TÔN GIÁO VÀ VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
Ở VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. XUNG QUANH VẤN ĐỀ TÔN GIÁO:
1. Tín ngưỡng, tâm linh, tôn giáo và mê tín dị đoan:
Tín ngưỡng, tâm linh, tôn giáo là những hiện tượng xã hội có tính phổ
biến, gắn liền với đời sống của con người và xã hội loài người từ hàng ngàn năm
nay.
* Tín ngưỡng:
Trong cuộc sống hằng ngày, con người ta ai cũng có niềm tin (croyance).
Nếu niềm tin được đặt vào cái siêu nhiên (le surnaturel) vượt ra khỏi thế giới tự
nhiên bình thường thì niềm tin ấy được gọi là “Tín ngưỡng”. Các tôn giáo gọi là
“đức tin” (la foi), tức là niềm tin vào cái thiêng liêng (le sacré), cái siêu việt (le
transcendantal).
Thông thường, thuật ngữ “tín ngưỡng” bao gồm cả tín ngưỡng tôn giáo và
tín ngưỡng dân gian:
Tín ngưỡng dân gian là niềm tin vào thần linh thông qua các lễ nghi mang
tính đơn giản, thường gắn liền với tập tục, thói quen truyền thống; nó là bộ phận
của văn hoá dân gian, phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và
cộng đồng.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên theo những
nguyên tắc thực hành tôn giáo nhất định. Với nghĩa này, thì tín ngưỡng là gốc
của tôn giáo. Mỗi tôn giáo lại có tín ngưỡng riêng, tuy nhiên mọi tôn giáo đều đề
cập đến “thế giới bên kia” - một thế giới tâm linh mà các đấng giáo chủ đã từng
mạc khải (reveltion).
2
* Tâm linh:
Với thuật ngữ “Tâm linh”, thì giới khoa học ở các nước khác trên thế giới
ít sử dụng, nội hàm của thuật ngữ này hoàn toàn chưa rõ; tuy nhiên thuật ngữ này
ở nước ta được dùng khá phổ biến trong dân gian. Bước đầu có thể hiểu “Tâm
linh” là những trạng thái tâm thức tôn giáo; hoặc có khi được hiểu là ý tưởng của
người sống nhớ tới người đã khuất, “uống nước, nhớ nguồn”…
* Tôn giáo:
Trước đây, người ta thường dùng lẫn lộn giữa tín ngưỡng và tôn giáo. Thật
ra thì tôn giáo có hai nghĩa:
Nếu xét về mặt ý thức, thì tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội (nằm
trong kiến trúc thượng tầng), được xây dựng trên một tín ngưỡng nhất định. Hơn
thế nữa, tôn giáo còn là một hiện tượng xã hội.
Nếu xét về mặt tổ chức, thì tôn giáo là một cộng đồng xã hội được thiết
chế theo một hệ thống nhất định về giáo lý, giáo luật, giáo lễ, giáo hội.
* Hoạt động mê tín, dị đoan:
Đây là cụm từ bao gồm mê tín và dị đoan. Trước hết phải kể đến là bói
toán, đồng bóng, đây là những hình thức mê tín dị đoan thường thấy nhất. “Mê”:
có nghĩa là không tỉnh, nhầm lẫn, mơ hồ. Ví dụ: tin một người lấy dầu hoả đốt,
nhưng lại khoe rằng mình có pháp thuật đốt cháy được nước; tin vào những giải
thích không tri thức khoa học như động đất thì cho là rồng chạy bên dưới, sấm
sét chớp loè thì bảo là thiên lôi giáng búa…
Điều đáng quan tâm hơn ở đây là “Dị đoan”: những điều khác với giáo lý
chính thức của các tôn giáo.
3
Mê tín dị đoan cũng được hiểu là: Người theo tôn giáo này nói về tôn giáo
khác: Tôn giáo của mình thì mình coi là tôn giáo chân chính, còn tôn giáo khác
thì bị xem như là sai lầm, tà nguỵ…
Tóm lại: Mê tín là niềm tin mù quáng vào các lực lượng siêu nhiên như
thần thánh, ma quỷ… không dựa trên cơ sở thế giới quan khoa học, do đó mang
tính mê muội, thần bí. Dị đoan là mê tín ở mức độ cuồng tín, mất lý trí.
Như vậy, hoạt động mê tín dị đoan là những hoạt động phản khoa học,
nhân danh tôn giáo nhưng không phải vì mục đích tôn giáo, gây tác hại nghiêm
trọng cho xã hội, cho nhân dân, như vậy bài trừ mê tín dị đoan cũng là một cách
bảo vệ cho tôn giáo thực sự được chân chính mà thôi.
