Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về mối QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA độc lập dân tộc và CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.87 KB, 16 trang )

Mở đầu
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là kết quả của sự vận dụng, phát triển sáng tạo
nguyên lý cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối cách
mạng của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội bao gồm hệ thống quan điểm chiến
lược, sách lược chỉ đạo về lý luận chính trị, về nhận thức và hành động của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong suất tiến trình phát triển của cách mạng, từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng minh: độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội gắn bó biện chứng với nhau là hoàn toàn đúng, là chân lý của thời
đại, phù hợp với quy luật vận động và phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, cùng
với sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước xã hội
chủ nghĩa ở Đông âu, các thế lực phản động càng ra sức phản bác quy luật: độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bằng những luận điệu phản động
xuyên tạc, chúng muốn bác bỏ tính chất của thời đại, bác bỏ vai trò lịch sử của
giai cấp công nhân, coi chế độ tư bản là hoàn hảo nhất.
Vì vậy, việc nghiên cứu nắm chắc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa độc lập dân tộc và chủ ngiã xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp luận để
giải quyết đúng đắn về phương hướng, mục tiêu cách mạng Việt Nam, đồng thời
hiểu rõ nguyên nhân sâu xa về những diễn biến phức tạp của tình hình trong
nước và thế giới, bảo đảm vững chắc cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.


I. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng
đắn và khoa học của Hồ Chí Minh.
Khi xã hội loài người có sự phân chia giai cấp, thì vấn đề dân tộc bao giờ
cũng mang tính giai cấp. Vấn đề dân tộc gắn với giai cấp nào thì nội dung, tính
chất và phương hướng phát triển của giai cấp đó đều được xác định theo lập


trường, quan điểm của giai cấp thống trị. Vào thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, loài
người đã được chứng kiến những cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo phạm
trù cách mạng tư sản. Mặc dù đây là những cuộc cách mạng không triệt để,
nhưng nó đã thể hiện sự tiến bộ trong sự vận động và phát triển của xã hội loài
người. Cách mạng tư sản Anh không triệt để bởi tình trạng “cừu ăn thịt người”,
nhưng lịch sử vẫn ghi nhận đây là cuộc cách mạng mở đầu thời kỳ cận đại của
lịch sử loài người. Tiếp đó là cuộc cách mạng tư sản Mỹ (4/7/1776) với bản
tuyên ngôn “nhân quyền và dân quyền” nổi tiếng, đại cách mạng tư sản Pháp
(14/7/1789) với khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” đã có sự tác động mạnh mẽ
đến tiến trình phát triển của lịch sử thế giới. Ở Châu á, cuộc cách mạng của Nhật
Bản (1861) đã làm cho nước này phát triển rất hùng mạnh...có một vấn đề không
thể phủ nhận là giai cấp tư sản trong quá trình thống trị của mình, mặc dù chưa
đầy một thế kỷ nhưng đã tạo ra cho nhân loại những lực lượng sản suất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản suất của tất cả các xã hội trước đó cộng lại.
Đồng thời, cũng chính giai cấp tư sản đã tạo ra giai cấp đối lập với nó là giai cấp
công nhân - những người sẽ đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Cùng với những mâu thuẫn cơ bản
vốn có trong lòng xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp
tư sản, đã nảy sinh thêm một mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân, mâu thuẫn này ngày càng trở lên gay gắt
hơn. Vì vậy, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ, nhưng chưa có nước
nào giành được thắng lợi.
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam đã trở thành
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đất nước mất tự do, lớp lớp sĩ phu và đồng
bào yêu nước đã anh dũng đứng lên chống lại thực dân Pháp giành độc lập.
Song, các phong trào kháng chiến và cách mạng đều bị dìm trong bể máu. Sau
thất bại của các phong trào yêu nước, đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng
về đường lối cứu nước. Cả dân tộc chìm trong đêm dài nô lệ, tưởng chừng như

không có đường ra. Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho dân tộc, cho mỗi người dân yêu
nước Việt Nam lúc bấy giờ là phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thoát
khỏi sự thống trị của thực dân Pháp. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Aí Quốc
đã ra đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc.
Do sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, một số nước đế quốc
hiếu chiến muốn chia lại thị trường thuộc địa đã gây ra cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914 – 19180). Cuộc chiến tranh hao người tốn của ấy đã làm gay


gắt thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, đồng thời nó cũng là nguyên
nhân làm cho chủ nghĩa tư bản trở lên suy yếu, tạo điều kiện thuận lợi để cách
mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917) nổ ra và giành thắng lợi, mở ra một thời đại
mới trong lịch sử nhân loại - thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Cách mạng Tháng Mười Nga đã tạo điều kiện , tiền đề hết sức quan trọng
thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc phát triển
nhanh chóng và giành thắng lợi trong thế kỷ XX.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế cộng sản ra đời, khi tổng kết thực tiễn cách
mạng vô sản thế giới sau cách mạng Tháng Mười, tuyên ngôn thành lập Quốc tế
cộng sản chỉ rõ: công nhân và nông dân không những ở An Nam, Ăngiêri,
Bengan mà cả ở Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công
nhân các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôít Gioócgiơ và Clêmăngxô, giành
chính quyền nhà nước vvào tay mình. Năm 1928, Quốc tế cộng sản căn cứ vào
lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và những kinh nghiệm trong tổng kết cách mạng
Nga, đã phân ra 4 kiểu cách mạng, nhằm hướng dẫn giai cấp vô sản và các dân
tộc bị áp bức trên thế giới tiến hành cách mạng như sau:
- Cách mạng xã hội (tức là cách mạng vô sản) trong các xứ tư bản tiên
tiến (như ở: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý).
- Cách mạng tư sản dân quyền trong các xứ tư bản trung bình, trình độ kỹ
nghệ phát triển vừa, di tích phong kiến chưa tẩy sạch. Những cuộc cách mạng tư
sản dân quyền ở xứ ấy có thể chuyển biến sang cách mạng xã hội chủ nghĩa

