Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về VAI TRÒ của NHÂN tố CHÍNH TRỊ TINH THẦN TRONG CHIẾN TRANH NHÂN dân bảo vệ tổ QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.84 KB, 27 trang )

HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CHÍNH TRỊ - TINH THẦN
TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VIỆT NAM
Chiến tranh bao giờ cũng vận động theo quy luật hết sức nghiệt ngã là mạnh
được yếu thua. Quy luật hiển nhiên này, mọi người đã rõ. Tuy nhiên, việc nhận
biết thế nào là mạnh, thế nào là yếu lại không đơn giản chút nào; việc đánh giá so
sánh lực lượng giữa các bên tham chiến nhiều khi rất khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau và trong nhiều trường hợp đến khi kết thúc chiến tranh người ta mới
có thể có được kết luận rõ ràng bên nào mạnh, bên nào yếu, nhân tố nào là nhân tố
quyết định sự thắng thua.
Có những luận thuyết đề cao sức mạnh quân sự đơn thuần, nhấn mạnh vai
trò của vũ khí kỹ thuật, coi đó là yếu tố quyết định. Nhưng cũng lại có những quan
điểm nhìn trong sâu thẳm sức mạnh của con người và cho rằng, con người bao giờ
cũng là nhân tố quyết định trong mối quan hệ với vũ khí kỹ thuật, nhân tố chính trị
- tinh thần là nhân tố “rốt cuộc” quyết định thành bại trong chiến tranh. Những
quan điểm khác nhau trong đánh giá vai trò của các nhân tố trong chiến tranh tất
yếu dẫn đến sự khác nhau về tư tưởng chỉ đạo chiến tranh, nghệ thuật, phương thức
tiến hành chiến tranh, cách đánh ..., phản ánh sự khác nhau căn bản, sự đối lập
nhau về nguyên tắc giữa hệ tư tưởng quân sự tư sản và hệ tư tưởng quân sự vô sản.
Việc đánh giá vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành sức mạnh chiến tranh
không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà đòi hỏi phải có thái độ thật sự khách
quan và được dựa trên phương pháp khoa học chắc chắn. Sự thành bại, thắng thua
trong chiến tranh của các bên tham chiến phụ thuộc rất lớn vào sự đánh giá đó. Bởi
vì, như Tôn Tử, nhà lý luận quân sự xuất chúng thời cổ đại bên Trung Quốc có nói:
“Chiến tranh là việc lớn của quốc gia, nó có quan hệ đến sự sống chết của nhân
dân, sự mất còn của đất nước, không thể không suy xét một cách thận trọng” 1. Sự
suy xét một cách thận trọng phải được biểu hiện cụ thể ngay trong việc đánh giá và

1 Tôn - Ngô binh pháp, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, 1994, tr33


xây dựng những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh, đối với tất cả


các bên tham chiến.
Đứng vững trên lập trường vô sản, với phương pháp khoa học của người
cách mạng trong xem xét các vấn đề của chiến tranh, V.I.Lênin khẳng định:
“Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của
quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính
nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người
anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sỹ và làm cho họ chịu đựng được
những khó khăn chưa từng thấy”2. Luận điểm kinh điển nổi tiếng trên của Lênin đã
được rất nhiều tướng lĩnh và các nhà khoa học quân sự vận dụng để nhấn mạnh
cho lập luận của mình về vai trò của nhân tố con người, nhân tố chính trị - tinh
thần trong chiến tranh. Điều đó là đúng. Song, vấn đề quan trọng ở đây là cần phải
trình bày một cách đầy đủ và thật sự sâu sắc bản chất luận điểm về vai trò “rốt
cuộc quyết định” “tinh thần của quần chúng” trên chiến trường mà Lênin đề cập,
thì mới hiểu được nội dung rộng lớn, toàn diện và ý nghĩa quyết định của nhân tố
chính trị - tinh thần trong chiến tranh.
Chính Lênin cũng đã từng chỉ rõ: “Tính chất của một cuộc chiến tranh và
thắng lợi của nó đều phụ thuộc chủ yếu vào chế độ bên trong của nước tham chiến;
chiến tranh là sự phản ánh của chính sách đối nội mà nước đó đã thi hành trước
đây. Tất cả những điều đó không thể không được phản ánh trong việc tiến hành
chiến tranh”3. Như vậy, để cho tinh thần quần chúng trên chiến trường trở thành
yếu tố “rốt cuộc quyết định” thắng lợi trong chiến tranh thì đằng sau tinh thần ấy
và cội nguồn sức mạnh của tinh thần ấy là sức mạnh của cả dân tộc, của đất nước,
của chế độ, sự chung sức, chung lòng của quân dân cả nước. Hay nói cách khác,
trong chiến tranh sức mạnh của toàn dân tộc, ý chí quyết tâm chiến đấu hy sinh của
mọi tầng lớp nhân dân còn được tập trung và biểu hiện ra ở tinh thần chiến đấu của
những con người trên chiến trường trực tiếp chiến đấu chống quân thù. Nhân tố
con người, nhân tố chính trị - tinh thần bao giờ cũng phải đặt trong mối quan hệ
với nhân tố vũ khí kỹ thuật, với toàn bộ các nhân tố tạo nên sức mạnh của chiến
2 V. I. Lênin, Toàn tập. Bản tiếng Việt,, tập 41, Nxb Tiến Bộ, M, 1977, tr 147
3 V.I. Lênin. Toàn tập, bản tiếng Việt, tập 39, Nxb Tiến Bộ, M, 1981, tr 361



tranh. Có hiểu như thế mới có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của nhân tố chính trị
- tinh thần trong chiến tranh theo quan điểm mác xít - lêninnít. Mối quan hệ giữa
con người và vũ khí là mối quan hệ thống nhất biện chứng trong việc tạo nên sức
mạnh chiến đấu của quân đội. Vũ khí kỹ thuật là khả năng vật chất có ý nghĩa rất
quan trọng trong chiến tranh, nhất là trong chiến tranh có sử dụng vũ khí công
nghệ cao. Sự thay đổi về vũ khí trang bị tất yếu dẫn đến sự biến đổi về nghệ thuật,
phương thức tiến hành chiến tranh, cách đánh…Nhưng nhân tố con người lại là
nhân tố quyết định hiệu quả thực tế trên chiến trường, làm tăng thêm giá trị của vũ
khí; vũ khí chỉ là phương tiện để con người sử dụng và phát huy sức mạnh của
mình trong quá trình chiến tranh. Tuy nhiên, cần thấy rằng sự phát triển của vũ khí,
trang bị và phương tiện chiến tranh đòi hỏi con người phải nhận thức và hành động
trên cơ sở tính năng tác dụng của nó. Đó là điều kiện vất chất để con người tin vào
khả năng sức mạnh của chính mình và thực hành các hành động chiến đấu. Vũ khí
kỹ thuật không bao giờ có thể thay thế được vai trò con người, trái lại nó càng làm
gia tăng giá trị và vai trò của con người trong chiến tranh.
Nắm vững học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh nói chung, về vai trò của
nhân tố con người, nhân tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh nói riêng, tiếp thu
tinh hoa văn hoá quân sự thế giới, kề thừa truyền thống, nghệ thuật quân sự Việt
nam, Hồ Chí Minh bàn đến chính trị - tinh thần của chiến tranh nhân dân Việt Nam
một cách sâu sắc và toàn diện, đồng thời đặt nó trong tổng thể nội dung cấu thành
sức mạnh toàn diện của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh phải đặt trong
tổng thể các nhân tố tạo nên sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam, gắn với
tư tưởng quân sự của Người, gắn với quá trình tiến hành chiến tranh nhân dân
chống xâm lược do Đảng ta và Người lãnh đạo.
1.1 Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh
thần hy sinh của toàn thể một dân tộc
Hiếm có một dân tộc nào trên thế giới như dân tộc Việt Nam, trong quá trình