2. Về tôn giáo:
* Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tôn giáo:
- Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977 định nghĩa:
“Tôn giáo là sự công nhận một sức mạnh coi là thiêng liêng quyết định
một hệ thống ý nghĩ và tư tưởng của con người về số phận của mình trong và
sau cuộc đời hiện tại, do đó quyết định phần nào hệ thống đạo đức, đồng thời
thể hiện bằng những tập quán lễ nghi tỏ thái độ tin tưởng và tôn sùng sức mạnh
đó”.
- Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển và ngôn ngữ, Hà Nội, 1992
định nghĩa tôn giáo là:
“1. Hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và
sùng bài những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự
nhiên quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ.
2. Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một hay những vị thần linh nào
đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái đó”.
4
- Paden, William, Tiến sĩ, Giáo sư Đại học Vermont, viết:
“Tôn giáo là sự cam kết thiêng liêng với một cái gì đó được tin là một
thực tại thần linh. Trong mọi nền văn hóa, con người thực hành sự tương tác với
cái được coi là những lực lượng thần linh. Những lực lượng này có thể có hình
thức là thần thánh, linh hồn, tổ tiên, hay bất cứ một thực tại thiêng liêng mà con
người cho là có liên quan đến họ. Đôi khi lực lượng thần linh này được hiểu
một cách rộng rãi như là một thực tại bao trùm (Phiếm thần luận), đôi khi lực
lượng này được tiếp cận thông qua sự biểu hiện ở những vật tượng trưng đặc
biệt. Nó có thể được xem như tồn tại ở bên ngoài cái tôi, hoặc ở bên trong hoặc
cả hai. Người ta tương tác với một tồn tại như vậy với một cách thức thiêng
liêng- nghĩa là, với sự sùng kính và cẩn trọng” (Encarta Encyclopedia, Microsoft
Corp, 2001).
Những định nghĩa trên đây đều đúng nhưng chưa đầy đủ. Những định
nghĩa trên mới nêu lên hai yếu tố: 1) niềm tin (hay sự thừa nhận) một lực lượng
thần bí, siêu tự nhiên; 2) nghi thức thể hiện sự tôn sùng và thực hành sự tương
tác giữa con người với lực lượng thần bí đó.
- C. Mác viết:
“Tôn giáo là thế giới quan lộn ngược”,
“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực,
vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy.
Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần.
Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Theo Mác:
5
Căn cứ của sự phê phán chống tôn giáo là: con người sáng tạo ra tôn giáo,
chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người.
Cụ thể là: tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa
tìm thấy bản thân mình hoặc đã lại đánh mất bản thân mình một lần nữa.
Nhưng con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở
ngoài thế giới.
Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội.
Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược,
vì chính bản thân chúng là thế giới quan lộn ngược.
Tôn giáo là lý luận chung của thế giới ấy, là cương yếu bách khoa của nó,
là lô gích của nó dưới hình thức phổ cập, là point d’honneur duy linh luận của
nó, là nhiệt tình của nó, là sự chuẩn y về mặt đạo đức của nó, là sự bổ sung trang
nghiêm của nó, là căn cứ phổ biến mà nó dựa vào để an ủi và biện hộ.
Tôn giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực ảo tưởng vì bản
chất con người không có tính hiện thực thật sự. Do đó, đấu tranh chống tôn giáo
là gián tiếp đấu tranh chống cái thế giới mà lạc thú tinh thần của nó là tôn giáo.
Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực,
vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy.
Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
Xóa bỏ tôn giáo, với tính cách là xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân
dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân.
Yêu cầu từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình cũng là yêu cầu từ
bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo tưởng.
6
Do đó, việc phê phán tôn giáo là hình thức manh nha của sự phê phán
cuộc sống khổ ải, mà tôn giáo là vòng hào quang thần thánh của nó.
Sự phê phán đã vứt bỏ khỏi những xiềng xích các bông hoa giả trang điểm
cho chúng, không phải là để loài người cứ tiếp tục mang những xiềng xích ấy
dưói cái hình thức chẳng vui thích và thú vị gì, mà để loài người vứt bỏ chúng đi
và giơ tay hái lấy những bông hoa thật.
Việc phê phán tôn giáo đang làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để
con người suy nghĩ, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình, với tư cách là
con người thoát khỏi ảo tưởng, trở nên có lý tính; để con người xoay quanh bản
thân mình và cái mặt trời thật sự của mình.
Tôn giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng xoay quanh con người chừng nào con
người chưa bắt đầu xoay quanh bản thân mình.
Tóm lại, nói đến tôn giáo dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều phải đụng
chạm đến vấn đề hai thế giới: Thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế
giới của người sống và thế giới sau khi chết - thế giới của các vật thể vô hình.
Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng; được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách
siêu thực (hay hư ảo) với con người, nhằm lý giải những điều trên trần thế cũng
như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào
những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý, văn hoá khác nhau, phụ thuộc vào nội
dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo
khác nhau của từng cộng đồng xã hội / tôn giáo khác nhau (Đặng Nghiêm Vạn).
* Bản chất, nguồn gốc tôn giáo:
Tôn giáo là hệ thống những quan điểm tín ngưỡng, sùng bái một hay
nhiều vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy.
7
Chủ nghĩa Mác Lê nin cho rằng, về bản chất, tôn giáo chỉ là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Trong tác phẩm "Chống Đuy-rinh", Ph.Ăng
ghen đã viết: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
trong đầu óc con người của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống
hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những thế lực trần thế đã mang
hình thức những lực lượng siêu trần thế".
Như vậy, về mặt bản chất, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản
ánh hư ảo thực tại xã hội bằng những lực lượng siêu nhiên nào đó. Về mặt hình
thức biểu hiện, một tôn giáo bao gồm hệ thống các quan niệm tín ngưỡng (giáo
lý) các quy định về hình thức lễ nghi (giáo luật) và những cơ sở vật chất để
thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
Tôn giáo có 3 nguồn gốc tôn giáo sau:
+ Nguồn gốc kinh tế - xã hội:
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp
kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí
ẩn. Vì vậy, họ đã gián cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần
thánh hoá những sức mạnh đó.
Khi xã hội xuất hiện giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối
trước sức mạnh của tự nhiện, con người lại cảm thấy bất lực trước sức mạnh tự
phát của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc sự phân hoá giai cấp và xã
hội, của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người lại ảo tưởng vào thế giới
sự bần cùng về kinh tế, áp lực về chính trị, nổi thất vọng, bất lực trước những
bất công xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
+ Nguồn gốc nhận thức:
8
Sự lúng túng, nảy sinh từ tình trạng hạn chế trong trình độ nhận thức của
con người, đã dẫn tới sự thừa nhận tồn tại của linh hồn sau khi thể xác chết đi.
Ở giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ khám phá những
điều chưa biết. Song khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn luôn tồn tại. Điều
gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức
của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế
giới khách quan, khái quát hoá thành các khái niệm, quy luật. Nhưng càng khái
quát hoá, trừu tượng hoá, thì sự vật hiện tượng được con người nhận thức càng
có khả năng xa rời hiện thực và phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị
tuyệt đối hoá, cường điệu hoá của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách
quan, mất dần cơ sở hiện thực để trở thành siêu nhiên thần thánh.
+ Nguồn gốc tâm lý:
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "Sự sợ hãi sinh ra thần
linh". V.l.Lê nin tán thành và phân tích thêm "sợ hãi trước thế lực mù quáng
của tư bản, sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt
vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo
hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội, những
tình cảm tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu trong quan hệ giữ
con người với tự nhiên và con người với con người cũng được thể hiện qua tín
ngưỡng tôn giáo.
Tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu của một bộ phận nhân dân, góp
phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, xoa dịu lúc sa cơ, lỡ vận. Vì thế
9
tôn giáo dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, song người ta vẫn viện dẫn đến nó, vẫn bám
rúc vào nó. Đúng như Các Mác nói về tôn giáo: "là trái tim của thế giới không
có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không có
tinh thần".
* Các hình thức tôn giáo trong lịch sử:
- Tôn giáo trong xã hội chưa có giai cấp là tôn giáo mang hình thức
nguyên thuỷ, sơ khai, thể hiện niềm tin bản năng của con người, không gắn liền
với những lợi ích kinh tế, xã hội. Hình thức nguyên thuỷ của tôn giáo phổ biến
là: Tô tem giáo, Ma thuật giáo, Bái vật giáo, Vật linh giáo.
- Tôn giáo trong xã hội có giai cấp: Từ khi xã hội phân chia thành giai
cấp nhà nước, các quốc gia và vùng lãnh thổ riêng, giai cấp bóc lột thống trị
thường lợi dụng tôn giáo để duy trì sự thống trị của mình, áp bức, bóc lột quần
chúng. Đối với bên ngoài, chúng lợi dụng tôn giáo, núp dưới danh nghĩa tôn
giáo để thể hiện sự bành trướng, xâm lược. Vì vậy, tôn giáo trong xã hội có giai
cấp thường gắn với chính trị và bị dân tộc hoá, xuất hiện tôn giáo thế giới và
tôn giáo dân tộc.
Đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia dân tộc của nó. Các
vị thần được tạo lập mang tính quốc gia dân tộc và quyền lực giới hạn trong
phạm vi quốc gia. Một số tôn giáo thế giới lớn cũng được dân tộc hoá ở mỗi
quốc gia, thành tôn giáo có tính chất quốc gia, như Anh giáo hoặc các dòng
khác nhau của Hồi giáo.
