Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG của lê NIN về NGUYÊN tắc tập TRUNG dân CHỦ TRONG xây DỰNG ĐẢNG KIỂU mới ý NGHĨA đối với VIỆC tự đổi mới, tự CHÍNH đốn của ĐẢNG TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.68 KB, 21 trang )

TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN VỀ NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN
CHỦ TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG KIỂU MỚI. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
VIỆC TỰ ĐỔI MỚI, TỰ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA HIỆN NAY.
Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một trong những nội dung
được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm tập trung nghiên cứu tổng kết lý
luận cũng như tổ chức thực hiện trên thực tế là nguyên tắc tập trung dân chủ,
một vấn đề mà Đảng ta khẳng định nếu xem nhẹ hay từ bỏ nó sẽ dẫn đến nguy
cơ làm tan rã Đảng về mặt tổ chức. Do vậy, chúng ta cần nghiên cứu cả cơ sở
lý luận và thực tiễn của nguyên tắc này, từ đó quán triệt và thống nhất cao với
những chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản
đã bước vào giai đoạn phát triển cao, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. giai cấp tư
sản từ một lực lượng xã hội tiến bộ trong giai đoạn phát triển đi lên của chủ
nghĩa tư bản đã biến thành lực lượng phản động. Sự phản động đó bao trùm
trên mọi lĩnh vực của xã hội tư bản. Dựa vào những kết luận của Mác trong
bộ “Tư bản”, Lênin đã phân tích một cách sâu sắc chủa nghĩa tư bản trong
giai đoạn mới và chỉ ra rằng chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng
vô ản.
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân đã
lớn mạnh không ngừng cả về số lượng và chất lượng. Ý thức giác ngộ giai
cấp cũng ngày càn được nâng cao. phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. ở nhiều nước châu Âu
giai cấp vô sản có đủ khả năng đoàn kết xung quanh mình tất cả những người
bị áp bức bóc lột để lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới. Cách
mạng vô sản đã trở thành một nhiệm vụ trực tiếp. Chính những điều kiện lịch
sử đó đòi hỏi cấp bách phải nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của


2


Đảng cộng sản để giai cấp vô sản có thể làm tròn nhiệm vụ lích sử mới.
Sau khi Ăng ghen mất, những người đứng đầu quốc tế II và những
người đứng đầu các Đảng dân chủ-xã hội ở Tây Âu đã xét lại chủ nghĩa Mác,
từ bỏ những tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Mác, cát xén chủ nghĩa Mác, âm
mưu hạn chế phong trào công nhân trong khuôn khổ đấu tranh đòi những cải
cách cục bộ mang tính chất cải lương, không nhằm mục tiêu lật đổ giai cấp tư
sản và chủ ngiax tư bản. Họ đã biến quố tế II và các đảng dân chủ-xã hội
thành những đảng cải lương, hoàn toàn mất tính giai cấp và tónh chiến đấu
của đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng cua giai cấp
vô sản là phải đập tan chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của học thuyết
Mác trên các lĩnh vực, trong đó có học thuyết về đảng, xây dựng các dẩng
thực sự cách mạng của giai cấp công nhân. Nhiệm vụ lịch sử vĩ đại đó đã
được Lênin hoàn thành một cách xuất sắc.
Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ hội trong
quốc tế II và phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác- Ăngghen về
Đảng, xây dựng nên học thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dựa
trên những quan điểm của Lênin, đảng Bônsêvích Nga đã ra đời năm 1903.
Năm1919 Quốc tế III- Quốc tế cộng sản được thành lập theo sáng kiến của
Lênin. Quốc tế III đã đóng vai trò to lớn đối với sự ra đời của hàng loạt các
đảng cộng sản trên thế giới.
Trong học thuyết về đảng kiểu mới, Lênin đã xây dựng một hệ thống
những nguyên tắc cơ bản về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Những
nguyên tắc đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn, vị trí, vai trò, bản chất và nội dung
của nguyên tắc tập trung dân chủ
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn


3


Như chúng ta đã biết: Tập trung dân chủ là nguyên lý xây dựng Đảng
kiểu mới về mặt tổ chức của giai cấp công nhân, do C.Mác và Ph.Ăngghen
đặt cơ sở, được V.I.Lênin khái quát, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
khẳng định, kế thừa và thực hiện thành công trong xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam trở thành một Đảng mácxít.
Mặc dù tư tưởng về tập trung dân chủ chưa được nêu thành nguyên tắc,
nhưng đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập khá sớm trong Điều lệ Liên
đoàn đồng minh những người cộng sản cũng như trong nhiều tác phẩm khác.
Khi bàn về quyền uy, C.Mác viết: “Quyền uy có nghĩa là ý chí của người
khác bắt buộc chúng ta phải tiếp thu; mặt khác quyền uy ấy lấy sự phục tùng
làm tiền đề”1. Ở điều 25, Điều lệ Liên đoàn đồng minh những người cộng sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Mỗi hội viên của Liên đoàn phải liên lạc ít nhất
là ba tháng một lần, còn mỗi chi bộ phải liên lạc mỗi tháng một lần với Ban
chấp hành khu bộ của mình. Ít nhất cứ hai tháng một lần, mỗi khu bộ phải
báo cáo tình tình công tác của địa phương mình với tổng khu bộ, ít nhất ba
tháng một lần mỗi tổng khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa
phương mình với Ban chấp hành Trung ương”2.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tiếp tục
phát triển và làm sâu sắc thêm tư tưởng về tập trung dân chủ. Nâng tư tưởng
tập trung dân chủ của C.Mác và Ph.Ăngghen lên thành nguyên tắc trong xây
dựng Đảng kiểu mới về mặt tổ chức.
V.I.Lênin chỉ ra rằng: Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung dân
chủ, chế độ tập trung dân chủ là nền tảng tổ chức của một đảng vô sản kiểu
mới. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng sẽ làm cho Đảng thống
nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh
của Đảng, làm cho đường lối của Đảng được thực hiện một cách có hiệu lực.
1
2


. C. Mác - Ph.Ăng ghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.767
. C. Mác - Ph.Ăng ghen, Toàn tập, Sđd, Tập 1, 1970, tr.493


4

Mặt khác, thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp phần ngăn ngừa sự
phá hoại của các phần tử không kiên định, vô chính phủ, cơ hội chủ nghĩa
trong Đảng. Trong tác phẩm “Một bước tiến hai bước lùi”, V.I.Lênin viết:
“Trước kia Đảng ta chưa phải là một khối chính thức có tổ chức, mà chỉ là
một tổng số những nhóm riêng biệt và do đó, giữa các nhóm ấy không thể có
những quan hệ nào khác; ngoài sự tác động về mặt tư tưởng. Hiện nay, chúng
ta đã trở thành một Đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra
một quyền lực, khiến cấp dưới phải phục tùng cấp trên của Đảng” 1. V.I.Lênin
cho rằng, Đảng muốn có sức mạnh để lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng
lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, Đảng phải có sự thống
nhất về ý chí và hành động. Điều kiện cho sự thống nhất của Đảng: trước hết
Đảng phải có cương lĩnh chính trị và sau đó phải có tổ chức chặt chẽ. Làm
được điều đó tức là tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán ở trong Đảng. Tổ
chức là cái bảo đảm cho sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và hành động.
Ngoài hai yếu tố cương lĩnh chính trị và hệ thống tổ chức chặt chẽ, để nguyên
tắc tập trung dân chủ được thực hiện đúng đắn, Đảng phải có một điều lệ
thống nhất, một cơ quan chỉ đạo thống nhất do Đại hội Đảng bầu ra, Đảng
phải có một kỷ luật sắt, tự giác nhưng nghiêm minh. V.I.Lênin khẳng định:
“Từ chối không chịu phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan Trung ương, tức
là từ chối không muốn làm người đảng viên, tức là phá hoại Đảng”2. Sau này
trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin
cũng đã nhấn mạnh: “Kẻ nào làm yếu - dù chỉ là chút ít - kỷ luật sắt trong
đảng của giai cấp vô sản (nhất là trong thời kỳ chuyên chính của nó) là thực
tế giúp cho giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản”3.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong công tác xây dựng
. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.429
. V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, tập 8, 1979, tr.424
3 . V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, tập 41, 1977, tr.334
1
2


5

Đảng, nhưng thực hiện nguyên tắc như thế nào cho đúng là một vấn đề không
đơn giản. Nếu chủ thể nhận thức không có bản lĩnh chính trị và một động cơ
trong sáng thì nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ phản tác dụng, nó sẽ như một
con dao hai lưỡi. Theo V.I.Lênin, tập trung đi liền với dân chủ. Tập trung
càng cao thì dân chủ càng cao. Không thể có dân chủ mà thiếu tập trung và
ngược lại không thể có tập trung mà thiếu dân chủ. Khi viết về “Chế độ tập
trung và chế độ tự trị”, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Không được quên rằng khi
bênh vực chế độ tập trung, chúng ta chỉ bênh vực chế độ tập trung dân chủ
thôi”1, điều đó có nghĩa: tư tưởng tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc
đoán, hoặc dân chủ vô tổ chức, vô chính phủ đều xa lạ với tư tưởng của
Người. V.I.Lênin đã từng phê phán rằng: “Ở ta, người ta luôn luôn lẫn lộn
chế độ tập trung với chế độ độc đoán và chế độ quan liêu. Lẽ tự nhiên là lịch
sử nước Nga phải đẻ ra một sự lẫn lộn như thế, nhưng dù sao đối với người
mácxít, điều đó vẫn là một điều dứt khoát không thể dung thứ được”2.
Tư tưởng trên đây của V.I.Lênin đã đặt nền móng cho việc xây dựng
Đảng ở Nga, sau đó được các Đảng trong Quốc tế cộng sản thừa nhận. Một
trong những điều kiện để được gia nhập Quốc tế cộng sản là các đảng phải
được xây dựng theo nguyên tắc “tập trung dân chủ”.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, giáo dục và rèn luyện. Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết xây dựng

Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam để giải quyết
đúng đắn những vấn đề về xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tập
trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đồng thời Người chỉ ra
thế nào là tập trung, thế nào là dân chủ và mối quan hệ giữa tập trung và dân
chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cụ thể như sau:
“... Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung. Nghĩa là:
. V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, tập 24, 1980, tr.183
. V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, tập 24, 1980, tr.184

1
2


6

A. Tập trung trên nền tảng dân chủ.
Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân chính. Những
phương châm, phương sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định
phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập
trung. Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chuyên chính, nó là xây
dựng trên nền tảng dân chủ. Nghĩa là:
1. Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng viên bầu cử lên.
2. Phương châm, phương sách, Nghị quyết của Đảng đều do quần
chúng đảng viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mà thành. Rồi lại do các
cuộc hội nghị của Đảng thảo luận giải quyết, chứ không ai tự ý độc đoán.
3. Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng viên giao phó
cho, chứ không phải tự ai tranh giành được. Vì vậy, người lãnh đạo phải gần
gũi và học hỏi quần chúng đảng viên, nghe ngóng ý kiến của họ. Nếu lên mặt
với quần chúng, lạm dụng quyền lực - thế là sai lầm.
4. Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục

tùng số nhiều; cấp dưới phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng
Trung ương.
B. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung.
Ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia
giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của
Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng, quyết chống: không xét thời
gian, địa điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ quá trớn.
1. Chỉ có cơ quan lãnh đạo có quyền khai các cuộc hội nghị.
2. Tất cả các Nghị quyết của Đảng phải do cơ quan lãnh đạo chuẩn bị
kỹ càng, rồi giao cho các cấp thảo luận. Không được làm qua loa, sơ sài.
3. Khi bầu cử các cơ quan lãnh đạo trong Đảng, phải xem xét kỹ lưỡng
để để lập danh sách những đảng viên ứng cử.


7

4. Toàn thể đảng viên phải theo đúng Đảng chương thống nhất, kỷ luật
thống nhất của Đảng. Toàn thể đảng viên phải theo sự lãnh đạo thống nhất
của Trung ương.
Nói tóm lại: Để làm cho Đảng mạnh thì phải mở rộng dân chủ (thật thà
tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức
và tính kỷ luật”1.
Thực tiễn xây dựng, hoạt động của Đảng ta, của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của nguyên tắc
tập trung dân chủ: Đối với Đảng ta, trải qua 76 năm xây dựng và lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Đảng luôn khẳng định tầm quan trọng của nguyên tắc tập
trung dân chủ. Đảng đã kiên trì, vận dụng sáng tạo nguyên tắc này cả trong
điều kiện khi chưa có hoặc khi đã có chính quyền; cả trong điều kiện chiến
tranh cũng như khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong điều kiện Đảng ta
là một đảng cầm quyền, Đảng đã trung thành, vận dụng đúng đắn, sáng tạo

nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhờ vậy trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào,
Đảng cũng luôn luôn là một khối thống nhất về ý chí và hành động, Đảng thực
sự là một chỉnh thể thống nhất, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điều này đã khẳng định năng lực, vai trò lãnh
đạo, sức chiến đấu, sức mạnh của Đảng xuất phát từ nhiều yếu tố, nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân đặc biệt quan trọng chính là do Đảng ta
kiên trì và vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đang đặt ra
cho công tác lãnh đạo, tổ chức bộ máy, phương thức lãnh đạo của Đảng cần
được đổi mới, chỉnh đốn. Điều đó càng đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng coi
trọng, cụ thể hoá và vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, việc Đảng Bôn1

. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H, 2000, tr.240, 241


8

sêvích Nga ra đời, lãnh đạo Cách mạng Tháng 10 Nga thành công, lập nên
Nhà nước công nông đầu tiên và lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa thu
được những thắng lợi vĩ đại đã làm cho hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ về quy mô,
từng bước đẩy lùi, thu hẹp chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản. Tuy còn có
những mặt hạn chế trong quá trình tìm tòi mô hình, con đường đi lên cho phù
hợp, song chủ nghĩa xã hội đã thể hiện rõ tính ưu việt, hơn hẳn của mình so
với chủ nghĩa tư bản. Chính nguyên tắc tập trung dân chủ đã góp phần làm
cho các Đảng Cộng sản thực sự là tổ chức chặt chẽ, có đủ năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu để tạo nên các thành công đó. Trong những năm 90 của thế
kỷ XX, quá trình tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới, một số Đảng Cộng sản
cầm quyền do sai lầm về đường lối làm cho đất nước đi vào khủng hoảng

trầm trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, bên cạnh đó lại bị chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch ra sức tiến công trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, trong
đó chúng tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ; cho
việc thực hiện nguyên tắc này là nguyên nhân làm cho các Đảng Cộng sản
cầm quyền quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, kìm hãm sự phát triển...đã làm
cho một số Đảng Cộng sản dần dần mất phương hướng, xa rời, đi tới từ bỏ
nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chủ nghĩa
xã hội tan rã như ở Liên Xô và một số nước Đông Âu vừa qua.
1.2. Vị trí, vai trò, bản chất và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các
Đảng Cộng sản, nguyên tắc này chỉ đạo toàn bộ và xuyên suốt quá trình xây
dựng tổ chức, sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trước hết,
nguyên tắc này quy định việc xây dựng cơ cấu, hình thức tổ chức của Đảng,
như vấn đề chế độ sinh hoạt, tổ chức đại hội, chế độ thủ tục bầu cử, các cơ
quan lãnh đạo của Đảng; nguyên tắc quy định các chế độ để giải quyết các


9

mối quan hệ trong nội bộ Đảng, như giữa cấp trên với cấp dưới, giữa tập thể
với cá nhân, giữa đa số với thiểu số...; nguyên tắc quy định các nguyên tắc,
chế độ sinh hoạt Đảng, phương pháp tác phong lãnh đạo của Đảng, bảo đảm
cho các cấp uỷ, tổ chức Đảng và mỗi đảng viên vừa phát huy trách nhiệm
sáng tạo, tích cực, chủ động, vừa tập trung được sức mạnh trí tuệ và sức mạnh
của toàn Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở bảo đảm cho sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng về mặt tổ chức, đồng thời sự thống nhất về mặt tổ
chức là điều kiện vật chất để đảm bảo cho sự thống nhất về mặt chính trị, tư
tưởng được giữ vững và biến thành hiện thực. Nguyên tắc này còn là cơ sở để
xây dựng và giữ nghiêm kỷ luật Đảng, là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt Đảng
cộng sản chân chính với các Đảng cơ hội, cải lương về mặt tổ chức.

Nguyên tắc tập trung dân chủ mang bản chất tổ chức của giai cấp công
nhân. Nó là sự thống nhất, tác động biện chứng giữa hai thành tố tập trung và
dân chủ. Hai thành tố này là thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân trong
lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp. Thuộc tính bản chất giai cấp công nhân
của Đảng được xác định từ vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, từ sự ra đời
của giai cấp công nhân, từ yêu cầu khách quan của sản xuất công nghiệp. Qua
đó đã từng bước tôi luyện làm cho giai cấp công nhân có những thuộc tính cơ
bản như tính tập trung hoá cao độ, ý thức và trình độ tổ chức chặt chẽ, tính kỷ
luật nghiêm minh, tinh thần đoàn kết, hợp tác, tương trợ, dân chủ tập thể.
Tập trung là điều kiện, là tiền đề cho sự vận động, phát triển của dân chủ
và ngược lại. Hai thành tố này không mâu thuẫn nhau, mà luôn thống nhất, tác
động bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ có sự bảo đảm
của tập trung, dân chủ có lãnh đạo. Thực hiện và phát triển dân chủ trong Đảng
phải luôn gắn liền với giữ vững tập trung và tăng cường tập trung trong Đảng
phải luôn giữ vững, phát huy dân chủ. Dân chủ càng phát triển thì tập trung càng
vững chắc, do vậy những hiện tượng tập trung quan liêu, chuyên quyền độc