lịch sử của mình phải thường xuyên đương đầu với các thế lực ngoại xâm hung
bạo có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh hơn. Đặc điểm cơ bản này của lịch sử
dân tộc cần phải được nhấn mạnh như là cơ sở của sự hình thành nền nghệ thuật


quân sự Việt Nam với nét rất đặc sắc là thực hiện chiến tranh nhân dân. Đây thực
sự là bí quyết giành thắng lợi của dân tộc ta trước mọi kẻ thù. Bí quyết giành thắng
lợi ấy nhất thiết phải được dựa trên sức mạnh “Cử quốc nghênh địch”, “Bách tính
giai binh”, sức mạnh của cả dân tộc đứng lên chiến đấu chống quân thù.
Trong chiến tranh, quân đội bao giờ cũng là lực lượng giữ vai trò trực tiếp
quyết định sự thắng thua trên chiến trường. Tuy nhiên, sức mạnh của quân đội phải
dựa trên nền tảng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Bên tham chiến nào huy động được
đầy đủ sức mạnh của đất nước, phát huy mọi nguồn lực quốc gia phục vụ tốt nhất
cho nhu cầu của chiến tranh, thì dù quân đội có số lượng tuyệt đối ít hơn, vũ khí
trang bị ở trình độ thấp hơn đối phương, vẫn có thể giành thắng lợi. Chính trị - tinh
thần của cuộc chiến tranh như thế phải là chính trị - tinh thần của toàn dân tộc, của
quân dân cả nước được phát huy cao độ trong chiến tranh.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hầu hết các nhà lãnh đạo yêu nước, lãnh
đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc đều thấy rõ sức mạnh của
nhân dân và đều có những chủ trương giữ nước, chống ngoại xâm: dựa vào dân.
Tuy có những hạn chế về mặt giai cấp và lịch sử, nhưng chủ trương giữ nước dựa
vào dân đã động viên và phát huy được sức mạnh vật chất, tinh thần của mọi tầng
lớp nhân dân, của cả người giàu và người nghèo, từ quan lại đến thần dân phục vụ
cho công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Hưng Đạo Vương - Trần Quốc
Tuấn, người anh hùng dân tộc ba lần đánh thắng đế quốc Mông - Nguyên ở thế kỷ
XIII đã từng đề nghị Vua Trần thực hiện: “khoan thư sức dân lấy kế sâu rễ bền
gốc”, thực hiện “chúng chí thành thành”, coi đó là “thượng sách giữ nước”. Tư
tưởng này đã trở thành luận điểm có tính chất kinh điển trong kho tàng lý luận
quân sự Việt Nam. Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc, nhà chính trị quân sự kiệt
xuất trong cuộc kháng chiến chống quân Minh ở thế kỷ XV đã nhận thức sâu sắc

vai trò của quần chúng nhân dân đối với công cuộc giữ nước chống ngoại xâm.
Ông cho rằng, chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân; đồng thời chỉ ra
trong chiến tranh thì phải đoàn kết một lòng “hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”
để tập hợp “bốn phương manh lệ”. Người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã từng
nêu rõ mục đích của phong trào Tây sơn là “Kéo cùng dân ra khỏi chốn lầm than”


và trong bài Chiếu lên ngôi đã chỉ rõ việc lên ngôi Vua “cốt ý quét sạch loạn lạc,
cứu vớt dân trong vòng khói lửa”1.
Với những nhận thức tiến bộ ấy, các nhà lãnh đạo các cuộc kháng chiến
chống xâm lược trong lịch sử nước nhà đã giương cao ngọn cờ dân tộc, quy tụ
được lòng người, thực hiện được chính sách đoàn kết toàn dân đứng lên chống
giặc. Nhờ vậy, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta trong lịch sử
đã thu hút sự tham gia đông đảo quảng đại quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân
dân không chỉ gia nhập vào các đội quân chiến đấu của triều đình, của các lộ, các
địa phương; mà họ còn tự xây dựng nên các đội dân binh, hương binh ở các thôn
xã, làng bản, họ tự đứng lên và tổ chức đánh giặc tại quê hương mình. Chính điều
đó đã tạo nên truyền thống “cả nước đánh giặc”, “trăm họ đều là binh” rất đặc sắc
trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta.
Đặc điểm lịch sử dân tộc Việt Nam phải thường xuyên chống kẻ thù có tiềm
lực kinh tế, quân sự lớn mạnh hơn; những nhận thức tiến bộ của những nhà lãnh
đạo đất nước đối với dân và vai trò của dân trong chiến tranh; và sự đóng góp sức
người, sức của của mọi tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức rất phong phú đa
dạng … tất cả điều đó đã làm cho các cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân
tộc ta mang tính nhân dân sâu sắc, phản ánh sức mạnh vô địch của “tinh thần hy
sinh của toàn thể một dân tộc” mà không quân đội nào có thể chiến thắng được.
Tinh thần ấy, sức mạnh ấy đã được Hồ Chí Minh nhìn nhận một cách chính
xác, đánh giá một cách thấu đáo và đưa thêm nội dung mới, nâng lên tầm cao mới
trong điều kiện lịch sử mới.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công được ít ngày, trong Lời kêu gọi

đồng bào Nam bộ ngày 29 tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Không quân
đội nào, khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân
tộc” và Người còn nhấn mạnh: “Trước nạn ngoại xâm, toàn thể quốc dân đã đoàn
kết chặt chẽ thành một khối kiên cố, thành một lực lượng thống nhất mà không
quân đội xâm lược nào đánh tan được” 1. Luận điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh không chỉ nói lên cội nguồn sức mạnh của các cuộc kháng chiến chống ngoại
1 Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, H, 1971, tr 350
1 Hồ Chí Minh, Sdd, tập 4, tr 77, 78


xâm trong lịch sử dân tộc, mà còn phản ánh sâu sắc bản chất và sức mạnh chính trị
- tinh thần của chiến tranh nhân dân Việt nam trong thời đại mới.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố chính trị - tinh thần của chiến
tranh nhân dân không thể không đề cập đến tư tưởng của Người về chiến tranh
nhân dân Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính. Đó là những tư tưởng, quan điểm cơ bản phản ánh bản chất, tính chất, đặc
điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam, nói lên lực lượng, sức mạnh, phương
châm và nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân để chống lại kẻ thù to lớn và
hung bạo.
Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ngày 22
tháng 12 năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Vì cuộc kháng chiến của
chúng ta là cuộc kháng chiến toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn
dân”1. Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nhân dân ta buộc phải tiến hành chiến
tranh chống xâm lược, tháng 12 năm 1946, khi trả lời câu hỏi: Toàn dân kháng
chiến là thế nào?, Người nói: “Toàn dân kháng chiến là cả dân ai cũng đánh giặc.
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già con trẻ, ai cũng phải tham gia kháng chiến. Tổ
quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất nước thì
ai cũng phải làm nô lrệ”2. Khái niệm kháng chiến toàn dân, chiến tranh toàn dân,