Khác với tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế giới có tính chất đa quốc gia, ảnh
hưởng đến nhiều khu vực rộng lớn trên thế giới như Thiên chúa giáo, Hồi giáo.
* Tính chất chung của tôn giáo:
+ Tính lịch sử:
10
Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài nhưng nó chỉ là một phạm trù lịch sử.
Tôn giáo không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người. Con người
sáng tạo ra tôn giáo. Tôn giáo tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức
độ nhất định. Là sản phẩm của lịch sử, tôn giáo trong từng thời kỳ có sự biến
đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Cải cách tôn
giáo của Thiên chúa giáo ở thế kỷ XVI là một thí dụ. Đến một giai đoạn lịch sử,
khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp
cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất của các hiện tượng
tự nhiên và xã hội, tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã
hội và trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
+ Tính quần chúng: Thể hiện ở số lượng tín đồ các tôn giáo chiếm tỷ lệ
cao trong dân số thế giới. Nếu chỉ tính các tôn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2
dân số thế giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo.
+ Tính chính trị: Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã
phân chia giai cấp, có sự khác nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống trị
lợi dụng tôn giáo phục vụ cho mục đích của mình.
Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại, như các cuộc
thập tự chinh thời trung cổ ở châu Âu hay xung đột tôn giáo ở bán đảo Ban
Căng, ở Pakixtan, Ấn Độ, Angiêri, Bắc Ai len, Bắc Capcaz (thuộc Nga)... đều
xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong xã hội, lợi dụng tôn
giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
Chỉ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo mới độc lập với chính trị.
Nhà nước thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, sinh hoạt tôn giáo mang tính tôn
giáo thuần tuý không gắn liền với chính trị. Chính sách tôn giáo của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa đã loại bỏ hoàn toàn tính chất chính trị của tôn giáo.
11
+ Tính chất phản khoa học: Tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới thực tại
bằng các lực lượng siêu nhiên vào đầu óc con người, giải thích một cách duy
tâm, thần bí những thực tại xã hội mà con người đang gặp phải. Vì vậy, tôn
giáo mang tính chất duy tâm, phản khoa học.
Trong thời đại cách mạng công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay,
tôn giáo có sử dụng những thành tựu của khoa học để phát triển tôn giáo, đồng
thời vẫn tìm cách giải thích sai lệch những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, gieo vào
đầu óc con người những định mệnh không thể cưỡng lại... Tính chất phản khoa
học của tôn giáo đã kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội.
II. VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
1. Về tình hình tôn giáo:
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội và là một hiện tượng xã hội, ra đời và
phát triển từ hàng ngàn năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh
hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức,
lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí
địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm
nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng,
tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như
thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng
đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp
12
lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ
(còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên
việc Lão giáo, Nho giáo - những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập;
Công giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo và sau này
đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo thu
hút người theo đạo là điều dễ hiểu.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật
giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên
chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật
giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và
tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã
phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá
trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang
hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu
hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội,
Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng,
Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng,
Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ...
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong
đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải
Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Bình
13
Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, thành
phố Cần Thơ...
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ
như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang,
Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang.. .
- Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh
Long.
- Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng,
Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai,
Đắk Nông, Bình Phước... và một số tỉnh phía Bắc.
- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ
Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận...
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số
nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo,
hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái tin lành.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta
thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hoá, sự
đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hoá Việt
Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó là những khó khăn đặt ra trong việc
thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn
giáo giáo cụ thể.
Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo.
Đến tháng 12/2005, Ngoài dân tộc Kinh, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với
14
khoảng trên 10 triệu người, sống tập trung ở ba khu vực chính là Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số sinh sống
với khoảng trên 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 46 dân tộc thiểu số cư trú
với gần 2 triệu người, kể cả các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc vào
Tây Nguyên sinh sống làm cho thành phần các dân tộc ở đây càng thêm đa dạng;
Khu vực Nam Bộ nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với ba dân tộc:
Khơme, Hoa và Chăm với số dân khoảng trên 1 triệu.
Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba
khu vực nói trên có những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa
dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy thờ đa thần
với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo phong tục tập quán truyền
thống. Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập vào những vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn giáo, cụ thể:
- Cộng đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có
1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào Khơme.
- Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100 nghìn người
Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (gọi là Chăm Ixlam) là
25.703 tín đồ, Hồi giáo không chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ. Ngoài
ra còn có hơn 30 nghìn người theo đạo Bàlamôn (Bà Chăm). Hồi giáo chính thức
truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi giáo đã góp
phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập
quán, văn hóa của người Chăm.