10

đoán, dân chủ hình thức, dân chủ vô tổ chức kỷ luật, phân tán, bè phái, cục bộ là
sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, trái với bản chất của nguyên tắc này.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về tập trung dân chủ. Qua hoạt động thực tiễn của Đảng ta và từ bài học
“xương máu” của các đảng anh em, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ:
“Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy nguyên tắc
tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm
minh, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng” 1. Trong điều
9, chương II về nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng (Điều lệ Đảng

khoá IX) đã cụ thể nguyên tắc tập trung dân chủ thành 6 nội dung chính như
sau:
“1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc.
Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa
hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở
mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình
hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê
bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và
Ban Chấp hành Trung ương.
1

. Điều lệ Đảng CSVN, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2001, tr.4


11

5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có

ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”1.
Như vậy, tập trung dân chủ theo quan điểm của Đảng ta có nghĩa là tất
cả các cơ quan Đảng đều phải do bầu cử lập ra và hoạt động theo nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thực hiện chế độ thông báo tình hình hoạt
động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ
tự phê bình và phê bình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số có quyền bảo
lưu. Mặt khác, tập trung dân chủ đặt ra yêu cầu kỷ luật nghiêm ngặt và thống
nhất đối với toàn thể đảng viên, là phục tùng ý chí và nghị quyết của đa số, là
việc các cơ quan cấp dưới có nghĩa vụ phải chấp hành quyết định của các cơ
quan có thẩm quyền cấp trên. Điều đó sẽ bảo đảm cho công tác và sự lãnh đạo
của Đảng luôn được tập trung, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành
động, tạo nên sức mạnh của toàn Đảng trong lãnh đạo và hoạt động.
2. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với công tác xây
dựng và hoạt động của Đảng ta hiện nay
2.1. Thực trạng của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng ta hiện nay
1

. Điều lệ Đảng CSVN, Nxb chính trị quốc gia, HN, 2001, tr.15 - 17


12

Trong bảy thập kỷ xây dựng và hoạt động lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt Đảng
ta quan tâm vận dụng tổng hợp các nguyên lý về xây dựng Đảng, nhất là

nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện đảng cầm quyền. Vì vậy, cách
mạng Việt Nam luôn dành được những thắng lợi to lớn, vĩ đại, đó là đã lãnh
đạo nhân dân cả nước tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công; đánh bại
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước và hiện nay đang lãnh đạo
tiến hành công cuộc đổi mới thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động lãnh đạo của Đảng còn nhiều vấn đề
cần phải tiếp tục được chấn chỉnh, khắc phục. Trước hết, việc nhận thức và
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm.
Nhận thức của nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa thật sâu
sức, đầy đủ, thống nhất về vị trí, vai trò, bản chất của nguyên tắc; chưa thấu
suốt và thực hiện tốt các nội dung nguyên tắc đã được xác định trong Điều lệ
Đảng, thậm chí có biểu hiện thiếu tôn trọng nguyên tắc. Chế độ sinh hoạt
Đảng, chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách vừa thiếu quy định cụ thể,
vừa chấp hành nguyên tắc không nghiêm túc, chặt chẽ cho nên không ít nơi
vừa có tình trạng quan liêu, vi phạm dân chủ, vừa có biểu hiện dân chủ hình
thức hoặc dân chủ cực đoan, kỷ luật lỏng lẻo, cục bộ bản vị, gây mất đoàn kết
nội bộ, có nơi rất nghiêm trọng và kéo dài. Vẫn còn hiện tượng coi thường kỷ
cương phép nước, vô tổ chức, vô kỷ luật, cố tình không chấp hành nghị quyết,
chỉ thị, làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất tư tưởng và tổ chức, chất lượng
sinh hoạt Đảng giảm sút, nhất là tổ chức đảng ở cơ sở. Việc nghiên cứu, tổng
kết, cụ thể hoá, hướng dẫn, kiểm tra và chỉ đạo nguyên tắc này cho phù hợp
với từng thời gian, từng lĩnh vực, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ, phạm vi


