
có một hình thức khác được tiếp tục thực hiện từ “một cửa” đó là sử
dụng giấy phép và mẫu đơn liên kết, trước cải tiến do nhiều cơ quan,
ban, ngành giải quyết riêng rẽ do đó qui định nhiều loại giấy phép, mẫu
đơn khác nhau, nay do có một đầu mối lo việc chung nên cơ quan hành
chính hoặc bộ nhận “một cửa” sử dụng giấy phép, mẫu đơn liên kết,
chính vì vậy đã giảm được thủ tục, giấy tờ và giảm phiền hà, thời gian
cho tổ chức và công dân khi thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa”. Hình thức thực hiện có thể được mở
rộng, trở nên phong phú, đa dạng như: tổ chức chi nhánh và dịch vụ di
động với mục đích là không chỉ giải quyết việc của dân ở trụ sở cơ quan
hành chính, mà nếu cần thì mở rộng chi nhánh hoặc dịch vụ di động.
Hình thức khác là mở thời gian thực hiện: do có một bộ phận dân cư gặp
khó khăn trong việc đến “một cửa” trong giờ hành chính vì họ phải đi
làm, cơ quan hành chính có thể mở rộng thời gian phục vụ như mở cửa
sớm (một tiếng), đóng cửa muộn, tổ chức làm thêm ngày thứ bẩy... qua
đó để phục vụ nhân dân tốt hơn.
Bốn là, đặc điểm về qui trình giải quyết thủ tục hành chính, trong
thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa” có đặc điểm về qui trình giải quyết thủ tục hành chính là đơn giản
và qui định rõ việc thực hiện theo chu trình khép kín gồm 5 bước cụ thể
sau:
Bước1, tổ chức, công dân có yêu cầu liên hệ với bộ phận “một
24
cửa”.
Bước 2, bộ phận “một cửa” kiểm tra hồ sơ, yêu cầu, hẹn trả lời,
hoàn thiện hồ sơ.
Bước 3, chuyển bộ phận chức năng xem xét giải quyết.
Bước 4, trình lãnh đạo ký chuyển đến bộ phận “một cửa”.
Bước 5, bộ phận “một cửa” trả lại cho tổ chức và công dân.
Nhìn vào qui trình trên, cho thấy chủ yếu công việc được diễn ra ở
các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền, hay nói cách
khác việc thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ
chế “một cửa” diễn ra trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước, do
vậy, các cơ quan quyền lực công đã tự chuyển hoá từ cho phép, từ quản
lý như trước kia chuyển sang xu hướng làm dịch vụ. Đây cũng là đặc
điểm rõ nét về qui trình và trình tự giải quyết thủ tục hành chính cho tổ
chức và công dân.
1.2. Yêu cầu và những điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật
về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”.
1.2.1. Những yêu cầu đối với việc thực hiện pháp luật về giải
quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”.
a) Các qui định trình tự, thủ tục thực hiện pháp luật về giải quyết
thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” phải rõ ràng, cụ thể và phải
niêm yết công khai.
Trong thực hiện các thủ tục hành chính theo pháp luật đều được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền qui định những trình tự, thủ tục bắt buộc
mọi tổ chức và công dân tuân thủ theo và cũng chính qui định như vậy
mới xác định được quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm giữa cơ quan nhà
nước là chủ thể pháp luật giải quyết các công việc hành chính mà mình
yêu cầu.Vậy, các trình tự, thủ tục và của cơ chế “một cửa” là gì ? Tại
25
sao lại phải rõ ràng cụ thể ? Nó bao gồm những nội dung gì ? Theo
nguyên tắc nào ?
Trước hết, thủ tục hành chính phải đơn giản, rõ ràng, đúng pháp
luật: Có nghĩa là thủ tục đó không được qui định phức tạp, phải dùng
nhiều tài liệu, giấy tờ chứng minh. Đây cũng chính là quan điểm mọi tổ
chức và cá nhân đều có quyền làm những việc gì mà pháp luật không
cấm, nó phù hợp với nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta nhằm giải phóng sức sản xuất, huyđộng mọi nguồn lực
để phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, với các thủ tục phải rõ ràng có
nghĩa là những yêu cầu gì ? điều kiện, giấy tờ, chứng thực nào để cơ
quan hành chính nhà nước giải quyết, nếu không qui định được rõ ràng
rất dễ dẫn đến việc làm tùy tiện hoặc thiếu thống nhất ở khâu giải quyết
“một cửa”. Mặt khác, các thủ tục hành chính được qui định lại phải đúng
pháp luật, đây là điểm quan trọng trong giải quyết “một cửa” ở cơ quan
hành chính nhằm tuân thủ pháp luật, đảm bảo cho pháp chế XHCN được
thực hiện có hiệu lực ở tất cả các cơ quan hành chính nhà nước.
Nguyên tắc thứ hai là khi thực hiện cơ chế “một cửa” giải quyết
các công việc cho dân và tổ chức phải công khai các thủ tục hành chính,
phí, lệ phí và thời gian giải quyết công việc. Trong thực tế, khi giải
quyết các thủ tục hành chính đây là khâu dễ nảy sinh tiêu cực nhất. Nếu
không có qui định công khai các nội dung trên thì sẽ rất dễ dẫn tới các
hành vi sách nhiễu, gây khó khăn cho đối tượng, nếu công khai các thủ
tục hành chính, phí, lệ phí và thời gian giải quyết thì đã tạo điều kiện cho
mọi tổ chức và công dân vừa là đối tượng được giải quyết vừa là người
giám sát hoạt động của cơ chế “một cửa”. Chìa khóa công khai, minh
bạch này đã bắt buộc chủ thể và khách thể khi thực hiện thủ tục hành
chính phải làm đúng trách nhiệm của mình, tránh được phiền hà và các
tiêu cực khác trong giải quyết công việc hành chính.