chiến tranh nhân dân được Hồ Chí Minh nói đến rất nhiều lần trong các bài nói, bài
viết của mình, trong quá trình Người lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc kháng chiến của
dân tộc và được sử dụng một cách thống nhất.
Tư tưởng kháng chiến toàn dân, chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh phản
ánh sâu sắc quyết tâm sắt đá của toàn dân tộc: thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Đây là sự kế thừa, phát huy và nâng
lên tầm cao mới truyền thống toàn dân đánh giặc, “giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh”, của ông cha trong điều kiện lịch sử mới, điều kiện lịch sử mà dân tộc ta
phải đối chọi với các thế lực đế quốc phương Tây hung bạo và hùng mạnh nhất. Sự
1 Hồ Chí Minh, Sdd, tập 3, tr 507
2 Hồ Chí Minh, Sdd, tập 4, tr 485


tham gia của các tầng lớp nhân dân vào cuộc kháng chiến không phải chỉ là sự
đóng góp sức người, sức của cho chiến tranh; mà điều quan trọng là họ thực sự như
là người lính, “mỗi công dân là một chiến sỹ, mỗi làng là một chiến hào”, tạo nên
“bức thành đồng” vững chắc của chiến tranh nhân dân.
Chiến tranh nhân dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là chiến tranh toàn
diện. Để chống lại chiến tranh xâm lược của kẻ thù có tiềm lực quân sự, kinh tế
hùng mạnh, chiến tranh nhân dân Việt Nam không thể chỉ dựa vào sức mạnh quân
sự, lực lượng quân sự đơn thuần, càng không thể chỉ dựa vào quân đội để chống lại
quân đội đối phương, mà phải dựa trên sức mạnh tổng hợp, toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực, tiến công kẻ thù trên tất cả các mặt trận. Tính toàn dân và toàn diện
quan hệ chặt chẽ và thống nhất, không thể tách rời trong bản chất, đặc điểm của
chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Tính toàn dân và toàn diện không thể tách rời nhau, nói đến kháng chiến
toàn dân cũng đã bao hàm tính toàn diện của chiến tranh; và ngược lại, bàn đến
tính toàn diện của chiến tranh nhân dân cũng đã phản ánh cả tính toàn dân. Vì vậy,
Hồ Chí Minh cho rằng, muốn huy động được đông đảo quần chúng nhân dân tham
gia kháng chiến, thì phải thực hiện kháng chiến tòan diện. Người nhấn mạnh: “…

muốn thắng quân địch, chỉ trông cậy vào sức chiến đấu ở tiền phương chưa đủ. Tại
sao? Vì ngày nay, một khi chiến tranh đã bùng nổ ở nơi nào, ảnh hưởng của nó sẽ
lan tràn đến khắp các nơi khác. Chẳng những thế, nó còn ảnh hưởng sâu sắc đến tất
cả các ngành hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá… Vì vậy, muốn kháng chiến lâu
dài để tới thắng lợi cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới
mong đi tới thắng lợi cuối cùng… Nói tóm lại, muốn thực hiện toàn dân kháng
chiến, ngoài việc động viên chính trị, quân sự, ngoaị giao, còn phải động viên cả
tinh thần lẫn kinh tế”1.
Thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến thì mới có cơ sở để
tiến hành chiến tranh theo phương châm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh,
dựa vào sức mình là chính. Không thể thực hiện được phương châm trường kỳ
kháng chiến, một phương châm đối chọi có hiệu quả phương châm đánh nhanh
thắng nhanh của bọn xâm lược, nếu không phát động được cuộc kháng chiến toàn
1 Hồ Chí Minh, Sdd, tập 4, tr 84, 85


dân, toàn diện, không phát huy được nội lực của đất nước, sức mạnh của toàn dân
tộc. Cũng không thể thực hiện được tư tưởng tự lực cánh sinh là chính, nếu không
tiến hành có hiệu quả cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, không phát huy được
mọi nguồn lực vật chất, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, trên tất cả các lĩnh
vực, các mặt trận cho cuộc kháng chiến cuả dân tộc.
Như vậy, giữa bản chất, tính chất, đặc điểm và phương châm, nghệ thuật tiến
hành chiến tranh nhân dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hoà quyện, gắn bó chặt
chẽ với nhau, phản ánh nét đặc sắc và sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân
Việt Nam. Và vì thế, chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
đã phát triển đến độ rực rỡ với tầm cao mới. Đồng chí Phạm Văn Đồng khi đề cập
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân, đã có nhận xét rất sâu sắc và
chính xác: “Cống hiến lớn nhất của Hồ Chí Minh vào lý luận và phương pháp cách
mạng là lý luận về chiến tranh nhân dân. Có lẽ hiếm có ở đâu chiến tranh nhân dân
trong thực tế lại đúng với tên gọi của nó như vậy, thực sự sâu rộng trong nhân dân

và thực sự vô địch như nhân dân”1
Bản chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân quy định chính trị - tinh thần
của cuộc chiến tranh ấy không chỉ là chính trị - tinh thần của quân đội, không chỉ là
tư tưởng, niềm tin, ý chí, tinh thần, tâm lý … của người chiến sỹ trực tiếp cầm
súng chiến đấu trên chiến trường, mà điều quan trọng đó là chính trị - tinh thần của
toàn thể dân tộc, của quân dân cả nước. Nhân dịp Quốc khánh lần thứ mười của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2 tháng 9 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Lòng yêu nước nồng nàn, sự thống nhất về tinh thần và chính trị của
nhân dân và quân đội xung quanh Đảng và Chính phủ đã giúp chúng tôi vượt qua
những thử thách khó khăn không tưởng tượng được và tạo những điều kiện về
chính trị, kinh tế và quân sự để chiến thắng.
Lòng tin tưởng không gì lay chuyển nổi vào thắng lợi của sự nghiệp chính
nghĩa của mình đã cổ vũ nhân dân chúng tôi và đã kích thích tinh thần dũng cảm
của họ. Những đức tính về đạo đức và tinh thần chiến đấu mà các binh sỹ, các
chiến sỹ du kích và các cán bộ của chúng tôi đã học tập được trong lịch sử đặc biệt
phong phú của phong trào giải phóng dân tộc, đã giúp quân đội trẻ tuổi của chúng
1 Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, môt con người, một dân tộc, một thời đại, Nxb ST, H, 1990, tr10


tôi lập được những chiến công lịch sử, tô lên ngọn cờ của mình một niềm vinh
quang bất diệt”1. Rõ ràng là, chính trị - tinh thần của chiến tranh nhân dân đã trở
thành sức mạnh “vật chất”. Lòng yêu nước, sự đoàn kết, lòng tin mãnh liệt vào
chiến thắng và tinh thần chiến đấu của cả dân tộc… những nội dung cơ bản của
chính trị - tinh thần, của sự thống nhất về “tinh thần và chính trị” của nhân dân và
quân đội ta trong chiến tranh, đã tạo nên sức mạnh “vật chất” chiến thắng kẻ thù.
Khi xâm lược Việt Nam, với tư duy quân sự tư sản, kẻ thù thường tính đến
phải đối phó với quân đội Việt Nam như thế nào, mà không tính đến một cách đầy
đủ sức mạnh toàn diện của chiến tranh nhân dân Việt Nam, đã không nhận thấy
một điều rất căn bản là Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, nên chúng gặp hết bất ngờ này đến bất ngờ khác và phải