( Tây Ban Nha, Aó, Nhật, Rumani, Hungari...vv).
- Cách mạng tư sản dân quyền trong các xứ thuộc địa, phụ thuộc các nước
tiên tiến, tư bản phát triển còn kém, trình độ kỹ nghệ thấp, tàn tích phong kiến
còn đầy; các cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở các xứ ấy nhờ có các xứ vô sản
chuyên chính sẽ giúp nó chuyển biến thành cách mạng xã hội chủ nghĩa ( như:
Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Ân Độ, Đông Dương ...vv).
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa kém phát triển, tư
bản chưa phát triển hay mới phát triển, kinh tế còn theo hình thức phong kiến ,
chính trị thì theo lối tù trưởng, sự thống trị của các đế quốc ở đó phần nhiều là
quân sự chiếm cứ. Cuộc cách mạng ở các xứ ấy nhờ các nước chuyên chính giúp
cho, có thể trực tiếp chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghiã mà không cần
phải trải qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa (như: Mông Cổ, Ma Rốc...).
Từ sự phân chia như trên, Quốc tế cộng sản quy định cách mạng Đông
Dương là cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng
dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến nhiều nước thuộc địa ở Châu á, Châu phi,
Mỹ la tinh...đến đâu người cũng đi sâu vào hoạt động của quần chúng, nên
người đã thấu hiểu được sự cùng cực, thống khổ của người dân mất nước. Hồ
Chí Minh hết sức quan tâm nghiên cứu, khảo sát các học thuyết cách mạng, các
cuộc cách mạng nổi tiếng trên thế giới như: cách mạng Anh (1640 – 1786), cách
mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), cách mạng Tân Hợi- Trung Quốc
(1911), cách mạng tháng Mười Nga(1917). Với các cuộc cách mạng tư sản,
người cho rằng: “Cách mệnh Pháp, cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách


mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa, dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa- cách mệnh đã bốn lần rồi mà nay công
nông Pháp hãy còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi áp bức”1.
Khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Người hướng theo con
đường cách mạng do Lênin tổ chức và lãnh đạo. Người nói: “ Trong thế giới bây

giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do, bình
đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang, lừa dối ở bên An
Nam...cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng, muốn cách mệnh thành công thì
phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải
hy sinh, phhải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin”2.
Như vậy, sau gần 10 năm tìm tòi, khảo sát thực tế Hồ Chí Minh đã tin và
đi theo con đường cách mạng vô sản. Từ khi trở thành chiến sỹ cộng sản, Hồ
Chí Minh luôn trung thành và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình
vận động cách mạng. Nhưng cái mới và xuất sắc ở Hồ Chí Minh là người đã vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin, nhất là lý luận cách mạng không
ngừng và đường lối của Quốc tế cộng sản vào điều kiện cụ thể ở nước ta, vạch
ra đường lối chiến lược, sách lược độc lập, sáng tạo cho cách mạng Việt Nam.
Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn
thảo (02/1930), người chỉ rõ: “ chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”3.
Như vậy, Hồ Chí Minh không chọn kiểu cách mạng thứ ba – cách mạng
tư sản dân chủ hoặc kiểu cách mạng thứ tư – cách mạng giải phóng dân tộc mà
người đã sáng tạo ra một kiểu cách mạng thuộc địa, có nội hàm chứa đựng cả
bốn kiểu cách mạng mà Quốc tế cộng sản đã xác định, đó là cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, cũng như
chủ nghĩa tư bản thay thế xã hội phong kiến, đó là một tất yếu của lịch sử. Tuy
nhiên, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không thể chỉ một
sớm, một chiều và chỉ có một khuân mẫu duy nhất, mà nó tùy thuộc vào trình độ
phát triển của từng quốc gia, dân tộc.
Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành chiến sỹ cộng sản Hồ

Chí Minh đã khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng các dân tộc một cách hoàn toàn và triệt để, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
đem cứu nhân loại, đem lại cho con người tự do, bình đẳng, mang lại ấm no,
hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Từ nhận thức đó, Nguyễn Aí Quốc - Hồ Chí
Minh đã lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t2, tr272
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t2, tr280
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t1, tr1
1
2