- Toàn vùng Tây Nguyên hiện nay có 4 tôn giáo chính: Công giáo, Phật
giáo, Tin lành và Cao đài, với tổng số 1.582.617 tín đồ (chiếm 33,6% dân số),
15
trong đó có hơn 500.500 tín đồ là người dân tộc thiểu số. Tín đồ người dân tộc
thiểu số chủ yếu theo đạo Công giáo và Tin lành. Trong đó:
Công giáo: 704.202 tín đồ, trong đó tín đồ là người dân tộc thiểu số là
233.911 (chiếm 21,08%); Phật giáo 557.590 tín đồ, tín đồ người dân tộc thiểu số
là 13.083; Tin lành có 12 hệ phái với 301.149 tín đồ, trong đó có 282.799 tín đồ
là người dân tộc thiểu số (chiếm 93,53%); Cao đài có 5 hệ phái, với 19.676 tín
đồ (không có tín đồ người dân tộc thiểu số).
Hiện nay, toàn vùng có 283.611 tín đồ hệ phái Tin lành Việt Nam (miền
Nam), chiếm 91,94% tổng số tín đồ Tin lành toàn vùng, có 100.527 tín đồ chính
thức (đã bắp tem). Có 4 tỉnh, trừ Kon Tum công nhận 25 chi hội với 37.018 tín
đồ, chiếm 14,07% tổng số tín đồ Tin lành Việt Nam (miền Nam) và 12,93% số
tín đồ Tin lành của toàn vùng. Gia Lai có 38 chi hội với 69.355 người, đã công
nhận 11 chi hội với 15.946 người (chiếm 22,99%). Dak Lak tổng số tín đồ
105.486 người, đã công nhận 4 chi hội với 7.330 người (chiếm 0,7%). Tỉnh Dak
Nông tổng số tín đồ 27.051 người, đã công nhận 1 chi hội với 982 người (chiếm
3,63). Lâm Đồng tổng số tín đồ 60.529 người, đã công nhận 9 chi hội với 13.643
người (chiếm 22,54%).
Những năm qua, số lượng tín đồ tăng cao, trong đó, tín đồ người dân tộc
thiểu số tăng khá nhanh trong cộng đồng Công giáo và chiếm tỷ lệ tuyệt đối
trong cộng đồng đạo Tin lành. Một số điểm đáng lưu ý là người dân tộc thiểu số
bản địa chiếm 83% tổng số tín đồ người dân tộc thiểu số nói chung. Đây cũng là
mục tiêu truyền giáo của các giáo hội Kitô giáo ở Tây Nguyên.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc biệt,
khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo đạo Tin lành
16
dưới tên gọi Vàng Chứ và khoảng 15 nghìn người Dao theo đạo Tin lành dưới
tên gọi Thìn Hùng.
Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân.
Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 8085%, của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là
người lao động, người nông dân, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù trong
lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ
các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng to lớn
của dân tộc.
Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có nhu cầu cao trong sinh họat tôn giáo,
nhất là những sinh họat tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Một bộ phận
tín đồ của một số tôn giáo vẫn còn mê tín dị đoan, thậm chí cuồng tín dễ bị các
phần tử thù địch lôi kéo, lợi dụng.
Ngày nay, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài đang thực hiện
chiến lược diễn biến hòa bình để chống phá cách mạng nước Việt Nam. Trong
chiến lược này, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề tôn giáo.
Vấn đề tôn giáo được chúng gắn với vấn đề dân chủ nhân quyền và được thực
hiện qua nhiều thủ đoạn.
Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam có
thể thấy phần nào bức tranh toàn cảnh về tôn giáo ở Việt Nam. Đó cũng chính là
cơ sở thực tiễn để Đảng và Nhà nước họach định chủ trương, chính sách đối với
tôn giáo ở tầm vĩ mô.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo
quan điểm mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam
17
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận khoa học giúp Người đánh giá đúng thực tiễn
cách mạng Việt Nam nói chung, tình hình tôn giáo nói riêng. Tư tưởng này được
thể hiện tập trung ở quan điểm về chính sách tôn giáo - Một vấn đề rất quan
trọng trong việc chuyển hoá quan điểm, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc
sống. Chính sách tôn giáo phù hợp có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu
quả công tác tôn giáo.
Xuất phát từ nhận thức rõ đặc điểm văn hoá Việt Nam
Chính sách tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở
nhận thức rõ đặc điểm văn hoá Việt Nam. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa
tôn giáo, các tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có lịch sử hình thành, phát triển và
có đặc điểm riêng, với xu hướng hoà đồng, tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau.
Ở Việt Nam không có xung đột, chiến tranh tôn giáo. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo nên
hệ giá trị truyền thống vô cùng quý báu, trong đó yêu nước là giá trị hàng đầu.