chuốc lấy thất bại. Sức mạnh của quân đội nhân dân ấy không chỉ nằm trong bản
thân sức mạnh riêng có của nó như tính toán của các nhà quân sự đế quốc chủ
nghĩa. Sức mạnh của quân đội ấy còn bắt nguồn từ nhân dân, từ truyền thống lịch
sử dân tộc, từ sức mạnh của cuộc kháng chiến chính nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tiến bộ đại biểu cho xu thế phát
triển của lịch sử, đó còn là sức mạnh của thời đại kết hợp chặt chẽ với sức mạnh
của dân tộc trong quá trình nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống xâm lược. Và
vì vậy, khi xâm lược Việt Nam, phải đối chọi với chiến tranh nhân dân Việt Nam,
với Quân đội nhân dân Việt Nam, thì kẻ thù tự chuốc lấy một khả năng thất bại
tiềm tàng.
Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét trong tác phẩm Chiến tranh
nhân dân và quân đội nhân dân: “Chiến tranh ở Việt Nam không chỉ là sự đọ sức
giữa hai quân đội; ở đây bọn thực dân xâm lược phải đánh nhau với cả một dân
tộc; cả dân tộc Việt Nam, toàn thể nhân dân Việt Nam đang đứng dậy chống lại
chúng. Chính vì bọn thực dân không nhận thấy sự thật sâu sắc đó, cho nên chúng
đã tưởng chừng dễ dàng giành được thắng lợi mà chung quy lại đi đến thất bại”1
Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ muốn chứng tỏ rằng lực
lượng kinh tế và quân sự khổng lồ của chúng có thể đè bẹp mọi phong trào giải
1 Hồ Chí Minh, Sdd, tập 8, tr 55 - 56
1 Võ Nguyên Giáp, Chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, Nxb ST, H, 1959, tr 100 - 101


phóng dân tộc và sự kháng cự của mọi dân tộc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Vì
vậy, chúng đã huy động một lực lượng quân sự to lớn, thực hiện nhiều chiến lược,
chiến thuật, sử dụng nhiều vũ khí hiện đại…hòng nhanh chóng khuất phục nhân
dân Việt Nam, nhưng cuối cùng chúng đã chiụ thất bại, một thất bại đầu tiên và lớn
nhất trong lịch sử hai trăm năm của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tại Đại hội IV, Đảng ta đã
nêu rõ một nguyên nhân cơ bản làm nên chiến thắng của nhân dân ta: “Đó là thắng
lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường và bền bỉ, anh dũng và

thông minh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của các đảng bộ miền
Nam, của cán bộ, chiến sỹ công tác và chiến đấu ở miền Nam, và hàng chục triệu
đồng bào yêu nước trên tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên cường, bất
khuất hơn ba mươi năm dưới ách quân xâm lược”2. Các nhà quân sự tư sản mãi
cho đến tận bây giờ vẫn không hết kinh ngạc và lý giải nổi tại sao dân tộc Việt
Nam lại chiến thắng hai đế quốc to như Pháp và Mỹ. Họ loay hoay tìm câu trả lời
trong các vấn đề chiến lược, chiến thuật, trong các vấn đề sử dụng quân đội, vũ khí
trang bị và phương tiện chiến tranh. Không thể phủ nhận vai trò của các nhân tố đó
trong chiến tranh. “Nhưng nếu đặt câu hỏi: vì sao dân tộc Việt Nam đã thắng, thì
câu trả lời chính xác hơn hết và đầy đủ hơn là: bởi vì chiến tranh giải phóng của
dân tộc Việt Nam là một cuộc chiến tranh nhân dân”3
Có hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân, mới có thể hiểu
được tư tưởng của Người về nhân tố chính trị - tinh thần của chiến tranh nhân dân
Việt Nam. Có hiểu được mục đích của con đường cách mạng cứu nước, cứu dân
mà lãnh tụ Hồ Chí Minh suốt cả đời hy sinh phấn đấu, thì mới có thể hiểu được
những tư tưởng, quan điểm của Người trên các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam nói chung, của chiến tranh nhân dân Việt Nam nói riêng.
Luận điểm “Không quân đội nào, khí giới nào có thể đánh ngã được tinh
thần hy sinh của toàn thể một dân tộc” vừa thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của
toàn thể nhân dân Việt Nam, vừa nói lên sức mạnh tinh thần to lớn của chiến tranh
nhân dân Việt Nam. Đó là tinh thần, ý chí của cả dân tộc thà hy sinh tất cả chứ nhất
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb ST, H, 1977, tr 8 - 9
3 Võ Nguyên Giáp, Chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, Nxb ST, H, 1959, tr 101


định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Không hiểu sâu sắc bản chất, sức
mạnh của con người, không nhận thức đúng đắn vai trò quần chúng nhân dân trong
lịch sử, và không một lòng, một dạ hy sinh phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng con
ngưòi, đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc thực sự cho họ, thì không thể có quan
điểm đầy đủ và khoa học về sức mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần trong chiến

tranh. Theo Hồ chí Minh, chính trị - tinh thần của chiến tranh nhân dân Việt Nam
có nội hàm hết sức rộng lớn, thể hiện sâu sắc và toàn diện các nội dung cấu thành
chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội trong chiến tranh. Chính trị - tinh
thần của chiến tranh nhân dân Việt Nam không thể tự nhiên mà có, mà nó được
hình thành và phát triển trên cơ sở chế độ chính trị, kinh tế của xã hội mới, hệ tư
tưởng chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin, đường
lối cách mạng, đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng; được bắt nguồn từ tầng
sâu và bề dày của truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường, cội nguồn lịch sử,
văn hoá … của dân tộc Việt Nam. Nhân dân và quân đội ta không thể có tư tưởng
vững vàng, niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng của cuộc kháng chiến chống xâm
lược, sự chiến đấu xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc nếu không có được những
cội nguồn và cơ sở trên.
Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược mới ở giai đoạn đầu, trong Thư gửi
đồng bào và chiến sỹ Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ nhân kỷ niệm ngày Nam Bộ
kháng chiến, 23 tháng 9 năm 1947, Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta, từ Chính phủ
đến nhân dân, Nam đến Bắc, già đến trẻ, giàu đến nghèo, đều kiên quyết một lòng
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, không chịu chia rẽ.
Chúng ta, bên lương cũng như bên giáo, Phật cũng như Cao Đài, đoàn kết
chặt chẽ, kiên quyết kháng chiến để giải phóng giống nòi, giữ gìn Tổ quốc.
Chúng ta, từ chiến sỹ trước mặt trận đến đồng bào hậu phương, đều đem
lòng quyết tử phá địch, để mở con đường sinh tồn, tự do…
Lực lượng của 20 triệu người vì tự do, vì Tổ quốc, vì chính nghĩa mà kháng
chiến là một lực lượng tất thắng”.1
Tư tưởng trên đựơc Người tiếp tục nhấn mạnh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước: “Ba mươi mốt triệu đồng bào là ba mươi mốt triệu dũng sỹ diệt Mỹ”.
Đây còn là sự biểu thị sâu sắc lòng tin tưởng vô bờ bến của người lãnh đạo cuộc
1 Hồ Chí Minh, Sđ, tập 5, tr 214 - 215


kháng chiến đối với quyết tâm chiến đấu của quân dân cả nước. Lòng tin của lãnh

tụ Hồ Chí Minh vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, vào cuộc kháng chiến
nhất định thắng lợi có sức lan toả mạnh mẽ đến mọi con tim, khối óc, tạo nên sức
mạnh vật chất, càng làm cho chiến tranh nhân dân Việt Nam trở nên vô địch.


