Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về độc lập dân tộc gắn LIỀN với CHỦ NGHĨA xã hội và ý NGHĨA đối với sự NGHIỆP CÁCH MẠNG nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.58 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề độc lập dân tộc từ lâu đã luôn là một vấn đề cốt lõi căn bản nhất
đối với mọi quốc gia, dân tộc. Từ khi cách mạng Tháng mười Nga thành công
(10/1917) đã mở ra một thời đại mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Do vậy vấn đề độc lập dân tộc đã phát
triển lên một bước mới, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, tình hình thế giới đang diễn biến nhanh chóng và hết
sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới độc lập dân tộc và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động với chiêu bài “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” và gần đây là “chống khủng
bố” đã tập trung mũi nhọn nhằm chống phá phong trào cách mạng thế giới mà
trước hết là đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó có Việt Nam.
Chúng muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội cả phương diện lý luận và hiện thực khi
thành trì vĩ đại của chủ nghĩa xã hội là Liên Xô đã sụp đổ. Do vậy xây dựng chủ
nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vẫn
là hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đó là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là
ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam. Đó là bài học được Đại
hội lần thứ IV của Đảng rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng nước ta,
được các Đại hội lần thứ V, VI của Đảng tiếp tục khẳng định và đặc biệt được
Đại hội lần thứ VII của Đảng phát triển với nội dung mới qua tổng kết kinh

1


nghiệm 15 năm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Bài
học trên là sự phản ánh sinh động xu thế cách mạng của thời đại cũng như của


nước ta, không những chỉ ra nguồn gốc thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước
đây, mà còn chỉ ra những yếu tố bảo đảm tính đúng đắn của đường lối và sự
thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu tư tưởng trên của Hồ Chí Minh sẽ góp phần làm sáng rõ để
mọi người nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn những giá trị tư tưởng vĩ đại và công
lao to lớn của Người, đồng thời rút ra được những vấn đề có tính nguyên tắc,
những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu để vận dụng trong việc thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược cách mạng của Đảng hiện nay là xây dựng thành công và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài, đã có những công trình khoa học, bài viết của nhiều
tác giả. Các công trình, bài viết đã góp phần làm sáng rõ tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhưng đây vẫn là nội dung nóng
hổi cần tiếp tục bàn luận sâu rộng hơn nữa để từ đó rút ra được những vấn đề có
tính nguyên tắc, những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu để có thể vận dụng
vào sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Với đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Ý nghĩa của vấn đề đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam” sẽ góp
một phần tiếp tục nghiên cứu vấn đề trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận
* Mục đích: Tiểu luận góp phần làm sáng rõ những quan điểm, tư tưởng
của Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam
thực hiện đường lối chiến lược: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.

2


Từ đó nhận thức sâu sắc hơn tư tưởng của Người đối với con đường cách mạng
Việt Nam đồng thời vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư

tưởng Hồ Chí Minh.
* Nhiệm vụ: Tiểu luận trình bày một cách cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh
về những nội dung, biện pháp của Người và Đảng ta trong thực tiễn lãnh đạo
cách mạng Việt Nam theo hai đường lối chiến lược. Từ đó rút ra những vấn đề
có tính nguyên tắc, những bài học có thể vận dụng vào sự nghiệp cách mạng hiện
nay của Đảng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luân để tiến hành nghiên cứu là những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam về chiến lược “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Tiểu luận “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Ý nghĩa của vấn đề đối với sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay”
được nghiên cứu theo phương pháp tư duy lôgic kết hợp với lịch sử là chủ yếu.
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích…
5. Ý nghĩa của tiểu luận
Tiểu luận trình bày một cách cơ bản và rõ ràng về tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, qua đó góp
phần làm sáng rõ tư tưởng của Người về nội dung này đồng thời góp phần bảo vệ
tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng trước mọi âm mưu, thủ đoạn của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, thù địch hòng xuyên tạc, hạ thấp,

3


phủ nhận vai trò, uy tín của lãnh tụ Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Nghiên cứu đề tài còn rút ra những nội dung, bài học quý báu để vận dụng
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện
nay.

6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm: Mở đầu; Hai chương (5 tiết); Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo.

4


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội
Ngay từ khi gặp được Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin, hình thành đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai
cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ
Chí Minh đã sớm thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân
tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản nên đã đi tới khẳng định: “Cả hai
cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách
mạng thế giới”1.
Năm 1930, trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định
cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản
(tức cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”2.