Trong lịch sử dân tộc đã từng có sự đồng điệu giữa đức tin tôn giáo và lòng yêu
nước, Trần Nhân Tôn vừa là ông vua yêu nước có công lãnh đạo quân dân ta hai
lần đánh thắng quân Nguyên, vừa là nhà thiền học tiêu biểu của thiền phái Trúc
Lâm. Sự đồng điệu ấy đã góp phần to lớn tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
trong suốt cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước. Kế thừa truyền thống ấy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không có
gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Một người dù theo tôn giáo
nào thì trước hết người đó phải là công dân, có nghĩa vụ với dân tộc, đất nước.
18
Như vậy, đặc điểm văn hoá dân tộc nói chung, truyền thống yêu nước nói
riêng là cơ sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo.
Nhất quán, lâu dài, thực sự tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo; mềm dẻo, khéo
léo nhưng cương quyết trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo
Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo là nhằm xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính sách tôn giáo theo tư tưởng của Người,
thể hiện tính nhất quán, lâu dài, thực sự tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo; thái độ
mềm dẻo, khéo léo trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo. Trong “Tám điều
mệnh lệnh” của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ghi rõ: Chính phủ, quân
đội và đoàn thể phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng
bào.
Ngày 5/4/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 điều nên và không nên
làm, trong đó ghi: “Không nên xúc phạm đến tín ngưỡng, phong tục của dân”.
Chính cương của mặt trận Liên Việt ở điểm 1, điều 7 có ghi: “Tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng cho mọi người”. Sắc lệnh 234/SL do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký ngày14.6.1955 đã thể hiện rõ tính nhất quán lâu dài của chính
sách tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Kế thừa quan điểm mácxít về tôn giáo trong việc xử lý các vấn đề tôn giáo
rằng “tuyên chiến ầm ĩ… với tôn giáo là dại dột”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có
thái độ mềm dẻo, biện pháp khôn khéo, hợp tình hợp lý trong việc giải quyết các
vấn đề tôn giáo ở nước ta.
Về nguyên tắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi các tổ chức tôn giáo phải
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, theo quy định tại điều 14 (chương IV) Sắc
lệnh về tôn giáo số 234 do Người ký: “Các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ theo
19
pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, như mọi tổ chức khác của nhân
dân”. Trên cơ sở nguyên tắc ấy, các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa các tôn
giáo, quan hệ giữa người theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa tôn giáo với chính
quyền… đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xử lý thành công đến mức hoàn hảo.
Người phân định rạch ròi thái độ, cách thức ứng xử theo các mức độ khác nhau,
như đối với chủ nghĩa thực dân và các thế lực tôn giáo phản động cấu kết với
nhau, đó là đấu tranh chống kẻ địch; còn đối với đồng bào tôn giáo làm sai chính
sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước là đấu tranh trong nội bộ nhân dân. Một điển
hình về xử lý những xung đột, mâu thuẫn, rắc rối xảy ra sau Cách mạng tháng
Tám của Người là đối với bọn phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng một số sai sót
của chính quyền Cách mạng ở một vài nơi nhằm kích động một bộ phận trong
đồng bào chưa giác ngộ ở các vùng công giáo Bùi Chu, Phát Diệm. Vụ việc liên
quan đến tôn giáo phức tạp đến mức khiêu khích giết cố đạo, thủ tiêu cán bộ Việt
Minh, lôi kéo tín đồ hành lễ liên miên, bỏ cả sản xuất… Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã theo dõi tình hình một cách thường xuyên và chỉ đạo giải quyết rất kịp thời.
Phương pháp của Người là kiên trì, nhẫn nại, chân tình. Nếu đã hết sức kiên trì
mà không đạt kết quả thì Người rất kiên quyết, rất nghiêm khắc: “Trong hiến
pháp nước ta đã định rõ quyền tự do tín ngưỡng, kẻ nào vi phạm Hiến pháp và
khiêu khích bà con Công giáo sẽ bị xử lý”. Như vậy phương pháp giải quyết vấn
đề tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để giải toả hiểu lầm, tăng cường đoàn
kết nhân dân. Muốn vậy phải tỉnh táo phân biệt rõ bạn, thù để có cách ứng xử
phù hợp.
Đoàn kết tôn giáo thực hiện sự nghiệp cách mạng
20
Trên cơ sở tư tưởng về chính sách tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
ra những quan điểm, giải pháp đúng đắn để thực hiện thành công vấn đề đoàn kết
các tôn giáo mà trọng tâm là đoàn kết Lương - Giáo.