Chương 2
HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG, ĐỘNG VIÊN CHÍNH TRỊ - TINH THẦN
TRONG CHIẾN TRANH
2.1. Xây dựng, động viên chính trị - tinh thần là quá trình liên tục, gắn
bó chặt chẽ với xây dựng, động viên các nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp
của chiến tranh nhân dân Việt Nam
Chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội ta trong chiến tranh nhân dân
Việt Nam, như đã phân tích ở chương trên, được bắt nguồn từ hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng; sức mạnh của chế độ mới; đường
lối kháng chiến đúng đắn. chính nghĩa, hợp lòng dân; từ truyền thống chống ngoại
xâm của dân tộc… Thế nhưng, chính trị - tinh thần không thể tự nhiên mà có, càng
không thể tự nhiên mà tạo thành sức mạnh to lớn giành thắng lợi trong chiến tranh,
nếu không thực hiện tốt các biện pháp khơi dạy, xây dựng và phát huy đúng. Dù
chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội có được chuẩn bị chu đáo và đầy đủ
như thế nào, nhưng trong quá trình chiến tranh nếu không tiếp tục bồi đắp và có
biện pháp phát huy, động viên tốt thì chính trị - tinh thần ấy không thể trở thành
sức mạnh hiện hữu.
Hơn nữa, chính trị - tinh thần không phải là một trạng thái cố định “nhất
thành bất biến” mà là một trạng thái động, có lên, có xuống, có lúc cao, có lúc
thấp, thậm chí có khi chuyển sang trạng thái khác theo hướng tiêu cực. Vấn đề này
phụ thuộc rất lớn vào những diễn biến cụ thể trong quá trình chiến tranh và vào
việc thực hiện như thế nào các giải pháp động viên và phát huy trong chiến tranh.
Trong lịch sử chiến tranh nhân loại đã không ít trường hợp có bên khi bước vào
chiến tranh với khí thế hừng hực như trào dâng, nhưng trong qúa trình chiến tranh,
do không biết nuôi dưỡng và phát huy khí thế ấy, nên chính trị - tinh thần lại phát

triển theo chiều hướng tiêu cực, nhất là khi gặp phải sự kháng cự quyết liệt của đối
phương, hoặc bị tổn thất nặng nề.
Nhận thức sâu sắc những vấn đề có tính quy luật ấy, Hồ Chí Minh cho rằng,
động viên chính trị - tinh thần là công việc liên tục, không khi nào ngừng nghỉ, gắn
với toàn bộ các hoạt động chính tri, quân sự suốt quá trình chiến tranh. Mỗi một


giai đoạn chiến tranh, mỗi một thời điểm, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, lúc
chiến thắng cũng như khi bị thất bại tạm thời, trong từng trận đánh, trên từng địa
bàn cụ thể, đều cần có những biện pháp động viên chính trị - tinh thần phù hợp.
Mọi biểu hiện xem nhẹ, hoặc có những sự sơ xuất nào trong quá trình xây dựng,
động viên chính trị - tinh thần đều dẫn đến nguy hại khó lường, làm suy giảm
quyết tâm chiến đấu, hoang mang, dao động về tư tưởng, gây tổn thất lớn cho đất
nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền công nông vừa mới ra
đời, nhân dân ta đã sớm bắt tay vào chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và sau khi chống Pháp thắng lợi, lại tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước 20 năm. Đặc điểm cơ bản đó chi phối mạnh mẽ và làm cho
quá trình xây dựng chính trị - tinh thần gắn bó chặt chẽ với quá trình động viên và
phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần trong chiến tranh. Quá trình xây dựng cũng
chính là quá trình động viên; quá trình quân dân ta tích cực chuẩn bị cho kháng
chiến cũng chính là quá trình phát huy, động viên chính trị - tinh thần và làm cho
chính trị - tinh thần ấy trở thành sức mạnh hiện thực. Vừa xây dựng, động viên vừa
phát huy và nhân lên sức mạnh chính trị - tinh thần là nét đặc sắc và là quy luật
vận động của quá trình xây dựng, động viên chính trị - tinh thần của quân dân ta
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, tất cả các hình thức biện pháp, nội dung xây
dựng, động viên chính trị - tinh thần theo tư tưởng Hồ Chí Minh và do chính
Người tổ chức thực hiện có quan hệ khăng khít với nhau, thể hiện trong toàn bộ
cuộc chiến tranh, cũng như trong từng giai đoạn cụ thể.

Nghiên cứu những nội dung, biện pháp cụ thể trong một giai đoạn nào đó, ở
một thời điểm nào đó không chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn, thời điểm đó; mà cần
phải thấy nội dung, biện pháp đó có giá trị chỉ đạo trực tiếp toàn bộ tiến trình của
hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Có như thế, việc luận giải các nội dung cụ thể mới
không bị chia cắt và mới phán ánh sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng,
động viên chính trị - tinh thần trong chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng động viên toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, động viên
chính trị - tinh thần gắn với động viên các mặt kinh tế, quân sự, ngoại giao, động


viên các lực lượng được Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ trong bài viết nhan đề “Toàn
dân kháng chiến”. Người cho rằng: “Vì vậy, muốn kháng chiến lâu dài để tới thắng
lợi cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới mong đi tới thắng lợi
cuối cùng. Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng chiến. Anh
dân cày cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà máy, chị bán hàng
buôn bán ngược xuôi, ông già xách giỏ đi câu cũng là kháng chiến. Các công chức,
các nhà văn, nhà báo mải miết trước bàn giấy, cạnh tủ sách cũng là kháng chiến.
Các y sĩ, khám hộ lăn lộn bên giường bệnh cũng là kháng chiến. Các nhà giàu có
đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất cũng là kháng chiến. Đó
là toàn dân kháng chiến.
Nói tóm lại, muốn thực hiện toàn dân kháng chiến, ngoài việc động viên
quân sự, chính trị, ngoại giao, còn phải động viên cả tinh thần lẫn kinh tế”.1
Động viên chính trị - tinh thần không thể tách rời động viên các nhân tố
khác, thực chất là phát động toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến. Không
thể chỉ xây dựng chính trị - tinh thần, động viên một cách chung chung, mà bao giờ
Hồ Chí Minh cũng đặt nó trong chiến lược huy động sức mạnh tổng hợp của chiến
tranh nhân dân Việt Nam. Người còn chỉ rõ: “Động viên tinh thần là phải tập trung
hết thảy lực lượng tinh thần, ý chí, tư tưởng của từng cá nhân và của toàn quốc dân
đều hướng về một chiều để cùng đi tới một mục đích kháng chiến. Như vậy, một
mặt phải chấn khởi tinh thần kháng chiến của toàn dân và một mặt làm cho họ tin

tưởng ở chỗ thế nào cũng thắng lợi.