Tháng Mười Nga – con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo tư
tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở những vấn đề cơ bản sau đây:
1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết của cách mạng giải phóng dân
tộc, là điều kiện, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề độc lập dân tộc luôn gắn liền với sự tồn vong và phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc. Độc lập dân tộc luôn là nguyện vọng chính đáng của mọi
người dân sống trong cộng đồng dân tộc; nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột của kẻ thù xâm lược.
Độc lập dân tộc chính là cơ sở, tiền đề không thể thiếu nhằm giữ vững mối quan
hệ ngoại giao với các dân tộc khác, nó là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, dân
tộc.
Thực tiễn và kinh nghiệm lịch sử cho thấy,sự tồn vong và phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc đều gắn liền với việc giữ vững độc lập và chủ quyền của
quốc gia, dân tộc ấy. Sống trong độc lập tự do là nguyện vọng thiết tha của mọi
người dân sống trong cộng đồng dân tộc. Giành và giữ quyền độc lập của tổ

quốc luôn là mối quan tâm thường trực của mỗi người dân. Việc tôn trọng độc
lập chủ quyền quốc gia đã trở thành nguyên tắc và điều kiện tiên quyết để thiết
lập và duy trì mối quan hệ bang giao giữa các nước. Trong bản Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh cho chế độ cộng hòa ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh
trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thể nhân dân thế giới về chủ
quyền độc lập của đất nước: mọi người dân đều có quyền hưởng tự do và độc
lập, toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết cả tính mạng và của cải để giữ
vững nền tự do, độc lập đã đổi bằng xương máu giành được.
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người nhấn
mạnh: “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
Trong Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước, được phát trên đài phát thanh Tiếng nói
Việt Nam, ngày 17-7-1966, Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh: “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”. Đây là một sự khẳng định chân lý của thời đại, thể hiện quyết
tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Câu nói nổi tiếng ấy đã đi
vào lịch sử của dân tộc, có sức cổ vũ và quy tụ nguồn sức mạnh của cả dân tộc
vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đây cũng là sự thể hiện nổi
bật của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc chính là cái đích trực tiếp của công cuộc giải phóng dân
tộc, đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bất công, xóa bỏ sự đô hộ và xâm lược từ bên
ngoài, khẳng định sự tồn tại và phát triển của dân tộc, bảo đảm cho dân tộc đó
có hòa bình, ổn định bền vững về chính trị, kinh tế, sự thống nhất về lãnh thổ và
chủ quyền quốc gia, sức mạnh độc lập và tự chủ trong việc lựa chọn và quyết
định con đường phát triển của dân tộc mình trong mối quan hệ hợp tác bình
đẳng với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới. Vấn đề này đã từng diễn ra
trong lịch sử khi quốc gia dân tộc đã hình thành và trải qua các thời kỳ hưng
thịnh và suy vong của các triều đại phhong kiến cũng như trong lịch sử hiện đại


và đương đại, với sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân cũ và mới.

Khi giải quyết vấn đề độc lập dân tộc dưới ảnh hưởng của ý thức hệ
phong kiến và tư sản, trong khuân khổ chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa,
không tránh khỏi những mâu thuẫn và hạn chế nhất định, do bản chất kinh tế,
chính trị của chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa- những hình thái dựa trên
các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các mối quan hệ đối kháng giai cấp
gây nên.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã mở ra một thời kỳ
mới, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trong thực tế với tư cách là một xã
hội mới, nằm trong hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa, khác hoàn toàn
về chất so với các hình thái kinh tế-xã hội trước đó. Đây là thời đại cho phép
thực hiện bước quá độ lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, bao gồm
cả khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa
đối với các nước kém phát triển, nhờ những thuận lợi khách quan mà thời đại
mới mở ra.
Thời đại của cách mạng vô sản, của sự phát triển tới chu nghĩa xã hội là
một tất yếu của lịch sử, đã đem lại sự mới mẻ và triệt để trong quan niệm cũng
như phương pháp giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Vượt qua những hạn chế
trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường tư sản và phong
kiến, chỉ có thể con đừờng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, nghĩa là
giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây chính là điểm mấu chốt thể hiện sự trung thành
và vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh.
Tính chất mới mẻ và triệt để này được thể hiện ở những vấn đề cơ bản sau
đây:
- Độc lập dân tộc thực sự phải bảo đảm cho dân tộc có quyền tự quyết
không lệ thuộc vào nước ngoài trong việc lựa chọn, quyết định chế độ chính trị,
lựa chọn con đường và mô hình phát triển cho đất nước mình. Do đó, mỗi quốc
gia, dân tộc, độc lập cũng có nghĩa là độc lập thực sự về chính trị và kinh tế. Đó
chính là cơ sở để mỗi quốc gia dân tộc độc lập về văn hóa, giữ vững được bản
sắc văn hóa của dân tộc mình.

- Độc lập dân tộc đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô dịch
của dân tộc này với dân tộc khác cả về chính trị, văn hóa và tinh thần. Vì vậy,
độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do và bình đẳng. Độc lập dân tộc phải bảo
đảm chủ quyền của mỗi dân tộc trong các quan hệ quốc tế, phải được thừa nhận
về pháp lý quốc tế và được khẳng định trong thực tế. Đó là chủ quyền của một
quốc gia độc lập, có sự thống nhất và toàn vẹn về lãnh thổ, những công việc nội
bộ của quốc gia dân tộc ohải do chính quốc gia dân tộc đó giải quyết và quyết
định, không có sự can thiệp từ bên ngoài vào.
- Sự trao đổi, hợp tác về kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên
tắc bình đẳng và cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền của nahu, cùng đóng góp vào
lợi ích chung vào hòa bình và hòa nghị giữa các dân tộc, vì một thế giứoi không
có chiến tranh, không có sự haònh hành của cái ác, sự tàn bạo và bất công, bảo


đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc. Do đó, đấu tranh cho độc
lập của mỗi dân tộc thống nhất hữu cơ với mục tiêu chung của mỗi thời đại, của
tất cả các cộng đồng dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Các xã hội dựa trên sự duy trì tình trạng áp bức, bóc lột do chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, và do những mâu thuẫn đối kháng về giai cấp,
sẽ không bao giờ có thể giải quyết triệt để được vấn đề độc lập dân tộc. Giai cấp
hong kiến và giai cấp tư sản luân xuất phát từ lợi ích và quyền lực thống trị của
họ để hướng cuộc đấu tranh giành độc lập chủ quyền quốc gia vào mục đích
thực hiện lợi ích và duy trì quyền lực của mình trong xã hội. Trong lịch sử đã
từng diễn ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa do giai cấp tư sản và phong kiến
gây ra nhằm bành chướng lãnh thổ, mở rộng thuộc địa, áp bức bóc lột dân tộc
khác nhằm thỏa mãn tham vọng về của cải và quyền lực. Để có thể tiến hành các
cuộc chiến tranh, giai cấp phong kiến và tư sản thường sử dụng lợi ích dân tộc,
nhân danh lợi ích dân tộc, biến cả dân tộc mình thành công cụ, phương tiện,
thành tấm lá chắn. Điều đó giải thích vì sao giai cấp phong kiến và tư sản không

chỉ mâu thuẫn và xung đột với nhân dân và dân tộc trong nước, mà còn gây mâu
thuẫn, xung đột với các dân tộc khác ở bên ngoài, làm tổn hại đến nền độc lập tự
do của nước mình, đồng thời chà đạp lên chủ quyền quốc gia và độc lập cua các
quốc gia dân tộc khác.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã nhấn mạnh rằng, chỉ đứng
trên lập trường giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới có thể giải quyết đúng
đắn vấn đề độc lập dân tộc. Đó là thực hiện sự thống nhất chân chính giữa lợi
ích của dân tộc này với dân tộc khác. Xóa bỏ triệt để tình trạng áp bức dân tộc,
để thực sự có độc lập cho dân tộc; bảo vệ nền độc lập cho dân tộc mình phải
thống nhất với việc tôn trọng chur quyền của dân tộc khác. Chỉ có giai cấp vô
sản với bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của nó mới có thể thực hiện
được yêu cầu trên. Giai cấp vô sản trong khi tự mình giải phóng khỏi tình trạng
nô lệ của mình, đồng thời cũng giải phóng luôn cả xã hội, tiến tới xây dựng một
xã hội không có áp bức, bóc lột, đảm bảo cho mọi người có quyền tự do và làm
chủ, một xã hội mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân lao động.
Chỉ có cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo mới gắn liền với
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tức là thực hiện
độc lập tự do cho dân tộc, thực hiện sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội
trong độc lập tự do. Mục đích đó được thực hiện nhất quán từ cơ sở kinh tế xã
hội và chính trị của cách mạng vô sản. Đó là chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, nhờ đó mà xóa bỏ được tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột. Đó còn là nhà
nước mang bản chất giai cấp công nhân, thực hiện và bảo vệ quyền lợi của nhân
dân lao động, một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Nó thay thế cho
nhà nước trước đó vốn chỉ là công cụ của một nhóm xã hội thuộc giai cấp thống
trị để bóc lột và áp bức nhân dân lao động. Chính bằng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về tay nhân dân, nó thay thế cho nền
dân chủ tư sản, vốn chỉ là một thiết chế bảo đảm quyền lực của giai cấp tư sản.


Như vậy, lợi ích giai cấp công nhân phù hợp và thống nhất với lợi ích của

nhân dân lao động, của cả dân tộc và toàn xã hội; giải phóng giai cấp công nhân
gắn liền với giải phóng xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng quốc gia
dân tộc theo mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội. Đó là cơ sở phản ánh bản chất
của giai cấp công nhân, bảo đảm cho dân tộc có độc lập thực sự, đồng thời nền
độc lập dân tộc ấy chỉ thực sự bền vững trên con đường phất triển đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là điều kiện, tiền đề để bảo đảm cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người khẳng định, cách mạng
Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa, giữa hai cuộc cách mạng đó không có bức tường
ngăn cách, mà gắn bó mật thiết với nhau. Giai đoạn thứ nhất nhằm mục tiêu trực
tiếp trước mắt là “độc lập dân tộc” và “ruộng đất dân cày”, coi đó là điều kiện
tiên quyết để đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, chúng ta chỉ có thể đi lên chủ nghĩa
xã hội khi đã giành được chính quyền về tay nhân dân, lực lượng đông đảo nhân
dân đã đựơc giải phóng. Mặt khác, trong cách mạng dân tộc dân chủ, bên cạnh
nhiệm vụ đánh đế quốc để giải phóng dân tộc, nhiệm vụ dân chủ phải được tiến
hành đồng thời, bảo đảm vừa thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, vừa chuẩn
bị những tiền đề cần thiêt phục vụ cho giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội sau
này. Như vậy, độc lập dân tộc vừa là mục trực tiếp trước mắt của cách mạng
dân tộc dân chủ, là điều kiện, tiền đề để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, do vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
không chỉ phủ nhận mọi quan hệ sản xuất tư sản trên phạm vi toàn thế giới.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
diễn ra trong phạm vi từng quốc gia, nhưng đều có mối quan hệ và ý nghĩa quốc
tế sâu sắc. Lô gíc phát triển của cuộc cách mạng này không chỉ dừng lại ở việc
xóa bỏ tình trạng đối kháng giai cấp mà còn tiến tới xóa bỏ sự phân chia xã hội
thành giai cấp, xóa bỏ cả sự tồn tại của nhà nước.
2. Chủ nghĩa xã hội là con đường chắc chắn nhất để bảo vệ và phát triển
thành quả của độc lập dân tộc.
Lựa chọn con đường phát triển chủ nghĩa xã hội sau khi giành được độc