Đoàn kết là một nội dung cơ bản, bao trùm, có ý nghĩa quyết định thành
công của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đối với tôn giáo thì sự chân tình và
bền vững như là một điều kiện tiên quyết để thực hiện đoàn kết. Người nhấn
mạnh rằng: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài. Đoàn kết là
một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân
thì ta đoàn kết với họ”. Đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng trong
chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, Người đã tìm ra cơ sở khoa học, đó là sự
tương đồng giữa các tôn giáo, thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, các tôn giáo chân chính xét đến cùng đều có hy vọng giải thoát
con người, mong muốn con người được sung sướng tự do, hạnh phúc. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: "Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha", "Đức Giê
su hy sinh là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc"... “Khổng Tử sinh ra
cũng là để giúp con người sống nhân nghĩa vì một thế giới đại đồng”.
- Thứ hai, tín đồ các tôn giáo căn bản đều là những người lao động bị chế
độ cũ áp bức bóc lột. Họ đều là những người yêu nước thực sự, do vậy họ là lực
lượng của cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân với
tư cách là chủ thể của cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh sự tương đồng giữa các tôn
giáo mà còn tìm ra sự tương đồng giữa các tôn giáo với chủ nghĩa Mác - Lênin,
21
chủ nghĩa xã hội. Người coi tôn giáo như là nơi gửi gắm nguyện vọng thiết tha
của một bộ phận quần chúng lao động mong chờ sự giải thoát khỏi áp bức, bất
công, nghèo khổ, từ đó cổ vũ họ tham gia kháng chiến, kiến quốc. Đối với các
chức sắc tôn giáo, Người luôn động viên, khơi dậy lòng yêu nước thương nòi,
gìn giữ, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ngay cả những giám mục bị
bọn đế quốc phản động lợi dụng như giám mục Lê Hữu Từ, Người cũng có thái
độ ứng xử rất mềm dẻo, chân tình: Nhận là bạn, mời làm cố vấn của Chính phủ
và lựa lời khuyên giải. Trong buổi nói chuyện với các linh mục đầu năm 1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng uy tín của linh mục Lê Hữu Từ để thuyết phục:
“Trước đây tôi đã gặp Đức cha Từ. Nay tôi về đây với tấm lòng sốt sắng và thân
mật vì Đức cha Từ là người bạn thân mật của tôi. Ngài là một vị lãnh đạo sáng
suốt của đồng bào Công giáo. Công giáo hay không Công giáo đều phải nỗ lực
đấu tranh cho nền độc lập dân tộc của nước nhà. Nhiệm vụ của toàn thể chúng
ta là phải giữ gìn nền độc lập. Thay mặt Chính phủ cảm ơn Đức cha Từ và các
ngài đã tỏ lòng trung thành với chính phủ”.
Như vậy, với sự sắc sảo về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh cái
chung, cái tương đồng của các tôn giáo để thực hiện đoàn kết tôn giáo, các lực
lượng tôn giáo vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc. Điều này được Người
xác định rõ trong thư gửi tướng Trần Tu Hoà: “Việt Nam độc lập đồng minh
không phải là một Đảng mà là một mặt trận toàn dân, bao gồm các đảng phái
(đảng Dân chủ, phái Xã hội), các phần tử Quốc dân đảng, Đảng cộng sản (đã tự
động giải tán) và các đoàn thể yêu nước không đảng phái như Hội Thanh niên
cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc, Hội Cơ đốc giáo cứu quốc…”.
Nội dung tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính
chất toàn diện, điều đó được thể hiện cả trong kinh tế, chính trị và văn hoá, xã
22
hội. Người nói: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào Lương và các đồng bào
tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”.
Trọng tâm tư tưởng về chính sách tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
vấn đề đoàn kết Lương - Giáo. Cơ sở của đoàn kết Lương - Giáo theo tư tưởng
Hồ Chí Minh chính là sự “đồng nhất” với nhau vì mục tiêu độc lập tự do của dân
tộc. Người cho rằng, đồng bào Lương và đồng bào Giáo đều là người Việt Nam,
đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp lớn, lâu dài. Vì thế
Lương - Giáo phải đoàn kết, toàn dân phải đoàn kết thì sự nghiệp lớn của dân tộc
mới giành được thành công. Qua các bức thư gửi cho đồng bào các tôn giáo và
các chức sắc tôn giáo, Người luôn đề cao cái chung của mọi người, không kể
Lương hay Giáo, là lòng yêu nước, đó là cái căn bản. Còn cái riêng, cái dị biệt về
đức tin, lối sống: Đồng bào Giáo thì có tình cảm kính Chúa, đồng bào Lương thì
ngưỡng mộ Đức Phật chỉ là sự khác biệt nhỏ, không căn bản. Chúng ta cần phải
bỏ qua cái dị biệt nhỏ, giữ lại cái tương đồng lớn.
