Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CHỦ NGHĨA dân tộc, yêu nước TRONG tác PHẨM báo cáo bắc kỳ, TRUNG kỳ, NAM kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.01 KB, 14 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC – YÊU NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM BÁO CÁO BẮC KỲ, TRUNG KỲ, NAM KỲ
Tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh về “Chủ nghĩa dân tộc” đối với nhân dân Việt
Nam; về mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách
mạng vô sản nói chung và cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam nói riêng; về
khả năng, điều kiện và kết quả của sự chuyển hoá từ chủ nghĩa dân tộc thành chủ
nghĩa quốc tế. Giá trị thời đại của những tư tưởng ấy vẫn luôn sáng ngời và có tầm
chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình hiện tại của cách mạng Việt Nam.
Mang trong mình truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, người thanh
niên Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi tới Châu Âu, đến tận hang ổ của kẻ xâm
lược xem đằng sau khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng , Bác ái” ẩn chứa những gì, xem
nước Pháp và các nước khác họ làm thế nào, qua đó học hỏi kinh nghiệm rồi trở
về giúp đồng bào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong điều kiện lịch sử mới của xã hội loài người những năm đầu của thế
kỷ XX, đặc biệt là từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, V. I. Lênin đã
nêu một luận điểm mới khi phát triển học thuyết của C. Mác đó là nguyên lý về
việc giải phóng các dân tộc thuộc địa cần có sự đoàn kết vô sản và nhân dân bị áp
bức của tất cả cá nước. Sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa đặt trong mối
liên hệ với sự nghiệp cách mạng vô sản ở chính quốc, sự đoàn kết giữa vô sản ở
các nước đế quốc chủ nghĩa và nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong tình cảnh là người dân mất nước, tiếp
nhận sâu sắc truyền thống dân tộc đặc biệt là truyền thống yêu nước thương dân,
lại được sự giáo dục tốt đẹp của gia đình Nguyễn Sinh Cung sớm có lòng yêu
thương đồng bào nghèo khổ và tinh thần yêu nước. Hành động yêu nước mạnh mẽ
của Nguyễn tất Thành vào thời niên thiếu là tham gia vào cuộc biểu tình chống
thuế của nông dân Thừa Thiên Huế vào tháng 5 – 1908. Chính sức mạnh của
truyền thống yêu nước là động lực chủ yếu thúc đẩy Nguyễn Tất Thành quyết chí
ra đi tìm đường cứu nước. Bởi vì Anh rất khâm phục các cụ Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán
1



thành cách làm của bất cứ một người nào. Hoàng Hoa Thám chủ trương “thủ
hiểm” lấy Yên Thế làm căn cứ địa chờ thời cơ thuận lợi mà đánh đuổi Pháp bằng
quân sự. Phan bội Châu chủ trương dựa vào Nhật, học tập Nhật, xin viện trợ của
người “anh cả da vàng” để vận động cuộc nổi dậy chống Pháp bằng bạo lực. Phan
Chu Trinh không tin vào con đường cách mạng bạo lực mà chủ trương “ỷ Pháp
cầu tiến” chống triều đình lạc hậu, yêu cầu cải cách chính trị phát triển kinh tế văn
hoá dần đến mức tương đương với Pháp thì Pháp sẽ công nhận quyền tự chủ của
mình, công nhận bình đẳng với Việt Nam. Kết quả là các đường lối cứu nước đó
đều thất bại Phan Bội Châu bị Nhật trục xuất khỏi Nhật, Phan Chu Trinh bị Pháp
đưa đi Côn Đảo. Lúc đó các bậc trí giả yêu nước hàng đầu đều đối chọi nhau
người này nói người kia là “đuổi hùm cửa trước rước sói cửa sau” người kia nói
người nọ là “trông mong sự rộng lượng của kẻ thù dân tộc”. Phải nghe ai? Đi
đường nào? khủng hoảng về đường lối chính trị, bế tắc con đường giải phóng dân
tộc khỏi áp bức. Nguyễn Tất Thành với suy nghĩ độc lập, đánh giá đúng đòi hỏi
của thực tiễn cách mạng Việt Nam đã tự mình ra đi tìm con đường cứu nước mới.
Ra đi tìm đường cứu nước từ năm 1911, qua trải nghiệm thực tiễn cuộc
sống, lao động, nghiên cứu, học tập và tham gia đấu tranh, đi qua hơn 30 nước,
khắp 4 châu lục người thanh niên nhiệt huyết, bản lĩnh ấy đến với chủ nghĩa Mác
– Lênin một học thuyết khoa học và cách mạng, nhờ đó đã phát hiện ra chân lý
mới của thời đại lịch sử mới ‘muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Theo Hồ Chí Minh đối với việt Nam không giải quyết vấn đề giai cấp rồi
mới giải quyết vấn đề dân tộc như các nước tư bản phát triển ở phương Tây. Mà
ngược lại chỉ có giải phóng được dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng
dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng
giai cấp. Bởi vì ở Việt Nam cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc còn nổi lên mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai. Do đó theo Người “Chủ
nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí

2


Minh hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của
quốc tế II mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính theo lập trường chủ nghĩa Mác –
Lênin gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính là sự biểu hiện của ý thức dân tộc dưới
dạng hệ thống quan điểm tư tưởng lý luận và hệ giá trị của dân tộc. Đó là ý thức
hệ dân tộc hoặc chủ nghĩa dân tộc - yêu nước. Ý thức hệ đó bắt đầu từ lòng tự hào
về “Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam,
yên dân trị nước tiếng để muôn đời". Tiếp đó là ý thức về quyền độc lập dân tộc,
bắt đầu từ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư” cho đến quyết tâm "Sát Thát” ở đời
Trần, tinh thần quyết chiến của Nguyễn Huệ “Đánh cho phiến giáp bất hoàn, đánh
cho Nam quốc sơn hà chi hữu chủ”, từ triết lý "Nước là của chung chứ không phải
của một dòng họ nào". “Nước mất thì nhà tan” đến nhà nước của dân vì dân, do
dân và “lòng căm ghét bọn xâm lược”. Chủ nghĩa dân tộc - yêu nước Việt Nam là
chủ nghĩa dân tộc chân chính chứ không phải là chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bài
ngoại như một số nơi trên thế giới.
Khi đi sâu vào chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh lại gặp phải một mâu
thuẫn lớn: trong lý luận Mácxit chưa có vị trí của chủ nghĩa dân tộc - yêu nước. Lý
do đơn giản là: chủ nghĩa Mác cho rằng dân tộc và nhà nước quốc gia dân tộc chỉ
ra đời cùng với chủ nghĩa tư bản, khi đã có một thị trường thống nhất. Việt Nam
chưa qua chủ nghĩa tư bản, chưa hình thành dân tộc thì làm sao có được ý thức hệ
dân tộc. Luận điểm này được khái quát từ lịch sử chủ nghĩa phong kiến cát cứ ở
phương Tây. Chính ở đây, Hồ Chí Minh đã có một phát hiện lớn: "Mác đã xây
dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử
nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải toàn thể nhân loại. Xem
xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học
phương Đông". Hàng loạt bài báo của Người vào đầu những năm 1920 đã đề cập

đến vấn đề này. Để thực hiện sự bổ sung đó, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu từ phân tích
quá trình hình thành các dân tộc phương Đông, mối quan hệ giai cấp và dân tộc
3


dẫn tới nêu bật các đặc điểm đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa dân tộc của phương
Đông.
Xuất phát từ thực tiễn lịch sử, Hồ Chí Minh cho rằng các dân tộc phương
Đông không diễn ra sự thay đổi tuần tự và đầy đủ các hình thái kinh tế xã hội như
ở phương Tây, mà nó đã bỏ qua một số giai đoạn. Đó là chế độ chiếm hữu nô lệ và
nông nô . Vì vậy, cơ cấu giai cấp và đặc điểm giai cấp có sự khác biệt với phương
Tây. Từ nhìn nhận tiến trình lịch sử đó, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra các dân tộc
ở phương Đông, gắn liền với chế độ ruộng đất công xã và phong kiến tập quyền,
có sớm hơn chủ nghĩa tư bản rất nhiều, đã hình thành dân tộc và chủ nghĩa dân tộc
yêu nước.
Dân tộc và ý thức dân tộc ở Việt Nam nói riêng và phương Đông nói
chung có trước khi chủ nghĩa tư bản xâm lược thuộc địa trong khi giai cấp công
nhân chưa hình thành, "chủ nghĩa dân tộc đã hiện đại hoá khi chuyển từ giới
thượng lưu này sang giai thượng lưu khác", vì vậy chủ nghĩa dân tộc - yêu nước là
nền tảng tư tưởng của các phong trào yêu nước, chống chủ nghĩa thực dân. "Chủ
nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước".
Trở về nước năm 1941, tháng 5 năm 1941 Người chủ trì Hội nghị Trung
ương lần thứ Tám lịch sử. Hội nghị đã đưa ra nhận định hết sức quan trọng và
đúng đắn về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp: “Trong lúc này, nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn mãi chịu kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hồ Chí Minh đã trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công và trở thành Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Có thể
nói, động lực làm nên chí khí và sự nghiệp Hồ Chí Minh chính là điều mà Người