1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 416
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 128

5


Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng
con người.
Xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có thiết lập được
chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xóa bỏ được tận gốc tình trạng
áp bức, bóc lột; chỉ có thiết lập được một Nhà nước kiểu mới, một Nhà nước
thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho quyền làm chủ của người lao
động, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc
lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Nếu nước
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”1. Do đó, giành được độc lập rồi, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì
chủ nghĩa xã hội là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn
no, mặc ấm, sung sướng, tự do”. Sự phát triển đất nước theo con đường của chủ
nghĩa xã hội là một bảo đảm vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.
Vì vậy, Hồ Chí Minh nói: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với
yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày
một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”2.
Như vậy, đến với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát

triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.

1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 56
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 173

6


1.2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – tư tưởng nhất
quán, xuyên suốt và đặc sắc của Hồ Chí Minh
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc,
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà
Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát
vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc,
giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa
thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự
do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự
nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc
của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước
đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân
tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có
khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là

không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy
cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta,
các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non
sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường “Tây du” và
“Đông du” của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu khởi xướng, do ngọn cờ
tư tưởng phong kiến, tư sản đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa
yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Đến

7


cuối đời, cụ Phan Bội Châu cũng phải thừa nhận: “Trăm lần thất bại chưa có một
lần thành công”.
Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành
sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 05 tháng 6 năm 1911.
Từ đấy, Người đến nước Pháp và qua nhiều nước thuộc châu Âu, châu Phi, châu
Mỹ. Người đã lăn lộn làm đủ nghề: nấu bếp, bồi bàn, quét tuyết, đốt lò, chụp ảnh
thê, vẽ thuê, viết báo… vừa chật vật kiếm sống vừa hoạt động chính trị. Tại Anh
quốc, Người tham gia Công đoàn lao động hải ngoại, tại Mỹ, Người từng hòa
mình trong cuộc sống và sinh hoạt đấu tranh của người da đen của phố Háclem… Năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, gia nhập Đảng Xã hội pháp, lập
Hội những người Việt Nam yêu nước. Người nói: “Tôi tham gia tham gia Đảng
Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy - (hồi đó tôi gọi các đồng chí của
tôi như thế) - tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.
Còn như Đảng là gì, Công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là
gì, thì tôi chưa hiểu”1.
Ngày 17 tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Dự thảo luận
cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo.
Luận cương đã làm cho Người “rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao?” vì ở đó Người đã tìm ra được con đường cần thiết, đúng đắn cho cách

mạng Việt Nam. Người “mừng đến phát khóc lên” và ngồi một mình trong
phòng mà muốn nói to lên như nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta”2. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm
đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lê1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 126
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 127

8


nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng lao
động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”1.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc
của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với Chủ
nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt
Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều kiện
khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp
gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to lớn nhất của
Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo
con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch
của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và
đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người. Thực
hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình
cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt

cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô
hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa
thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải
phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc
là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ tịch đã từng
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 314

9


nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” 1. Và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” 2. Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam
phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”3. Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần phải
giải quyết hai nội dung cơ bản đó là: độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Trong
đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực giải quyết. Bởi
mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông đảo là công nhân và
nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là tay sai và chịu
sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi

phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải
phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu
của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải
phóng dân tộc không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã
hội. Trái lại, Người luôn quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải
giành được để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới
chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam –
một cuộc cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 56
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 152
3
C.Mác và Ph.Ăng nghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, HN, 1995, tr.628.
2

10


của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng
lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền
cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to
lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai nhiệm
vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi
cả nước hiện nay.

Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu
hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc lập bao
giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là
đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ
trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm
chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục
tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực
hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập
trung vào độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân
dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện được
hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng,
tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách
mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực
hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự

11


lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách
mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển
của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày
nay.