13

của từng cấp uỷ, tổ chức đảng còn nhiều yếu kém. Việc đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng. Báo cáo về công tác xây dựng
Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Đảng “còn thiếu những quy chế cụ thể bảo đảm
phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số
cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền
của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến của cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi
gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức...”1.
Thậm chí có người lợi dụng việc sử dụng nguyên tắc này nhằm thực hiện
những động cơ, lợi ích cá nhân hoặc phe nhóm đi ngược lại lợi ích toàn Đảng.
Những khuyết điểm trên nếu Đảng ta không kịp thời phát hiện và kiên quyết
khắc phục sẽ trở thành vấn đề hết sức nguy hiểm, nó kết hợp với các yếu tố
khác, nhất là sự chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng của kẻ thù dần dần
làm mất vai trò, tác dụng, tính cách mạng, khoa học của nguyên tắc tập trung
dân chủ, từng bước làm cho Đảng suy yếu, tan rã về tổ chức.
Một vấn đề đáng quan tâm hiện nay là đa số cán bộ, đảng viên của
Đảng xuất thân từ nông dân, chịu ảnh hưởng tư tưởng của người sản xuất nhỏ,
phân tán, tuỳ tiện, bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa. Khi Đảng trở thành đảng
cầm quyền, cán bộ đảng viên có chức có quyền thì biểu hiện trên, nhất là tệ
quan liêu càng có điều kiện nảy sinh, phát triển. Tệ quan liêu ở nước ta gắn
liền với tư tưởng phong kiến, gia trưởng, tính trì trệ, bảo thủ; biểu hiện của nó
trong sinh hoạt đảng rất đa dạng: bệnh tập trung quan liêu, cửa quyền trong
lãnh đạo, xa rời thực tế, cơ hội, ngại nghiên cứu học tập, ngại đổi mới, hẹp
hòi, bệnh công thần, tính quân phiệt, mệnh lệnh... Khi cán bộ, đảng viên đã
mắc bệnh quan liêu thì tất yếu tình cảm cách mạng bị nguội lạnh, họ chỉ cốt
thu vén cho cá nhân, sẵn sàng bán rẻ lương tâm, danh dự, làm mất lòng tin
. Báo cáo của BCH TW khoá IX Về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng, Báo Nhân dân, ngày
10.6.2006, tr.2
1


14


của nhân dân đối với Đảng, dẫn đến làm suy yếu Đảng.
Những khuyết điểm, yếu kém nêu trên, ngoài nguyên nhân chủ quan về
nhận thức, về quy chế, về kinh nghiệm lãnh đạo,...thì có một nguyên nhân
không kém phần quan trọng mà Đảng ta chỉ ra là: “Việc tổ chức thực hiện các
nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng chưa nghiêm,... Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp thiếu ý thức tu
dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức và năng lực, chạy theo chủ nghĩa cá
nhân, không hoàn thành nhiệm vụ nhưng chưa được xử lý kịp thời, kiên
quyết”1.
Cùng với những biểu hiện không đúng, vi phạm khi thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong nội bộ Đảng nói trên, các thế lực thù địch, chống cộng
cũng tập trung đánh vào nguyên tắc tổ chức của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc
tập trung dân chủ. Chúng xuyên tạc, cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ đến
nay đã lỗi thời, thực hiện tập trung dân chủ sẽ dẫn đến mất dân chủ trong Đảng,
làm cho Đảng rơi vào quân phiệt, độc đoán, độc tài. Họ ra sức tán dương và
khuyến khích thực hiện dân chủ tự do, dân chủ cực đoan, trong Đảng nên có
nhiều phe nhóm đối lập để đấu tranh, bàn cãi, tranh luận; chúng sử dụng triệt
để những chiêu bài “dân chủ”, “đa nguyên”, cổ vũ sự bất đồng ý kiến về quan
điểm trong Đảng, rồi lợi dụng sự bất đồng đó để chia rẽ Đảng thành những phe
phái đối lập; những kẻ phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cơ hội, hữu khuynh,
xét lại, những hành động chống Đảng, chống chế độ thì được chúng ve vãn,
tâng bốc lôi kéo, mời chào tặng cho đủ thứ danh hiệu, còn những đảng viên
chân chính kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ lý tưởng của Đảng thì bị chúng
nhạo báng, chế giễu là bảo thủ, cứng nhắc. Chúng đối lập những người lãnh
đạo Đảng với đông đảo đảng viên, chia rẽ lớp đảng viên này với lớp đảng viên
khác, mưu toan gây mâu thuẫn trong nội bộ. Mục đích các thế lực thù địch
. Báo cáo của BCH TW khoá IX Về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng, Báo Nhân dân, ngày
10.6.2006, tr.2
1



15

đánh vào nguyên tắc tập trung dân chủ là nhằm phá vỡ sự thống nhất nội bộ
Đảng, đi tới phân liệt và làm tan rã Đảng về tổ chức.
Từ thực trạng tình hình nội bộ Đảng và những âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch, chống cộng nhằm phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ
trong xây dựng, hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu trên. Đòi hỏi
Đảng ta phải có những chủ trương, giải pháp đồng bộ, phù hợp nhằm giữ
vững, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho Đảng có đủ năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay.
2.2. Một số vấn đề về giữ vững và tăng cường nguyên tắc tập trung
dân chủ trong công cuộc đổi mới , chỉnh đốn Đảng hiện nay
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
theo Cương lĩnh và Nghị quyết các nhiệm kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng đã
xác định. Đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi hơn bao giờ
hết, phải phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng khối đoàn kết toàn dân
gắn với việc thực hiện dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
động viên và tổ chức mọi tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước
và lòng tự hào dân tộc, ra sức thi đua khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu thực
hiện có kết quả mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước. Đồng thời phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.
Thực tiễn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy: Thắng lợi của
công cuộc đổi mới tuỳ thuộc vào bản lĩnh, trình độ và năng lực lãnh đạo của
Đảng. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần



16

độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta đã tiếp tục giữ vững và phát huy truyền
thống vẻ vang, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới dành được những thành tựu đáng phấn khởi, như trong
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội
X của Đảng đã khẳng định: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được
giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho
đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”.
Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước
dành thắng lợi, Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao
bản lĩnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Là Đảng cầm quyền,
lại hoạt động trong điều kiện mới hết sức phức tạp, Đảng ta đã ý thức rất sâu
sắc về vai trò, ý nghĩa của công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Từ Đại hội VI
đến Đại hội X, Đảng ta đã nghiêm khắc chỉ ra: bên cạnh những ưu điểm đã
đạt được, còn có những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng; thừa
nhận công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều
yếu kém, bất cập; “Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm
và lúng túng...Thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng”1. Đồng thời đề

. Báo cáo của BCH TW khoá IX Về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng, Báo Nhân dân, ngày
10.6.2006, tr.2
1


17

ra phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục thực hiện các nghị quyết, chủ trương về
xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu (lần 2) - khoá
VIII và kết luận của Hội nghị Trung ương bốn - khoá IX , đẩy mạnh thực hiện
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhằm không ngừng tăng cường vai
trò lãnh đạo, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, củng cố mối liên
hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Đảng ta cũng đặc biệt nhấn mạnh trong thời gian tới phải tập trung làm
tốt công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội thực dụng. Đẩy mạnh cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch đội ngũ cán bộ,
đảng viên, bảo đảm sự thống nhất cả về ý chí và hành động trong toàn Đảng.
Việc giữ vững và tăng cường nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề
sống còn của Đảng ta, do vậy trong Báo cáo “Về công tác xây dựng Đảng” của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội X đã xác định: Phải
“tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, quy chế hoá nguyên tắc tập trung dân chủ và
các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng”1 và “Vấn đề quyết định trong đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng là thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hành và mở rộng dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Đảng”2. Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ
mọi hoạt động, mọi lĩnh vực, mọi giai đoạn phát triển của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nó biểu hiện thành các nội dung trong chức năng, quyền hạn, mối quan
hệ, chế độ công tác của tổ chức đảng, các cấp uỷ; trong hoạt động của từng cán
bộ, đảng viên từ trung ương đến cơ sở. Sức sống của nguyên tắc tập trung dân

chủ chính là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nội dung cơ bản của
nguyên tắc cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Linh hồn của nguyên
. Báo cáo của BCH TW khoá IX Về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng, Báo Nhân dân, ngày
10.6.2006, tr.3
2. Báo cáo của BCH TW khoá IX Về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng, Báo Nhân dân, ngày
10.6.2006, tr.3
1


18

tắc tập trung dân chủ là nhằm tăng cường thêm năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng để Đảng ngang tầm với yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng từng giai đoạn; thể hiện ở những chủ trương, biện
pháp lãnh đạo sát đúng, được chấp hành triệt để, thực hiện có kết quả cao. Vì
thế, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không phải là vấn đề mới,
nhưng phải thực hiện nghiêm túc, phát huy tác dụng của nguyên tắc, tránh
những sai lầm hoặc coi trọng yếu tố tập trung, coi nhẹ yếu tố dân chủ và ngược
lại.
Đối với các tổ chức đảng, cấp uỷ và mọi cán bộ, đảng viên, trước hết
phải thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, bản chất và
nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tăng cường, giữ vững nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, chống mọi biểu hiện vi
phạm quyền dân chủ, dân chủ hình thức, hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu
lợi ích riêng, cục bộ làm suy yếu sức mạnh của tổ chức đảng. Hết sức cảnh
giác với những âm mưu, thủ đoạn nhằm xuyên tạc, bóp méo bản chất của
nguyên tắc; các luận điệu phủ định nguyên tắc, hay đối lập giữa tập trung và
dân chủ. Đồng thời, cần quan tâm phát hiện, ngăn chặn những động cơ với
mục đích xấu của tư tưởng cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, với ý đồ làm sai lệch
nội dung nguyên tắc để đem lại lợi ích cho cá nhân, phe phái.