gọi là chủ nghĩa dân tộc. Đây là tư tưởng nền tảng và nhất quán trong hệ tư tưởng
chính trị của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, trên thế giới vẫn còn có nghi vấn rằng, Hồ
Chí Minh là “một nhà dân tộc chủ nghĩa hay người cộng sản”? Đối với dân tộc
Việt Nam và những người tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh là một người cộng
sản. Việc tìm hiểu người cộng sản Hồ Chí Minh đã quan niệm như thế nào về chủ
4


nghĩa dân tộc là một vấn đề quan trọng. Bởi lẽ, có hiểu được đúng đắn quan điểm
của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa dân tộc thì mới có thể hiểu được đầy đủ sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, để thấy được đóng góp to lớn của Người vào kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) , C.Mác và Ph.Ăngghen đã
kết thúc tác phẩm nổi tiếng này bằng khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết
lại”. Trong khẩu hiệu này, C.Mác nhấn mạnh đến yếu tố giai cấp trong sự đoàn kết
quốc tế. Năm 1920 trong “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”,
V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển thêm khẩu hiệu chiến lược này bằng yếu tố dân
tộc như sau: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới
đoàn kết lại”. Như vậy, V.I.Lênin là người đã bảo vệ, kế thừa và phát triển một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa và
cách mạng vô sản. V.I.Lênin cũng chính là người đã đề ra học thuyết cách mạng
không ngừng đối với các nước thuộc địa, nửa thuộc địa và phụ thuộc; vạch ra cho
họ con đường tự giải phóng mình. Với phương Đông và châu Á, V.I.Lênin còn là
tác giả của học thuyết “châu Á thức tỉnh”, mở rộng là phương Đông thức tỉnh.
Chính Nguyễn Ái Quốc đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin mà tìm
ra con đường giải phóng, con đường cứu nước cho dân tộc mình.
Năm 1924, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam đang đấu tranh giải phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, trong Báo
cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Nguyễn

Ái Quốc đã khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính
nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi
biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp
dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An
Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên
bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân
mưu tính khởi nghĩa năm 1917”. Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc đã có những phân tích
5


sâu sắc về sự biến đổi và phát triển của chủ nghĩa dân tộc dưới tác động của chiến
tranh như sau:
Chủ nghĩa dân tộc đã hiện đại hoá và người chỉ đạo chủ nghĩa dân tộc
chính là giới thanh niên An Nam.
Chủ nghĩa dân tộc ngày càng ăn sâu vào quần chúng.
Trong chủ nghĩa dân tộc có cả lòng căm ghét bọn xâm lược Trung Quốc và
người Ấn Độ sinh cơ lập nghiệp trên đất nước này.
Chủ nghĩa dân tộc có xu huớng hợp pháp hóa các hình thức biểu hiện và
yêu sách của nó; và lớp thanh niên ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn, có ý
nghĩa hơn những lớp người già đi trước.
Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa dân tộc trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam khi đó, trong phần cương lĩnh và
phương hướng hành động chung, Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ của
Nguyễn Ái Quốc đề nghị “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế
Cộng sản… Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu
không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”.
Ở Việt Nam khi đó, một phương hướng, nhiệm vụ như vậy là đúng đắn và
phù hợp với lôgíc. Bởi khi đó, ở phương Đông, Đông Dương và cụ thể là, ở Việt
Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra như ở phương Tây”; người lao động,
nhân dân bị áp bức tuyệt đại đa số là nông dân; trí thức có vai trò đặc biệt quan

trọng, ý thức dân tộc của họ rõ ràng mạnh hơn ý thức giai cấp (vì ngay giai cấp
công nhân Việt Nam trước năm 1924 cũng vẫn còn là giai cấp “tự phát”). Cho
nên, trong khi tuyên truyền giác ngộ ý thức giai cấp cho họ, thì đồng thời cũng
phải “phát động chủ nghĩa dân tộc” của họ, bởi vấn đề độc lập dân tộc là vấn đề
chủ yếu, nổi lên hàng đầu ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam
thời thuộc Pháp.
Chủ nghĩa dân tộc được phát động như vậy sẽ là một trong những tiền
đề, điều kiện vô cùng quan trọng cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở
Đông Dương. Trong phần kết luận của mình, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ đề cập tới “khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương”. Theo Nguyễn
Ái Quốc, yếu tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đó là nó phải
6