12


Chương 2


Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG NƯỚC TA

2.1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ cả nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 - 1954)
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã sớm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vấn đề dân tộc
bao giờ cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều có quan điểm riêng về vấn đề
dân tộc. Vào những thế kỷ XVI, XVII, XVIII, dân tộc gắn với giai cấp tư sản.
Lúc đó, giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ dân tộc chống chế độ phong kiến lỗi
thời. Thắng lợi của phong trào dân tộc lúc đó là thắng lợi của chủ nghĩa dân tộc
tư sản, thắng lợi của chủ nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang thời kỳ
đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản chẳng những là kẻ bóc lột nhân dân trong
nước, mà còn là kẻ thống trị, áp bức, bóc lột lớn nhất đối với nhiều dân tộc trên
thế giới. Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười, giai cấp công nhân,
đại biểu cho phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa,
là giai cấp duy nhất có khả năng giải quyết vấn đề dân tộc, kết hợp đúng đắn lợi
ích giai cấp với lợi ích chân chính của dân tộc. Ngày nay, dân tộc gắn liền với
giai cấp công nhân, với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nước ta cũng chịu
sự tác động của xu thế chung đó. Xác định đúng địa vị lịch sử của giai cấp công
nhân là điều kiện cốt yếu để kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sớm điều

13


đó. Người nói: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và

của cách mạng thế giới"1. Vào những năm 20 của thế kỷ này, ở Việt Nam đã có
cuộc đấu tranh giữa tổ chức tiền thân của Đảng với phong trào yêu nước mang tư
tưởng quốc gia về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Nhận rõ nguyên
nhân thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các
sĩ phu và các lãnh tụ nông dân, biết những hạn chế của những cuộc cách mạng
dân chủ tư sản, hơn nữa với sức mạnh thuyết phục của chủ nghĩa Mác-Lênin và
đường lối cách mạng kiểu mới, qua cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương,
chủ nghĩa quốc gia, phần lớn hội viên, đảng viên của Tâm Tâm Xã, Tân Việt đã
hăng hái tiếp thu tư tưởng cứu nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Vì vậy,
phong trào công nhân nhanh chóng trở thành phong trào chính trị độc lập và
phong trào yêu nước với nội dung mới đã phát triển mạnh mẽ vào năm 1929 dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 năm 1930. Đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời là biểu hiện đầy đủ về sự thống nhất giữa xu hướng
phát triển chung của thời đại và của riêng nước ta; đáp ứng đúng đòi hỏi của tư
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau, đồng thời là lực
lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo thực hiện thắng lợi tư tưởng đó. Ngay sau
khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương
chính trị , Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai
giai đoạn: trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích
cuối cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 416

14



mạng Việt Nam và đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Với đường lối chiến
lược đó, Đảng đã nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tính liên tục và
tính giai đoạn của cách mạng, khéo giải quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn
cách mạng. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, trong khi tập trung sức
người, sức của để hoàn thành nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến, Đảng
vẫn không quên tuyên truyền phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội và khi có
điều kiện, Đảng bắt tay ngay xây dựng một số cơ sở kinh tế, vừa phục vụ giai
đoạn trước, vừa gây mầm mống thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa thuộc giai
đoạn cách mạng sau. Phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội tuy là việc làm
trong tương lai, nhưng tuyên truyền và quán triệt tư tưởng đó lại có tác dụng làm
tăng thêm sức mạnh cho hiện tại vì nó đáp ứng từng bước yêu cầu của quần
chúng đông đảo là kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, mà trước
hết là công nhân và nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sức
mạnh của cách mạng dân tộc dân chủ bắt nguồn từ những nhân tố đó và chính
những nhân tố đó giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng. Đường lối nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng đã khắc phục những
hạn chế của nhiều nhà yêu nước trước đây là chưa thấy rõ con đường tiến lên của
dân tộc. Chính hạn chế đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của
phong trào giải phóng dân tộc kiểu cũ ở nước ta. Nhiệm vụ dân tộc dân chủ được
giải quyết càng triệt để thì những điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội càng được
tạo ra đầy đủ. Giải quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng là một vấn
đề quan trọng nhưng chưa phải là vấn đề khó nhất. Việc giải quyết mối quan hệ
giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến để có thể phát huy
cao độ yếu tố dân tộc mới là vấn đề phức tạp. Đảng phải mất một thời gian tương
đối dài mới đạt được sự nhất trí cao. Nguyện vọng tha thiết và trực tiếp của nhân
dân ta là dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Từ sự phân tích trên, Đảng vạch rõ