Xây dựng và phát huy vai trò hệ thống chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, trong đó trọng tâm là đoàn kết Lương Giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những giải pháp có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn. Đó là: Xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đồng bào tôn
giáo, làm tốt công tác vận động với các chức sắc và tín đồ tôn giáo, tích cực đấu
tranh chống bọn đế quốc, phản động lợi dụng tôn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng lãnh đạo và chỉ đạo việc xây dựng
và phát huy vai trò của tổ chức Đảng các cấp, của hệ thống chính quyền, của mặt
trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể quần chúng khác ở các địa phương, nhất
là vùng có đông đồng bào theo đạo. Người đặc biệt chú ý tới công tác phát triển
Đảng ở chính các tín đồ công giáo. Điều này rất quan trọng trong việc tăng
23
cường mối liên hệ giữa Đảng với đồng bào tôn giáo. Khi trả lời câu hỏi “người
công giáo có thể vào Đảng được không?” Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Có.
Người công giáo nào cũng vào được, miễn là trung thành, hăng hái làm nhiệm
vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo là
duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn
vào Đảng được".
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ ở các vùng đồng bào công giáo. Người khẳng định: “Cán bộ là gốc của
mọi công việc” và “công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay
kém”. Người chủ trương phát triển cán bộ tại chỗ là chính, để họ trở thành cán
bộ “bán chuyên nghiệp” đi vận động tôn giáo. Người thường căn dặn cán bộ phải
thật bền bỉ thì mới có thể giúp đồng bào tôn giáo phân biệt rõ bạn, thù.
Coi trọng công tác tuyên truyền vận động
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác vận động đối với các chức sắc tôn
giáo và đồng bào tôn giáo là mặt trọng yếu trong công tác dân vận. Người luôn
biểu lộ sự tôn trọng, quan tâm đối với các chức sắc tôn giáo và tìm cách tốt nhất
để tranh thủ họ; song cũng có thái độ xử sự dứt khoát, kiên quyết trừng trị những
kẻ mượn tiếng đạo, làm nhục Chúa, làm hại dân. Đối với kẻ lợi dụng tôn giáo để
gây chia rẽ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào chống lại Tổ quốc, Người chỉ rõ: “Chính
phủ sẽ nghiêm trị những kẻ lừa bịp, cưỡng bức đồng bào phải lìa bỏ quê hương,
sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng như phần hồn”.
Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đồng bào tôn giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến đời sống của đồng bào tôn giáo,
chăm sóc cả “phần xác” và “phần hồn”. Theo Người, “phần xác có no ấm thì
phần hồn mới thong dong”, từ đó Người chỉ đạo Chính phủ cần có chính sách cụ
24
thể để cải thiện cuộc sống cho đồng bào, tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao đời
sống. Người nói: “Phải ra sức củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu
nhập cho xã viên. Đồng thời phải đảm bảo tín ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động
tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái với chính
sách và pháp luật của Nhà nước". Đối với “phần hồn” của đồng bào tôn giáo,
Người không chỉ đánh giá cao giá trị của văn hoá tôn giáo, mà còn trực tiếp quan
tâm tới sinh hoạt tôn giáo. Người đã nhiều lần đến các chùa chiền, nhà thờ với
tấm lòng thành kính dự các lễ nghi tôn giáo như: Lễ Phật đản, Lễ Giáng sinh…
Như vậy, thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo để giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo ở Việt
Nam một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn hoá và
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam
thực hiện tư tưởng của Người về chính sách tôn giáo, đã và đang sống theo
phương châm: “Sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “tốt đời đẹp đạo”, “đạo pháp
dân tộc và chủ nghĩa xã hội".
3. Về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta:
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên
quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp
dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống
chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập
Đảng.
25
Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội phản đế
Đồng Minh ngày 18/11/1930, Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn
trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng: "... phải lãnh đạo từng tập thể sinh họat
hay tập đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách
mạng hóa quần chúng và lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần chúng...".
Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp đầu
tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 3/9/1945"
"Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết", coi đó là một trong sáu nhiệm của
Nhà nước non trẻ. Hay trong lời kết thúc buổi ra mắt vào ngày 3/3/1951, Đảng
Lao động Việt Nam đã tuyên bố: "... vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt
Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người". Ngày
14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL ban hành chính sách tôn
giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do
tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền Dân chủ
Cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù phải
lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm đến nhu
cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11/6/1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký
Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo Sắc lệnh 234.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11/11/1977,
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP về "Một số chính sách đối với tôn
giáo" trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu cầu
của quá trình đổi mới, ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị
định 59-HĐBT "Quy định về các hoạt động tôn giáo". Nghị định 59 là văn bản
mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện công cuộc