Những nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được xác định trong
Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi (đã được Đại hội X của Đảng thông qua) cần
được cụ thể hoá và có những quy định, chế độ công tác rõ ràng đối với cấp
uỷ, tổ chức đảng các cấp như về: Chế độ lãnh đạo; chế độ triển khai, chấp
hành nghị quyết; chế độ thông tin, báo cáo; chế độ tự phê bình, phê bình; quy
chế hoạt động của các loại hình cấp uỷ, tổ chức đảng; quy chế kiểm tra, quy
định các mối quan hệ trong Đảng; phương pháp, tác phong công tác,...có như
vậy mới bảo đảm cho nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện đúng đắn,


19

phù hợp. Bảo đảm phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng từ sinh hoạt chi bộ
đến sinh hoạt cấp uỷ đảng và cơ quan lãnh đạo ở các cấp.
Trong các cấp uỷ và tổ chức đảng từ trung ương đến chi bộ phải thực
hiện đúng chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Từng đảng bộ phải chủ
động ngăn chặn và khắc phục tình trạng kém đoàn kết, thiếu thống nhất.
Những cấp uỷ, tổ chức đảng nào vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán
bộ độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ thì cấp
uỷ cấp trên phải kiên quyết chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, kiện toàn tổ
chức cán bộ, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm. Chủ động xây dựng
cấp uỷ các cấp luôn là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết, mẫu mực trong thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải giữ vững nền nếp, chế độ và nâng cao chất
lượng sinh hoạt, chế độ tự phê bình và phê bình, đặc biệt là ở cấp chi bộ. Trong
phê bình và tự phê bình nghiêm cấm việc trấn áp, trù dập người phê bình, cũng
như lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, gây rối nội bộ. Cần phát huy trí tuệ
tập thể để có những quyết định đúng đắn, phát huy năng lực, trình độ, kinh
nghiệm, trách nhiệm của cá nhân trong việc triển khai, tổ chức thực hiện các
mặt, các nhiệm vụ. Đồng thời, cấp uỷ, chi bộ phải trực tiếp phân công, kiểm tra

đảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; giữ mối liên hệ với nhân dân ở nơi
cư trú và ở nơi làm việc theo đúng quy định 76 của Bộ Chính trị.
Bên cạnh việc nâng cao nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, ở các cấp uỷ và tổ chức đảng cần tăng cường công tác kiểm tra việc
chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Trước hết phải kiểm tra việc chấp
hành đường lối, nghị quyết, chủ trương, chính sách, Điều lệ Đảng, nhiệm vụ
chính trị, chức trách được giao, cũng như tinh thần, thái độ trong sinh hoạt
đảng. Những cán bộ, đảng viên có phát ngôn và việc làm vô tổ chức, vô kỷ
luật, không chấp hành nghị quyết, Điều lệ Đảng phải được xử lý kịp thời,


20

không bao chen nhân nhượng; đấu tranh kiên quyết loại bỏ những tư tưởng,
hành động hữu khuynh, nể nang trong xử lý kỷ luật. Đối với đảng viên là cán
bộ chủ chốt ở các cấp uỷ phải gương mẫu chấp hành và có trách nhiệm tuyên
truyền, kiểm tra phát hiện những đảng viên, tổ chức đảng không chấp hành
hoặc chấp hành không đầy đủ, nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ của
Đảng để có những biện pháp uốn nắn và khắc phục.
Tóm lại, nguyên tắc tập trung dân chủ cũng như các nguyên tắc, chế
độ khác là chính do con người hoặc tổ chức đặt ra trên cơ sở nhận thức đúng
quy luật khách quan. Cho nên việc thực hiện như thế nào, chất lượng hiệu
quả đến đâu tuỳ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, năng lực nói chung, ý thức
giác ngộ, trách nhiệm chính trị, đạo đức lối sống, năng lực nhận thức nói
riêng của người lãnh đạo.
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ, có thể khẳng định rằng: Nguyên tắc tập trung dân chủ đến nay
không lỗi thời, các Đảng Cộng sản và mỗi đảng viên cộng sản không được
phép từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, trong điều kiện, hoàn
cảnh mới hiện nay, chúng ta phải hiểu và thực hiện nguyên tắc tập trung dân

chủ một cách đúng đắn, sáng tạo, theo đúng quan điểm của Đảng; chống các
biểu hiện tập trung quan liêu, dân chủ hình hoặc giáo điều, dập khuôn máy
móc khi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hiểu đúng bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ đã khó.
Nhưng khó hơn và điều quyết định là phải có cơ chế đúng, có những quy định
cụ thể và phải đấu tranh kiên quyết để việc thực hiện nguyên tắc này đạt hiệu
quả cao. Có như vậy mới làm cho Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu đưa sự nghiệp đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiến lên dành được những
thành tựu to lớn và vững chắc hơn.


21

*********************



×