lập dân tộc là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của các quốc gia dân tộc trong thời
đại ngày nay, phù hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển của lịch sử
xã hội loài người. Bản chất xã hội chủ nghĩa là thực hiện triệt để việc giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Chủ nghĩa
xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế
sinh ra áp bức con người về chính trị và sự nô dịch của con người về tinh thần.
Khi đề cập đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa MácLênin đã khẳng định: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một
trạng thái phải sáng tạo ra. Không phải là một lý tưởng mà hiện thực cần phải
khuôn theo”. Trên cơ sở nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và
nghiên cứu sâu sắc tình hình thực tiễn ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phác thảo
những nét cơ bản về chế độ xã hội chủ nghĩa bằng cách trình bày dung dị, mộc


mạc mang tính đại chúng rất phù hợp với nhận thức của người dân Việt Nam.
Người xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là con đường duy nhất để
giải phóng nhân loại một cách triệt để. Theo tư tưởng của Người, những đặc
trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội có thể được khái quát trên những nội dung
chủ yếu sau đây:
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng
tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dưng dựng chủ nghĩa xã hội. Người khẳng
định: “...Chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân
lao động làm chủ”1. Quyền làm chủ thuộc về nhân dân, dân là chủ, cán bộ là đầy
tớ.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động. Theo Hồ Chí Minh: “ Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,
...vv làm của chung”2, đồng thời chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển của

khoa học kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân.
- Chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, con người
được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống tinh thần phong phú, có điều
kiện để phát triển hết mọi khả năng của mình. Bởi vì “chỉ chế độ xã hội chủ
nghĩa thì mọi người có điều kiện cải thiện đời sống của mình, phát huy tính cách
riêng và sở trường riêng của mình”3
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng, hợp lý, “một xã hội không có
chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động
và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không
làm không hưởng”4, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến
kịp miền xuôi,...
- Chủ nghĩa xã hội là của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh
đạo của Đảng: “Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân lao động xây dựng
nên”, “đó là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng”5.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một chế độ ưu việt nhất
trong lịch sử nhân loại, đó là xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, đạo đức và
văn minh. Quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội là một quan niệm khoa
học, hoàn chỉnh và hệ thống, dựa trên nguyên lý chủ yếu của chủ nghĩa MácLênin, phù hợp với đặc điểm truyền thống của nước ta.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, các cuộc cách mạng tư sản
chỉ nhằm xác lập và duy trì quyền lực của giai cấp tư sản và bảo vệ sự tồn tại
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng chỉ đạt được ý nghĩa tiến bộ
trong giai đoạn đầu khi giương ngọn cờ chống chế độ phong kiến quân chủ
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t9, tr 291
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t8, tr. 226
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t9, tr. 291
4 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t9, tr. 291
5 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t9, tr23
1
2



chuyên chế, giải phóng giai cấp tư sản, hình thành dân tộc tư sản và thiết lập chế
độ độ cộng hòa nhà nước tư sản và chế độ dân chủ tư sản. Độc lập dân tộc giành
được trong cách mạng tư sản, chỉ mở đường cho giai cấp tư sản xác lập vững
chắc quyền lực thống trị của nó, chứ không phải là để giải phóng con người và
xã hội khỏi áp bức, bóc lột. Do đó, chủ nghĩa tư bản , giai cấp tư sản và cách
mạng tư sản chỉ thực hiện độc lập dân tộc một cách có giới hạn, không triệt để.
Độc lập dân tộc tư sản không những không thủ tiêu áp bức bóc lột, mà nó còn
duy trì và phát triển đến trình độ hiện đại của tình trạng áp bức và bóc lột tư sản
đối với giai cấp công nhân, nông dân và mọi tầng lớp lao động làm thuê khác
trong xã hội tư sản. Chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành chiến tranh xâm lược để tìm
kiếm thị trường và thuộc địa. Từ chỗ đặt ách thống trị về kinh tế để khống chế
và tạo sự thống trị về chính trị đối với các dân tộc khác, giai cấp tư sản và chur
nghĩa tư bản chỉ có thể tạo ra một hình thức độc lập dân tộc hình thức, giả dối và
luôn có điều kiện với các quốc gia dân tộc mà nó khống chế. Chủ nghĩa tư bản
cổ điển ở thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản hiện đại ở thế kỷ XX, tuy có sự thay
đổi về hình thức, song bản chất của nó không hề thay đổi. Chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới xóa bỏ được cảnh nô lệ làm thuê cho tư bản chủ nghĩa, mở đường đi tới
tự do thực sự cho mọi người dân lao động và một nền độc lập thực sự cho các
dân tộc. Sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh là hoàn
toàn đúng đắn, hợp quy luật và được kiểm nghiệm qua hiện thực xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta qua 80 năm qua.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc đi
đến sự phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú về văn hóa tinh thần, thực
hiện sự đầy đủ nhất về quyền lực của nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử, chỉ
với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới cái giá trị đích thực của nó, đó
là hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lợi cho mọi người dân lao động, làm cho
mợi thành viên trong cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc
sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú.

Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng khả
năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình trạng nô lệ, bị phụ thuộc,
bị áp bức, bóc lột và bị nô dịch; bảo đảm cho dân tộc đó vượt qua tình trạng đói
nghèo, lạc hậu và tụt hậu so với các dân tộc khác trên thế giới ngày nay và ngày
càng vươn lên đỉnh cao của sự giàu có, văn minh, hiện đại, công bằng và bình
đẳng, trong các mối quan hệ giữa con người với con người cũng như giữa cộng
đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Những khả năng và điều kiện đó
chỉ có thể tìm thấy và gải quyết bằng con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Mặt khác, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình kết hợp xây
dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
nhằm xây dựng một xã hội phát triển toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội,v.v...tạo cơ sở vững mạnh cho việc bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển
những thành quả của công cuộc giải phóng dân tộc. Bởi vậy, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “ Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no


trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui hòa bình, hạnh
phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư
bản chủ nghĩa cho tới nay chỉ là những bức tường dài ngăn cản những người lao
động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách
mạng đã cảm nhận một cách sâu xa: đất nước có độc lập mà nhân dân vẫn trong
cảnh đói nghèo, thiếu ăn, thiếu mặc, thì độc lập ấy có ý nghĩa gì? Người chỉ rõ:
thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng nghèo nàn lạc hậu còn khó
hơn nhiều.
Cái lớn lao của tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát hiện thấy:
muốn cứu nước, giải phóng dân tộc để có độc lập tự do thì không có con đường
nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới

giải phóng triệt để cho dân tộc, mới thực hiện giải phóng giai cấp vô sản và giải
phóng dân tộc, mới bảo đảm một cách thực chất độc lập, tự do. Độc lập dân tộc
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay,
việc thấm nhuần quan điểm “gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta có ý nghĩa lý luận và thực tiên vô cùng to lớn.
III. Thực tiễn – Sự kiểm nghiệm tính đúng đắn của lý luận cách mạng
Hồ Chí Minh
Trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, ở nước ta có nhiều sĩ
phu yêu nước đứng lên lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng giành độc lập
dân tộc. Tuy nhiên, trước Hồ Chí Minh , chưa có vị lãnh tụ nào có lập trường
cách mạng toàn diện, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Có người chủ
trương đánh đuổi thực dân Pháp nhưng vẫn duy trì chế độ phong kiến ( Phan
Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám...). Có người chủ trương dựa vào tư bản Pháp để
xóa bỏ chế độ phong kiến sau đó mới đánh đuổi đế quốc thực dân pháp. Có
người muốn áp dụng Chủ nghĩa tam dân của cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc.
Cũng có những người mong muốn có một chế độ như ở Nhật bản,...Trong tất cả
những nhà ái quốc ấy, không có ai chú ý đến vấn đề ruộng đất cho dân cày, chưa
đánh giá đúng vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và sức mạnh cách mạng
của liên minh công nông.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng
về đường lối cứu nước ở Việt Nam. Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Hồ
Chí Minh đã phân tích rất sâu sắc tính chất xã hội ở Việt Nam là một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội đó, thực dân Pháp thực hiện chính sách
độc quyền về kinh tế, làm cho “tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản
Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở
mang được”2. Đế quốc thự dân Pháp đã “chiếm ruộng đất của nông dân để lập
đồn điền làm cho nông dân mất hết ruộng đất và lâm vào cảnh tuyệt vọng.
Chúng tìm mọi cách để bóp nặn nhân dân ta...một mặt chúng dùng bọn phong
kiến An Nam, bọn đại tư sản phản cách mạng và bọn địa chủ để áp bức, bóc lột
1

2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t1, tr461
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t3, tr1


nhân dân An Nam. Mặt khác, chúng khám xết nhà cửa, bắt bớ, giam cầm và giết
hại những người cách mạng An Nam; chúng hy vọng dùng khủng bố trắng tiêu
diệt cách mạng An Nam”1.
Thực trạng đó làm cho xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản
và ngày một rở lên gay gắt: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế
quốc thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân lao đông, chủ yếu
là nông dân với bọn địa chủ, phong kiến. Để giải quyết được triệt để hai mâu
thuẫn đó, đò hỏi nhân dân tâ phải tiến hành đấu tranh cách mạng đánh đổ cả ba
đối tượng là: thực dân Pháp; tầng lớp địa chủ và phong kiến đương quyền và
tầng lớp đại tư sản phản cách mạng ôm chân đế quốc.
Khi đánh giá về lực lượng cách mạng, cương lĩnh khẳng định giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân là hai giai cấp cơ bản bị đế quốc Pháp và tay sai
áp bức, bóc lột nặng nề nhất. Nhưng đó lại là hai động lực chính bảo đảm cho
cách mạng Việt Nam. Còn đói với tầng lớp “tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
thanh niên, Tân Việt... Hồ Chí Minh chủ trương “hết sức liên lạc” để kéo họ về
phe vô sản giai cấp”. Người còn chủ trương lôi kéo tầng lớp phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng. Trong khi coi
tư sản bản xứ là một bộ phận cả lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh nêu rõ
nguyên tắc của Đảng là khi đoàn kết với các bộ phận trên không được nhân
nhượng quá mức mà “đi vào con đường thỏa hiệp”. Về quan hệ quốc tế, trong
khi xác định cáh mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ trong khi tuyên truyền cací khẩu hiệu nước An Nam
độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô
sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản Pháp”2.