được sự ủng hộ và tham gia của toàn thể nhân dân. Người viết: “Để có cơ thắng
lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: Phải có tính chất một cuộc khởi
nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được
chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng ở
châu Âu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc, theo phương
pháp của những nhà cách mạng trước đây”.
Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Theo Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, không thể giải quyết vấn
đề giai cấp trước rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát
triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc thì mới giải phóng
được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo
tiền đề cho giải phóng giai cấp”. Sở dĩ như vậy là vì, “ở Việt Nam, cùng với sự tồn
tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu
thuẫn dân tộc và đấu tranh giữa toàn dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè
lũ tay sai”.

Nói tóm lại, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam để đề ra con
đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam là: “giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội (giai cấp), giải phóng con người với khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Như vậy, vấn đề “chủ nghĩa dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là khá rõ
ràng. Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và
chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện
nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát triển thành chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, “khi
chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết
hoá và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Như vậy, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh dùng ở đây, nói như
C.Mác, không phải như giai cấp tư sản đã hiểu, mà là chủ nghĩa yêu nước và tinh
7


thần dân tộc chân chính của người dân bản xứ.
Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp Trong Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, Mác – Ăng ghen đề cập đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
như sau:Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân
tộc, vì phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho
khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc.
Như vậy, Mác – Ăng ghen đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai
ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:
Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai
cấp đối kháng: tư sản và vô sản.
Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng

tư sản.
Vào thời của Mác, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh
giành độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai
cấp công nhân. Mác – Ăng ghen viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người
thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối
kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa
các dân tộc cũng đồng thời mất theo".
Như vậy theo Mác – Ăng ghen , để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước
hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung
tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lenin từng nhận xét, đối với Marx so với
vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân

tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.

Đến thời Lênin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách
mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới
có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý
luận. Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không
giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc
bị áp bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong
8


Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại."
Sau khi Lênin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã
nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm
đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn
coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô

sản.Tóm lại, Mác – Ăng ghen , Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu,
mục tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn
đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào
dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Ăng ghen , Lênin trên nền tảng truyền thống
yêu nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc
đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải
quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên
trên hết và trước hết.
Khi vận dụng học thuyết này vào Việt Nam, bằng sự hiểu biết và suy tư
sâu sắc về thực tiễn phương Đông và thực tiễn Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định suy nghĩ riêng của mình về vấn đề đấu tranh giai cấp ở phương Đông.
Ngay ở dòng đầu tiên của Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái
Quốc đã trình bày ngắn gọn và dứt khoát ý kiến cho rằng, ở phương Đông và ở
Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như phương Tây”
(phương Tây diễn ra quyết liệt và đẫm máu hơn). Bởi vì, ở phương Tây, có đấu
tranh giai cấp vì có xung đột về quyền lợi giữa các giai cấp.
Nhưng ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng, theo Nguyễn
Ái Quốc, “sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu”. Vì sao giảm thiểu,
Nguyễn Ái Quốc đã phân tích rất cụ thể và thuyết phục như sau: ở Việt Nam, “nếu
nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu
nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng
có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại
9


không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc”.
Để làm rõ quan điểm này, Nguyễn Ái Quốc đã so sánh đặc điểm trên ở
phương Đông với tình hình ở phương Tây, từ đó, dựa trên một chuẩn chung theo

học thuyết của Mác về giai cấp để nhìn nhận mức độ đấu tranh giai cấp ở phương
Đông. Nguyễn Ái Quốc đã phác họa ra kẻ bóc lột ở phương Đông là “những kẻ
mà ở đó được coi là địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người
trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ” và “những tên trọc phú ở đó thì ở đây chỉ
là những kẻ thực lợi khá giả thôi”.
Như vậy, khi tiếp thu học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, Nguyễn Ái
Quốc cũng thừa nhận đấu tranh giai cấp là một động lực trong xã hội có giai cấp,
nhưng Người không cho đó là động lực duy nhất. Xuất phát từ điều kiện cụ thể
của một nước thuộc địa, mất nước với nhiệm vụ cứu nước giành độc lập dân tộc
đang đặt lên hàng đầu, thì “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”.
Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt
Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô
giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sự phân hoá giai cấp đã
bắt đầu nhưng chưa triệt để và sâu sắc, xung đột giai cấp chưa gay gắt và mạnh
mẽ, cả dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do, thì
chủ nghĩa dân tộc là động lực vĩ đại.
Xuất phát từ nhận thức chủ nghĩa dân tộc của người bản xứ là chủ nghĩa
dân tộc chân chính, như Ph.Ăngghen đã từng nói: “Những tư tưởng dân tộc chân
chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân
chính”, Nguyễn Ái Quốc đi tới một kiến nghị có tính cương lĩnh hành động đối
với Quốc tế cộng sản và những nguời cộng sản là phải biết chủ động nắm lấy, phát
huy và “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản”. Làm
được điều đó, những người cộng sản sẽ thực hiện được “một chính sách mang tính
hiện thực tuyệt vời”; và ngược lại, nếu không làm được điều đó, “người ta sẽ
không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại,
và duy nhất của đời sống xã hội của họ”. Và, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng
10



lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Đề nghị này mới nghe qua có vẻ như một nghịch lý, nhất là vào thời
điểm những năm 20 của thế kỷ trước, khi Quốc tế cộng sản đang có xu hướng bị
“xơ cứng hoá” về mặt lý luận. Nhưng thực ra, nó lại rất hợp lý. Theo Nguyễn Ái
Quốc, đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”, bởi nếu nhân danh
Quốc tế Cộng sản mà phát động thì sẽ không phải là chủ nghĩa dân tộc thuần túy,
mà sẽ là chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế. Về vấn đề này, khi kết
thúc Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Sự
nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi
khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó, nhất là
trong một quốc gia đế quốc chủ nghĩa … thì đó càng là thắng lợi cả cho người An
Nam” .
Có thể thấy rằng, khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là đi theo
cách mạng vô sản, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận
thức một cách đúng đắn và giải quyết sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp trong cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam. Đây chính là một trong những
cơ sở cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử dân tộc ta đã cho thấy, có
nơi, có lúc, do không nắm vững, không xử lý tốt vấn đề mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp nên đã có những sai lầm trong vấn đề tập hợp lực lượng, gây tổn thất
cho cách mạng.
Về chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Charles Fourniau - nhà
sử học người Pháp đã viết như sau: “Vấn đề duy nhất đặt ra là cần hiểu rõ tại sao
và thế nào mà một người dân thuộc địa tất nhiên phải đi theo chủ nghĩa dân tộc?
và tại sao lại tìm được chủ nghĩa cộng sản như là con đường duy nhất để thực hiện
độc lập cho Tổ quốc mình?”. Ông đã tự trả lời rằng: “Việc áp dụng một cách độc
đáo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, chắc chắn đó là một trong
những nguyên nhân thắng lợi của Việt Nam, thể hiện một cách chính xác sự thống
nhất đã đạt được của truyền thống dân tộc và của cuộc cách mạng sâu xa mà việc
áp dụng chủ nghĩa Mác đòi hỏi, cũng là sự thống nhất một cuộc cách mạng dân
tộc với phong trào cộng sản quốc tế, đó là những dấu ấn riêng của Chủ tịch Hồ

11


Chí Minh trên phong trào cách mạng Việt Nam”. Những ý kiến của nhà sử học
nước ngoài này đã góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa dân tộc.
Cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong việc sáng
lập và rèn luyện Đảng ta, trong công cuộc lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám và hai
cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, tập hợp lực lượng đoàn kết toàn dân tộc, với quyết tâm sắt đá "Thà hy sinh
tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ", "Không có gì quý hơn độc
lập tự do".
Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩadân tộc là sự sáng tạo độc đáo của Hồ Chí
Minh, là bộ phận cấu thành quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng không
chỉ hoàn toàn đúng với hơn 80 năm qua của cách mạng Việt Nam, mà còn có tầm
chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam
hiện nay. Trước những biến động mới và phức tạp của thế giới ngày nay, khi mà
nhiều luận đề cũ tưởng như là chân lý bất di bất dịch đã trở nên lạc hậu và cản trở
sự phát triển, thì những luận điểm trên của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vẫn
cần phải được tiếp tục nghiên cứu phát triển một cách nghiêm túc và đầy đủ hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 1, Tập 2, Tập 4. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội năm 2002.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Võ Nguyên Giáp chủ
biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2003.
3. Hồ Chí Minh Nhà tư tưởng lỗi lạc. Song Thành, Nhà xuất bản lý luận Chính trị,
Hà Nội năm 2005.
4. Giáo trình Lịch sử dân tộc Việt Nam. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội
năm 2003.
5. Sự hình thành cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trần Văn Giàu, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà nội năm1997.
6. Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động cách mạng.
Phan Ngọc Liên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội năm 1999.
12


13



×