15



cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược và thống trị, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ chế độ phong kiến giành ruộng
đất cho nông dân. Hai nhiệm vụ đó phải được tiến hành khăng khít với nhau,
không được tách rời. Đó là tư tưởng đúng đắn. Về chỉ đạo chiến lược, Đảng phải
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết"
để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ dân
chủ. Trong các văn kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Chủ tịch Hồ
Chí Minh soạn thảo đã đáp ứng được điều đó. Trong khi không xa rời mục tiêu
chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tập trung lực lượng toàn dân
chống đế quốc và đại địa chủ, còn đối với "bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và
tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng trung lập"1. Về sau, Đảng còn thu hẹp hơn diện đấu tranh để thực
hiện sách lược thêm bạn, bớt thù. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phản
ánh đúng mâu thuẫn chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa toàn
thể nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc và tay sai. Tư tưởng đó đã đáp ứng yêu
cầu nắm vững ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng đánh mạnh vào âm mưu
thâm độc của chủ nghĩa đế quốc, sử dụng chủ nghĩa quốc gia chia rẽ dân tộc,
chống lại đường lối đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng đúng đắn
và sáng tạo nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nguồn từ việc khéo kết hợp
yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã hội. Sự ra đời một tư duy
mới luôn gặp khó khăn, trắc trở. Trong mấy năm đầu của lịch sử Đảng, tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh không được Quốc tế Cộng sản và Đảng ta chấp nhận
và bị thay thế bằng một đường lối "cứng rắn" dựa trên cơ sở đơn thuần vận dụng
hay quá nhấn mạnh lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thực tiễn ngày càng
chỉ rõ quan điểm "cứng rắn" đó không phù hợp với lý luận và thực tiễn của cách
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 3

16



mạng nước ta. Vừa mới ra đời, Đảng đã có thành tích lớn là phát động được cao
trào cách mạng của công - nông trong cả nước kéo dài hơn một năm, nhưng cao
trào đó cũng bộc lộ tính hẹp hòi, "tả" khuynh trong công tác vận động cách
mạng. Từ năm 1939 trở đi, tư tưởng chiến lược cách mạng trên đây của Chủ tịch
Hồ Chí Minh được Quốc tế Cộng sản và Đảng ta chấp nhận và phát triển thêm.
Hội nghị Trung ương 8 tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đã đưa ra một luận điểm mới: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được" 1. Từ đây, Mặt trận Việt
Minh được thành lập, Mặt trận có lực lượng lớn và ảnh hưởng mạnh, đã góp
phần quan trọng vào việc phát động cuộc Tổng khởi nghĩa mang tính toàn dân
dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, tiếp đến Mặt trận Liên Việt, một
trong những lực lượng bảo vệ thắng lợi chính quyền non trẻ và là cơ sở của cuộc
chiến tranh nhân dân rộng lớn chống thực dân Pháp xâm lược. Để phản ánh đúng
tư tưởng chiến lược về tính không tách rời của hai nhiệm vụ chống đế quốc và
phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải
thực hiện những yêu cầu dân chủ đối với nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II
của Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ
phản phong kiến", và thay khái niệm "cách mạng tư sản dân quyền" bằng khái
niệm "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân". Từ những thành công cũng như có
lúc sai lầm, Đảng đã rút ra bài học quan trọng về mối quan hệ giữa chiến lược và
sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và dân
chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" và "người cày có ruộng",
Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 113


17


viên được các tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyến
cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Trong quá trình cách mạng, những
nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục tiêu thích hợp với
từng thời kỳ, dựa trên sự phân tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả
năng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa
cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng lúc một. Song, dù ở bất cứ thời
kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, về cơ bản
đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều gắn liền hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Như vậy về mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn và bảo đảm cho Đảng tránh
mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
2.2. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (1954-1975)
Từ năm 1954, hoà bình được lập lại, đặc điểm lớn nhất của nước ta là tạm
thời bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ chính trị đối lập. Đảng ta nhận định
trong thời kỳ mới, việc kết hợp đúng đắn giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước cũng có tác dụng quyết định
đến thắng lợi của cách mạng miền Nam. Đảng ta phải giải quyết mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ cách mạng ở hai miền trong lúc trên thế giới chưa có tiền lệ
giải quyết thành công vấn đề này. Bên cạnh những khó khăn, cách mạng Việt
Nam cũng có nhiều thuận lợi cơ bản: cách mạng nước ta đang ở thế thắng, tinh
thần nhân dân đang hừng hực quyết tâm hơn bao giờ hết, phong trào giải phóng
dân tộc đã đánh đổ từng mảng lớn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc; lúc
đó hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang là lực lượng hùng mạnh. Trung
thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, với lợi ích dân tộc