Rõ ràng, ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh trực
tiếp khởi thảo và thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng đã thể hiện một
đường lối cách mạng triệt để. Tính chất cách mạng và triệt để được thể hiện
trong toàn bộ những vấn đề cơ bản về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, về việc xác định đúng tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng; xác
định và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến; xác định mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách mạng: giải phóng dân
tộc, xây dựng chế độ dân chủ và từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, xác diịnh
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, lực lượng to lớn của cách mạng là gai
cấp nông dân, xác định vị trí to lớn của khối liên minh công nông-trí thức, đó là
nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất; xác định cách mạng Việt Nam là một
bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới, nhưng phải chủ động giành
lấy thắng lợi, không được ỉ lại vào sự giúp đỡ của cách mạng vô sản thế giới...
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo đã thể hiện sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Quốc tế
cộng sản về cách mạng ở Đông Dương. Trong sự vận dụng sáng tạo đó của Hồ
Chí Minh, có những vấn đề thuộc về lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở các
nước thuộc địa mà Lênin và Quốc tế cộng sản có đề cập nhưng chưa sâu. Hơn
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t3, tr8-9
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t3, tr3


nữa, Đại hội lần thứ VI của Quốc tế cộng sản được tiến hành trong hoàn cảnh
đang phải chống lại những “tư tưởng tả khuynh, cơ hội, bè phái...”. Do đó đường
lối cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh bị đánh giá là “hữu khuynh”, bị coi là
không tuân thủ các nguyên tắc của Quốc tế cộng sản. Vì vậy, Quốc tế cộng sản
đã chỉ đạo trung ương Đảng ta tổ chức họp Hội nghị làn thứ nhất (10/1930) ra

quyết nghị thủ tiêu Chính cương, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng; đổi tên
Đảng thành Đảng cộng sản Đông Dương; quyết định lấy Nghị quyết và thư
Quốc tế cộng sản để thi hành trong Đảng...
Mặc dù Hồ Chí Minh bị Quốc tế cộng sản phê bình là “dân tộc chủ nghĩa”
và cương lĩnh của Đảng bị thủ tiêu, nhưng giá trị lý luận và thực tiễn của nó đã
ăn sâu, bám rễ vào phong trào cách mạng ở nước ta và được quần chúng nhân
dân đón nhận với một khí thế hồ hởi, nhiệt thành cao. Kết quả đó, sau bảy năm
khảo sát, nghiên cứu ( 1930-1938), Quốc tế cộng sản đã đánh giá “đồng chí
Nguyễn Aí Quốc (tức Hồ Chí Minh) không phạm sai lầm chính trị” và đã quyết
định cử người về trực tiếp lãnh đạo cách mạng Đông Dương.
Khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào Cách mạng Việt Nam. Hồ
Chí Minh đã có điều kiện thuận lợi để thực thi Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng và vận dụng một cách sáng tạo vào tình hình thực tiễn ở nước ta. Tháng
5/1941, người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám. Trong Hội nghị
quan trong này, Hồ Chí Minh đã tiếp tục chủ trương giải phóng dân tộc, đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước tiên, đồng thời từng bước kết hợp với
nhiệm vụ dân chủ cho nhân dân. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ
trương xây dựng thàh công mặt trận Việt Minh, đoàn kết toàn dân trên nền tảng
liên minh công nông và trí thức đưa cách mạng tháng Tám (1945) đến thắng lợi,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- nhà nước công nông đầu tiên ở
khu vực Đông Nam châu Á.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1946 đến năm
1954, tiếp tục thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và dân chủ, làm tiền đề từng
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau thắng lợi của kháng chiến chống thực dân
Pháp, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được hoàn thành trên một nửa nước.
Khi có hào bình và độc lập tự do, miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân còn kéo dài suất 21 năm (từ 1954 đến 1975) để giành độc lập dân tộc,
đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và các thế lực ngụy
quyền đậi diện cho lợi ích giai cấp phong kiến, tư sản ở miền Nam. Sau khi

miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
nước ta đựơc hoàn thành, cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Như vậy, trải qua vô vàn khó khăn, thử thách, cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã được toàn dân hưởng ứng
thực hiện với tình cảm và trách nhiệm cao nhất, cùng với sự giúp đỡ tận tình
của bè bạn quốc tế đã tạo nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ở thế kỷ XX.
Từ thực tiễn cách mạng đã chứng minh đường lối cách mạng do Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta lựa chọn là hòan toàn đúng đắn, đó là giải quyết vấn đề


độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, là đặt cách mạng giải
phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản. Gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội là con đường phát triển duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt
Nam.
IV. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn iền với
chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suất tiến
trình cách mạng Việt Nam. Đó là chân lý của thời đại được cách mạng Tháng
Mười Nga đúc rút và tổng kết. Nếu không giành độc lập từ tay thực dân, đế quốc
thì không có đất để dựng nước; đồng thời chỉ có xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của
nhân dân, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc thuộc
địa đấu tranh tự giải phóng, cùng nhau tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nguồn sức mạnh vô tận cho phong
trào cách mạng Việt Nam, sức mạnh đó là do có sự tác động biện chứng giữa hai
yếu tố: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa dân tộc và thời đại. Nếu tách
riêng các yếu tố thì không thì không thể thấy hết được vị trí, tầm quan trọng của
nó, không thấy nguồn sức mạnh tiềm ẩn trong đó, đồng thời dễ có nguy cơ lâm