Hơn nữa, còn phải làm thế nào cho tất cả các tầng lớp nhân dân đều chung
đúc tâm trí vào lợi ích của dân tộc mà phấn đấu. Dù đau khổ đến đâu mặc lòng ai
giúp cũng phải trổ hết tài năng, làm hết nhiệm vụ để sáng tạo tất cả cái gì có thể
giúp ích cho sự kháng chiến…”2
Trong kháng chiến chống Pháp, trong khi nhân dân ta đang phải tập trung
xây dựng chính quyền mới, đối phó với giặc đói, giặc dốt và các vấn đề cấp bách
khác trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
vẫn chú trọng chuẩn bị cho đất nước chủ động bước vào cuộc kháng chiến toàn
1 Hồ Chí Minh, Sdd, Tập 4, tr. 84-85.
2 Hồ Chí Minh, Sdd, Tập 4, tr. 85


quốc. Hồ Chí Minh đã viết một loạt bài về những vấn đề chiến lược, sách lược
quân sự, những vấn đề về chiến tranh, phương pháp tác chiến, cách đánh… ;đặc
biệt, Người đã viết nhiều bài giới thiệu về “Binh pháp Tôn Tử’ nhằm góp phần
chuẩn bị không chỉ về mặt tác chiến, quân sự, mà còn về mặt tư tưởng, tâm lý đáp
ứng yêu cầu của kháng chiến. Qua đây thấy rõ một điều là, trong khi chuẩn bị,
động viên chính trị - tinh thần thì Hồ Chí Minh rất chú ý đến chuẩn bị các yếu tố
khác, làm cho việc xây dựng chính trị - tinh thần càng có cơ sở vững chắc. Chuẩn
bị chính trị - tinh thần không tách riêng một cách biệt lập, mà nằm ở và biểu hiện
trong quá trình chuẩn bị các yếu tố khác. Việc tách ra đâu là chuẩn bị, động viên
chính trị - tinh thần, đâu là chuẩn bị, động viên kinh tế, quân sự… chỉ có tính chất
tương đối. Mối quan hệ giữa chuẩn bị, động viên chính tri - tinh thần với chuẩn bị,
động viên các nhân tố khác là mối quan hệ hữu cơ, tác động biện chứng lẫn nhau
phản ánh sâu sắc bản chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam, biểu hiện
sinh động tính toàn dân, toàn diện của cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Xuất phát từ yêu cầu cao về chính trị - tinh thần của nhân dân và quân ta
trong chiến tranh, cũng như từ tính chất “động” của chính trị - tinh thần, mà việc

xây dựng, động viên chính trị - tinh thần phải là qúa trình liên tục, không khi nào
được ngừng nghỉ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… chúng ta phải tập trung hết thảy nhân
lực, tài lực vào công cuộc kháng chiến thì thực lực kháng chiến của ta mới được
đầy đủ, mạnh mẽ để đạt tới thắng lợi cuối cùng.”1
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến của dân tộc, đi đến đâu,
gặp gỡ các cụ phụ lão hay các cháu nhi đồng, nói chuyện với bộ đội hay dân quân
du kích, tiếp xúc với thanh niên hay phụ nữ, trao đổi với các tầng lớp nhân dân, các
tôn giáo, dân tộc, Người luôn luôn khích lệ, cổ vũ tinh thần khắc phục khó khăn
gian khổ chiến đấu và phục vụ chiến đấu, cũng như những cố gắng trong lao động
sản xuất của mọi tầng lớp nhân dân với sự ân cần tha thiết. Vì vậy, tinh thần yêu
nước, ý chí quyết tâm chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc của quân dân
ta luôn luôn được dâng cao. Trên thực tế, chính trị - tinh thần của nhân dân và quân
đội ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thường xuyên được
duy trì ở mức độ cao và khồng ngừng củng cố, phát huy.
1 Hồ Chí Minh , Sdd, Tập 4, tr. 477


Điều đó cắt nghĩa vì sao lại phát triển, nở rộ những hình ảnh cao đẹp về chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, nhưng rất đỗi bình thường, giản dị gần gũi biết bao của
một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, thời kỳ “ra ngõ gặp anh hùng”, đi đánh
giặc như đi “trẩy hội”. Không thể cảm nhận hết ý nghĩa cao đẹp và vĩ đại của thời
kỳ lịch sử hào hùng đó, nếu không hiểu được sức mạnh chính trị - tinh thần tiềm
tàng trong mọi tầng lớp nhân dân. Trạng thái chính trị - tinh thần cao và tích cực
của nhân dân và quân đội ta được chuẩn bị trước chiến tranh, được củng cố, duy trì
và phát huy không ngừng suốt quá trình chiến tranh, trở thành nhân tố cực kỳ quan
trọng bảo đảm cho đất nước đương đầu với chiến tranh lâu dài, tàn khốc và giành
thắng lợi.
Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp kháng chiến cứu quốc là sự nghiệp của toàn
dân, phải động biên toàn dân, toàn diện. Vì vậy, xây dựng, động viên chính trị tinh thần cho kháng chiến phải là sự nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của tất cả các cấp, các ngành, của tất cả mọi người. Đảng và Chính phủ phải

nêu cao quyết tâm và có đường lối, chủ trương kháng chiến đúng đắn quy tụ và
phát huy cao nhất sức mạnh toàn dân tộc cho kháng chiến chống xâm lược; đồng
thời phải có khả năng tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân thắng lợi. Đây là nhân tố
cơ bản quyết định mục đích, yêu cầu, nội dung, tính chất của chính trị - tinh thần
cần xây dựng, động viên trong chiến tranh. Các lực lượng vũ trang, quân đội nhân
dân thực sự đóng vai trò nòng cốt trong chuẩn bị và tiến hành chiến tranh. Các tầng
lớp nhân dân, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, thành phần xã
hội đều có trách nhiệm và tích cực tham gia, tuỳ theo sức của mình mà đóng góp
sức người, sức của cho kháng chiến.
Để bảo bảo cho thắng lợi, Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề động viên chính trị - tinh
thần không chỉ ở tiền tuyến mà còn ở hậu phương. Vai trò to lớn của hậu phương
đối với tiền tuyến không những biểu hiện ở việc trực tiếp, thường xuyên chi viện
sức người, sức của cho tiền tuyến trong suốt quá trình chiến tranh, mà còn là nguồn
cổ vũ mạnh mẽ, nguồn sức mạnh không bao giờ cạn kiệt đối với tiền tuyến. Mỗi
thành tựu của hậu phương là một sự cổ vũ, động viên không thể thay thế đối với
nhân dân, cán bộ, chiến sỹ ngoài mặt trận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam


ruột thịt”. Người nêu cao khẩu hiệu: “Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ
khí, nhà nông là chiến sỹ, hậu phương thi đua với tiền phương”. Khẩu hiệu ấy, tinh
thần ấy đã dấy lên không khí hừng hực, sôi nổi đưa cả dân tộc vào cuộc chiến đấu
chống quân thù, viết lên bản anh hùng ca rực rỡ về chủ nghĩa anh hùng cách mạng
của nhân dân Việt Nam ở thế kỷ XX.


Chương 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY
DỰNG CHÍNH TRỊ - TINH THẦN CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO
VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG ĐIỀU KIỆN