18


và nghĩa vụ quốc tế, Đảng ta đã từng bước giải quyết mối quan hệ giữa cách
mạng hai miền. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã
quyết định đường lối cách mạng chung của cả nước: - "Một là, tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. - Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn
thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ
mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau". Về vị trí chiến lược cách
mạng của từng miền, Đảng ta xác định miền Bắc xã hội chủ nghĩa giữ vai trò
quyết định nhất của sự nghiệp cách mạng cả nước và sự nghiệp đấu tranh thống
nhất nước nhà, còn cách mạng miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ
đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà
góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống
nhất đất nước. Bởi vậy, Đảng ta coi quan điểm chờ miền Nam hoàn toàn giải
phóng, rồi cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội là không đúng. Đường lối trên
biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Lý luận cũng như thực
tiễn chứng minh đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác
nhau ở hai miền là đúng đắn. Hai chiến lược đó chẳng những không mâu thuẫn
mà còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng không chỉ căn cứ vào tình hình
miền Bắc, mà còn căn cứ cả vào tình hình miền Nam. Đảng đề ra chủ trương
đúng đắn đó vừa đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai miền Bắc - Nam, đồng
thời phát huy được tinh thần yêu nước, mở rộng mặt trận dân tộc giải phóng.
Bằng công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội ở miền Bắc, vừa bảo đảm đời sống
cho nhân dân miền Bắc, vừa tăng cường lực lượng làm hậu thuẫn và chi viện cho
cách mạng miền Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân miền Bắc phối hợp với nhân dân
miền Nam đấu tranh chống những thủ đoạn xâm lược, chiến tranh chống phá của


19


đế quốc Mỹ ở miền Nam và cả ở miền Bắc. Đảng giáo dục nhân dân miền Nam
nhận rõ vị trí quan trọng của cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam là: trực tiếp
làm thất bại mọi chính sách xâm lược và nô dịch của đế quốc Mỹ và góp phần
tích cực bảo vệ miền Bắc, bảo vệ căn cứ địa cách mạng của cả nước, tạo điều
kiện cho miền Bắc giữ được hoà bình để tiến hành thắng lợi sự nghiệp cải tạo và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đề ra nhiệm vụ, phương pháp cách mạng ở
miền Nam cũng như khi quyết định mở những trận quyết chiến chiến lược, Đảng
phải căn cứ vào tình hình miền Nam và cả tình hình miền Bắc, xem xét tác động
của những thắng lợi sẽ giành được có ảnh hưởng đối với miền Nam và cả đối với
miền Bắc. Tiến lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng mọi mặt của miền Bắc sẽ được
tăng cường nhanh chóng. Đảng có thể lãnh đạo nền kinh tế theo hướng giải
quyết khéo mâu thuẫn giữa sức người, sức của có hạn với yêu cầu ngày càng lớn
của sự nghiệp cách mạng của hai miền. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa có lực lượng
vững mạnh mới đủ sức làm tròn nhiệm vụ căn cứ địa của cả nước, đủ sức tự bảo
vệ, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, có đủ
điều kiện chi viện cho cách mạng miền Nam, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc
tế đối với hai nước Lào và Campuchia anh em. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền
Nam làm cho thế và lực của cách mạng cả nước cũng như của miền Nam không
ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng
hợp của cả nước để tiến công địch, đánh bại mọi chiến lược, chiến thuật của đế
quốc Mỹ và tay sai. Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta
rút ra những kết luận quan trọng: - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng được tiến hành đồng thời
và kết hợp chặt chẽ với nhau. - Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có
nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng


20


nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đảng khẳng định: Không thể có
thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền
Bắc xã hội chủ nghĩa.
Từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng,
Đảng ta đã giải quyết sáng tạo một loạt vấn đề lớn như đẩy mạnh cách mạng và
bảo vệ hoà bình thế giới, ở khu vực và hoà bình tương đối ở ngay miền Bắc; giữa
tiến công và bảo vệ...; bác bỏ những quan điểm hữu khuynh và phiêu lưu. Đảng
ta có khả năng và có điều kiện giải quyết vấn đề trên do đã từng hoạt động trong
những hoàn cảnh đặc biệt. Cách mạng Việt Nam đã chứng minh một tư tưởng
lớn của thời đại ngày nay là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với.
Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bài học quan trọng của
Đảng. Đảng tiếp tục quán triệt bài học đó trong giai đoạn lịch sử mới.
2.3. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, thống nhất đất nước, Đảng đã
xác định cả nước chuyển sang giai đoạn mới. Việc chuyển giai đoạn cách mạng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhưng việc làm đó không đơn giản. Mỗi nước có
cách giải quyết riêng, không có một khuôn mẫu định trước. Dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác -Lênin, dựa vào thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng nhận định:
Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách
rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì
thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội,
sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Tất
nhiên, việc chuyển cách mạng sang giai đoạn mới và việc xây dựng chủ nghĩa xã


21


hội với quy mô lớn không đồng nghĩa với nhau. Trước sau như một, Đảng ta và
nhân dân ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và nắm vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới. Đại hội lần thứ VII của Đảng nêu quyết tâm:
"Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội". Vì: "Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc". Để
thực hiện quyết tâm đó, việc làm đầu tiên của Đảng là đánh giá một cách khách
quan những thuận lợi và khó khăn của tình hình đất nước và tình hình thế giới.
Đảng phải mất một thời gian mới đi đến những nhận định tương đối đầy đủ,
thậm chí có lúc nhận thức sai lầm, nóng vội. Sức mạnh của thời đại trong giai
đoạn hiện nay là sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại;
là xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới; là các lực lượng đấu tranh cho
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, v.v.. Loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, dù lịch sử thế giới đang trải qua những
bước quanh co. Sức mạnh của dân tộc là: chính quyền thuộc về nhân dân; nước
nhà đi vào giai đoạn hoà bình xây dựng; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý
chí vươn lên mãnh liệt, nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao động
và sáng tạo; chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất ban đầu; tài
nguyên thiên nhiên nước ta tương đối phong phú, đa dạng; nước ta ở vào khu
vực phát triển kinh tế năng động, lại nằm trên các tuyến giao thông quốc tế quan
trọng. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xác định mục tiêu và giải pháp chiến
lược, những điều kiện tiên quyết để biến tiềm năng thành hiện thực, trong đó có
nhiều điểm đổi mới phải quán triệt. Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Xoá bỏ triệt để cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản


22


lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Kết
hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế
trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn
luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ chính quyền và các thành quả cách mạng. Xây dựng một nền
văn hoá mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội
dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm
công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, kết hợp tốt giữa các lợi ích: cá
nhân, tập thể và xã hội. Hình thành một cộng đồng xã hội Việt Nam, trong đó
các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng. Không
ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân,
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt và khôn khéo nhằm
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên
chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết nhiều vấn đề
khác có lợi ích toàn cầu. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện quan trọng
nhất của việc kết hợp, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tiến hành thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng bảo đảm Đảng cộng sản
Việt Nam luôn trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, đồng thời làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Những tư tưởng chiến lược nói trên của Đảng là đúng
đắn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cụ thể hoá và hoàn chỉnh những
tư tưởng đó nhằm khai thác đầy đủ nhất sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ


23


nghĩa xã hội. Đường lối kết hợp giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là một bài học lớn của Đảng ta. Với đường lối đó, Đảng ta góp phần
bảo vệ tính trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống chủ nghĩa cơ hội, chủ
nghĩa dân tộc sô-vanh. Nhờ lực lượng hùng hậu do đường lối này đưa lại, quân
và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được thắng lợi trọn vẹn trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ngày nay, tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung mới, Đảng sẽ tiếp tục tạo ra lực lượng
lớn mạnh bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn cách
mạng hiện nay là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.

24


KẾT LUẬN
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, với cách mạng Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh
hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của cả
dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai
sức mạnh thành một sức bật mới; có ý nghĩa là cội nguồn thắng lợi của cách
mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI được mở đầu bằng hình ảnh của một thế giới đầy biến động,
cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng
quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn
cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong
hành động của Đảng và nhân dân ta vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù
hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to

lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng
các nước trong khu vực và trên thế giới./.

25


×