vào những sai lầm “tả khuynh” hoặc “hữu khuynh”. Vì vậy, việc kết hợp đúng
đắn độc lập dân tộc vơi chủ nghĩa xã hội là vấn đề có ý nghĩa lớn cả về lý luận
và thực tiễn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự vận
dụng sáng tạo nguyên lý cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể ở Việt nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nguyên lý
này đã trở thành lý luận, chiến lược, sách lược trong cuộc đấu tranh nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hành dân chủ được
phương triệt để và thắng lại bao nhiêu thì sự nghiệp giải phóng giai cấp công
nhân, nhân dân lao động, giải phóng xã hội, giải phóng con người càng thuận lợi
và thắng lợi bấy nhiêu. Hơn nữa, nếu giai cấp công nhân và nhân dân lao động
được giải phóng cả về chính trị và kinh tế, thì độc lập dân tộc sẽ trở lên bền
vững hơn bao giờ hết. Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước
thuộc địa trong đó có Việt Nam giành được độc lập, khi đó “họ sẽ hình thành
một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại
của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ người anh em mình
ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”1.
Một bài học thực tiễn phong phú được rút ra là: khi Đảng cộng sản đã
nắm quyền lãnh đạo cách mạng không bao giờ rời bỏ ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Cách mạng càng tiến lên và thắng lợi bao nhiêu thì ngọn cờ
dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội càng được giương cao, đồng thời, ngọn cờ
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội càng được giương cao bao nhiêu thì sức
mạnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và uy tín của Đảng càng được
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t1, tr36


nâng cao bấy nhiêu và sự nghiệp đổi mới để xây dựng thành công chủ nghĩa xã

hội, chủ nghĩa cộng sản càng giành được thắng lợi bấy nhiêu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mãi mãi là
ngọn cờ bách chiến, bách thắng của cách mạng Việt Nam.
80 năm qua, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã biến nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến thành
một nước độc lập, thống nhất, nhân dân được tự do, xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đó chính là thành tựu cách mạng hết sức
to lớn không ai có thể phủ nhận được.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, thực hiện công cuộc đổi đất nước,
chúng ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của người về chủ nghĩa xã hội là: chủ
nghĩa xã hội là làm cho mọi người ai ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành, được chữa bệnh, tiến dần từ ăn tạm đủ no, mặc tạm đủ ấm, không còn
người mù chữ đến ăn ngon, mặc đẹp, trình độ kiến thức nâng cao theo kịp sự
phát triển của sự phát triển của nền văn minh thế giới, con người được phát triển
toàn diện, phát huy được khả năng, trí tuệ của mình phục vụ tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Với tinh thần đó, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, đến nay đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế đất nước tăng trưởng
ổn định, lạm phát được ngăn chặn, đời sống nhân dân không ngừng được cải
thiện và nâng cao. Quan hệ quốc tế được mở rộng, tạo được thế đứng mới của
đất nước trên trường quốc tế...Sở dĩ đạt được những thành tựu to lớn như trên là
vì Đảng ta luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên
cứu và phát triển kho tàng tư duy Hồ Chí Minh vào trong sự nghiệp đổi mới đất
nước.
Tuy nhiên, trước sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu đã nảy sinh nhiều vấn đề về nhận thức lý luận đối với chủ nghĩa Mác-Lênin
và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân xuất
hiện nhiều nhận thức khác nhau. Lợi dụng thực tế đó, các thế lực phản động, thù
địch đã ra sức tiến công quyết liệt, hòng thủ tiêu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và chủ nghĩa xã hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng,

chúng ra sức tuyên truyền về sự “kết thúc” của chủ nghĩa xã hội, về “sự cáo
chung” của chủ nghĩa Mác-Lênin...qua đó, chúng muốn làm lung lay nền tảng
tư tưởng của chúng ta, làm chệch hướng chúng ta trong sự nghiệp đổi mới.
Chúng cho rằng, Liên Xô và Đông Âu là thành trì của chủ nghĩa xã hội đã sụp
đổ, tất yếu các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng sẽ lâm vào khủng hoảng và sụp
đổ, hệ thống chủ nghĩa xã hội sẽ bị xóa sổ, và như vậy thì những nguyên lý chủ
yếu của chủ nghĩa Mác-Lênin là sai lầm, là đi ngược lại với xu thế phát triển của
thời đại. Đối với Hồ Chí Minh, chúng ho rằng, tư tưởng của người chỉ là sự lặp
lại tư tưởng của Lênin nên không khỏi mắc phải những sai lầm, làm cản trở sự
phát triển tất yếu của lịch sử.
Vì vậy, mọi người dân Việt Nam, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên
cần nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, thấy rõ những luận điểm xuyên tạc,
vu khống, phản bác chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế


lực phản động. Tích cực đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, coi đây là sự nghiệp của toàn dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm cho chúng ta tiến
bước vững chắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Kết luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta và nhân dân tiến bộ trên thế
giới một tài sản vô giá là tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã mở ra một thời đại
mới trong lịch sử dân tộc nước ta – thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Mỗi chúng ta cần phải ra sức học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng
của người trên từng cương vị công tác, góp phần tích cực xây dựng cơ quan, đơn
vị vững mạnh.
Tự hào được sống dưới thời đại Hồ Chí Minh, với niềm tin tưởng, phấn
khởi trước những thắng lợi cử sự nghiệp đổi mới đất nước. Mỗi chúng ta hãy
xứng đáng là những chủ nhân của đất nước! Hãy đi theo con đường mà Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã vạch ra. “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác
Hồ vĩ đại”, “Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
là khẩu hiệu hành động cho các thế hệ người Việt Nam cả hôm nay và mai sau.



×