MỚI
3.1. Bối cảnh tình hình hiện nay và những thách thức mới đối với nhân tố
con người, nhân tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
đã tạo ra sự phát triển nhảy vọt có tính chất cách mạng trên nhiều lĩnh vực, kể cả
quân sự. Các thế lực hiếu chiến ra sức lợi dụng những thành tựu khoa học, công
nghệ nhằm hiện đại hoá và sản sinh ra những công cụ giết người mới với tính chất
ác liệt và sự huỷ diệt ngày một tăng. Chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh có sử
dụng vũ khí công nghệ cao, chiến tranh kỹ thuật số, chiến tranh điện tử, chiến tranh
thông tin ... ngày càng được nói nhiều đến như là những nét đặc trưng chủ yếu của
chiến tranh hiện đại.
Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đã chứng kiến nhiều sự kiện chính trị, quân
sự lớn lao như báo hiệu một thế kỷ đầy biến động với những bất trắc khó lường.
Chưa bao giờ nước Mỹ lại bị tấn công gây nên hậu quả ghê gớm, uy hiếp nền an
ninh tưởng như vững chắc của cường quốc số một thế giới này. Sự kiện ngày
11/9/2001 là một sự kiện chấn động thế giới bởi tính chất và hậu quả của nó, và
bởi đối tượng mà các lực lượng khủng bố chĩa vào. Các thế lực khủng bố đã “vuốt
râu hùm”, để rồi con hùm dữ này lại càng trở nên hung hăng hơn. Phát động chiến
dịch “chống khủng bố” trên quy mô toàn cầu, thực chất đó là nhằm thiết lập trật tự
thế giới một cực do Mỹ chi phối. Đồng thời, với việc phân chia thế giới thành hai:
Hoặc là ủng hộ Mỹ “chống khủng bố”, hoặc là không ủng hộ “chống khủng bố”,
tức là đối lập với Mỹ, đã làm cho bức tranh chính trị thế giới có nhiều xáo trộn
phức tạp. Phải chăng đây là một thứ chủ nghĩa “cường quyền mới”, chủ nghĩa
cường quyền được xây dựng dựa trên cơ sở sức mạnh kinh tế, khoa học và quân
sự, dựa trên ưu thế của vũ khí công nghệ cao.


Đúng như Tuyên bố ngày 20 tháng 3 năm 2003 của Đảng Cộng sản Mỹ đã
vạch rõ: “Với những lời lẽ bóp méo, thổi phồng và hoàn toàn dối trá, Tổng thồng
Busơ và nội các chiến tranh của ông ta đã bất chấp dư luận, đưa nước Mỹ vào cuộc

chiến tranh phi nghĩa và bất hợp pháp... bộc lộ đầy đủ trước công chúng một học
thuyết cực kỳ nguy hiểm. Ba trụ cột của học thuyết đó là: Tấn công phủ đầu, lật đổ
chế độ, thiết lập sự thống trị của đế quốc Mỹ suốt thế kỷ 21” 1. Học thuyết này và
đặc biệt chiến lược “đánh đòn phủ đầu” là cực kỳ nguy hiểm, nó tạo cơ sở cho Mỹ
có thể tấn công vào bất cứ nơi nào trên thế giới mà Mỹ thấy là “cần thiết”, bất chấp
công pháp và dư luận quốc tế, bất chấp mọi sự phản đối, kể cả của Liên Hợp quốc
và các nước trong Hội đồng bảo an của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh này.
Tình hình đó đã đặt độc lập chủ quyền, sự an nguy của chế độ và an ninh của các
quốc gia, dân tộc trên thế giới đứng trước những thách thức hết sức nghiêm trọng.
Các cuộc chiến tranh gần đây và những “thắng lợi” của Mỹ trong các cuộc
tiến công ápganixtăng (2001 - 2002), Irắc ( 2003) đã đặt ra nhiều vấn đề rất mới
không những đối với chiến lược quốc phòng an ninh của các quốc gia, mà còn làm
biến đổi sâu sắc trên nhiều vấn đề cơ bản của chiến tranh và quân đội. Với sự xuất
hiện của loại hình chiến tranh mới, chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao,
có người lầm tưởng rằng bản chất chính trị của chiến tranh đã có sự thay đổi căn
bản, luận điểm lê-nin-nít: chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo
lực đã mất đi ý nghĩa thực tiễn!? Thực chất không phải như vậy, bản chất chính trị
của chiến tranh không những không bị mất đi, trái lại càng trở nên sâu sắc hơn
trong đièu kiện mới. Nghiên cứu các cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ
cao gần đây có ý nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng, động viên chính trị - tinh
thần của nhân dân và quân đội nhằm đối phó thắng lợi mọi tình huống chiến tranh,
kể cả chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Các cuộc chiến tranh của Mỹ chống Nam Tư, chống ápganítăng, chống Irắc
cho thấy, mục đích chính trị của các cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ
cao do chủ nghĩa đế quốc tiến hành được biểu hiện trên hai vấn đề chủ yếu: mục
đích chiến lược cơ bản và mục đích chính trị cụ thể, trực tiếp. Mục đích chiến lược
cơ bản của Mỹ là đứng ra đóng vai trò sen đầm quốc tế, điều khiển, thao túng tất cả
1 Xem Tạp chí Kiến thức Quốc phòng hiện đại, số 6/2003, tr 6



các quốc gia, dân tộc trên thế giới, xác lập “giá trị” Mỹ trên toàn hành tinh. Mục
đích chiến lược cơ bản đó được thực hiện thông qua nhiều biện pháp chính trị, kinh
tế, ngoại giao... và cả quân sự. Phát động chiến tranh, dù là ở đâu và khi nào thì
Mỹ cũng đều nhằm thực hiện mục đích đó.
Mục đích chiến lược cơ bản quy định mục đích chính trị cụ thể, trực tiếp của
từng cuộc chiến tranh. Ở cuộc chiến tranh Côxôvô, mục đích chính trị cụ thể của
Mỹ là đè bẹp ý chí phản kháng của nhân dân Nam Tư, hạ bệ Tổng thống, thay đổi
thể chế chính trị, biến Nam Tư thành nước nằm trong quỹ đạo của Mỹ, tiến tới
khống chế toàn bộ vùng Bancăng. Mục đích chính trị cụ thể của cuộc chiến “chống
khủng bố” là bằng mọi giá bắt sống được Bin-la-đen, phá tan tổ chức Al - Qaeda,
lật đổ chính phủ Ta-li-ban, dựng lên một chính phủ thân Mỹ ở Apganitxtan. Ở
cuộc chiến tranh Irắc 2003, mục tiêu cụ thể của Liên quân Mỹ - Anh là nhằm lật đổ
chính thể của tổng thống SaĐam - Hutxen, biến Irắc thành quốc gia nằm trong quỹ
đạo của Mỹ, tiến tới khống chế toàn bộ vùng dầu mỏ Trung Đông. Như vậy, các
cuộc chiến tranh trên tuy có mục đích cụ thể khác nhau, nhưng đều là sự tiếp tục
đường lối chính trị đối nội, đối ngoại của chủ nghĩa đế quốc, đều là sự kế tục cái
chính trị tham vọng bá chủ toàn cầu của Mỹ.
Sức mạnh của vũ khí công nghệ cao càng làm cho chiến tranh trở nên khốc
liệt, sự tổn thất về người và của là vô cùng lớn. Điều đó có vẻ như củng cố thêm
lòng tin của các học giả tư sản đối với quan điểm “vũ khí luận” của họ, càng làm
cho chủ nghĩa đế quốc say sưa hơn trong việc thi thố vũ khí công nghệ cao để đe
doạ các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Với việc trang bị vũ khí cho hàng triệu dân và những tuyên bố rất kiên quyết
của những người lãnh đạo đất nước: “Tất cả chúng tôi sẽ tiến hành chiến tranh du
kích, Irắc sẽ trở thành địa ngục đối với bọn Mỹ”; “Chúng tôi sẽ chết ở đây. Chúng
tôi sẽ chết tại đất nước này và chúng tôi sẽ giữ danh dự của mình” tưởng chừng
Irắc sẽ phát động được cuộc chiến tranh nhân dân và Mỹ sẽ vấp phải sự kháng cự
quyết liệt của cả một dân tộc. Nhân loại tiến bộ yêu chuộng hoà bình những tưởng
hy vọng vào sự chiến đấu ngoan cường của một dân tộc, một đất nước là một trong
những cái nôi của nền văn minh nhân loại, sẽ làm cho Mỹ thất bại, với sự tổn thất

nặng nề. Thế nhưng, tình hình diễn ra không phải theo sự hy vọng ấy.


Phải chăng sự thất bại nhanh chóng của chính thể SaĐam - Hutxen là sự
minh chứng cho “ưu thế tuyệt đối” của vũ khí kỹ thuật đối với chính trị - tinh thần
của con người? Hay điều đó phản ánh một thực tế là nhân tố con người, nhân tố
chính trị - tinh thần chưa được quan tâm đúng mức, chưa được phát huy cao độ
trong chiến tranh. Câu trả lời ở đây là theo hướng lý giải thứ hai, nghĩa là Chính
phủ Irắc chưa huy động được đầy đủ và cao nhất mọi nguồn sức mạnh vật chất,
tinh thần trong nước và quốc tế, chưa tạo ra được trạng thái chính trị - tinh thần cao
và vững chắc, thậm chí còn bị suy giảm nghiêm trọng, cho nên chưa tạo ra được
sức mạnh cần thiết để có thể chiến thắng được đối thủ có tiềm lực và sức mạnh
kinh tế, quân sự vượt trội.
Bước vào chiến tranh, lực lượng của Irắc đã quá manh mún, yếu kém và
trong thế hầu như bị cô lập hoàn toàn; trạng thái chính trị - tinh thần của cả quân
đội và nhân dân không vững chắc và bị phân rã bởi sự mất đoàn kết và phân tán
của ban lãnh đạo đất nước, đã nhanh chóng bị rệu rã và suy sụp khi Mỹ tiến công
quân sự một cách dữ dội. Trong khi đó, Mỹ đã sử dụng có hiệu quả chiến tranh
tình báo và chiến tranh tâm lý vừa để mua chuộc, dụ dỗ vừa làm lung lạc tinh thần
và ý chí chiến đấu của sỹ quan, binh lính và nhân dân Irắc. Tình hình đó làm cho
chính trị - tinh thần vốn đã suy yếu của Irắc càng nhanh chóng bị suy sụp, dẫn đến
sự đầu hàng quá nhanh, mà nhiều bộ óc chiến lược quân sự trên thế giới cũng
không thể ngờ được. Giáo chủ Khamêni đã phải thốt lên: “Sự thất bại của lực
lượng Vệ binh Cộng hoà Irắc trong việc bảo vệ đất nước, chống liên quân do Mỹ
đứng đầu sẽ là một nỗi nhục của muôn đời. Thế giới luôn tỏ lòng kính trọng những
ai kháng cự, bảo vệ đất nước, cho dù họ có thể bị kẻ thù đánh bại. Nhưng thật đáng
hổ thẹn cho những kẻ đầu hàng”1
Rõ ràng là, sự thất bại của Irắc không phải là sự minh chứng cho “ưu thế
tuyệt đối” của vũ khí công nghệ cao đối với nhân tố con người, nhân tố chính trị tinh thần trong chiến tranh như suy nghĩ của một số người nào đó; mà là sự minh
chứng cho sự yếu kém đến bạc nhược của Chính phủ SaĐam - Hússen trong việc

quy tụ, động viên sức người, sức của của cả đất nước cho chiến tranh. Họ đã không
phát huy được truyền thống yêu nước, ý chí quật cường trong lịch sử hào hùng của
1 Xem Tạp chí Kiến thức Quốc phòng hiện đại, số 6/2003, tr 6


dân tộc Irắc, không xây dựng và động viên được nhân tố chính trị - tinh thần của
nhân dân và quân đội trong cuộc chiến đấu chống quân thù; trái lại, còn làn suy
yếu sức mạnh của dân tộc, sức mạnh chính trị - tinh thần của đất nước.
Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao gần đây
cũng cho thấy, nhân tố con người, nhân tố chính trị - tinh thần đã vấp phải những
thách thức mới, hết sức gay gắt. Sự tàn khốc của chiến tranh, sự huỷ diệt của các
loại vũ khí công nghệ cao... là những thử thách hết sức nghiêm trọng đối với bản
lĩnh chính trị, sức mạnh và ý chí quyết tâm, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của
quân đội và nhân dân các nước bị tiến công. Tuyệt đối hoá vai trò của vũ khí kỹ
thuật là một sai lầm nghiêm trọng; nhưng không thấy sự tác động sâu sắc, mạnh
mẽ và toàn diện của vũ khí công nghệ cao đối với chính trị - tinh thần của con
người, cũng như không thấy sự cần thiết phải xác định yêu cầu, nội dung mới và
những giải pháp để xây dựng, động viên chính trị - tinh thần trong điều kiện chiến
tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao thì cũng là một sai lầm nguy hại.
Những thách thức mới đối với nhân tố chính trị - tinh thần không chỉ bởi áp
lực và ưu thế của vũ khí công nghệ cao do đối phương tiến hành; mà còn bởi sự
bức bách của việc xác định những yêu cầu, nội dung và tìm kiếm, thực thi các giải
pháp để có thể tạo dựng được một tinh thần quyết chiến, quyết thắng cao, một
trạng thái vững chắc về chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội, tạo nên sức
mạnh tổng hợp, đủ sức đánh thắng chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công
nghệ cao. Đây là vấn đề to lớn có tầm quan trọng đặc biệt đối với các quốc gia, dân
tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ đất
nước nói chung, chiến lược xây dựng, động viên chính trị - tinh thần của nhân dân
và quân đội nói riêng, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và an ninh quốc
gia, đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù.

Từ sự phân tích trên cho thấy, vai trò của nhân tố con người, nhân tố chính
trị - tinh thần trong chiến tranh, kể cả trong chiến tranh có sử dụng vũ khí công
nghệ cao không hề suy giảm, trái lại càng trở nên đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên,
để phát huy được vai trò quyết định của nhân tố ấy trong chiến tranh, phải có sự
chuẩn bị đầy đủ và động viên không ngừng với các giải pháp khoa học, phù hợp.


Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta
đang tiến hành trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ vẫn gia tăng tốc
độ phát triển, xu thế toàn cầu hoá kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động
sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc vẫn diễn ra gay go quyết liệt với nhiều hình thức mới phức tạp. Thế kỷ
XXI vẫn là thế kỷ diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt với nhiều “cung bậc” khác nhau
nhằm khẳng định hay phủ định nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên bản đồ chính
trị thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá, chúng ta không thể đóng cửa cài then cho chắc
mà không dám hội nhập; đồng thời cũng không thể mở tung cửa mà không có sự
lựa chọn nào. Làm thế nào để nước ta phát triển, giữ vững được độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội khi tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế trong bối cảnh phức tạp
như hiện nay là câu hỏi đặc biệt hệ trọng đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Tính phức tạp khó khăn của việc giải bài toán này không phải chỉ bởi sự chống phá
tinh vi và xảo quyệt của các thế lực thù địch, mà còn bởi những phức tạp, nan giải
trong việc xác định đâu là sự chống phá của chúng, đâu là những khuyết điểm, sơ
hở của chúng ta và cả đâu là những vấn đề do những quy định của “luật chơi” quốc
tế đem lại. Lời giải cơ bản đã được Đảng ta xác định ở Đại hội IX và các Nghị
quyết của Ban chấp hành Trung ương gần đây.
Tình hình thế giới và trong nước trên tác động mạnh mẽ và đặt ra những vấn
đề rất mới đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Nội dung rộng lớn và toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc mà Đảng ta xác định
tại Đại hội IX: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc” càng trở nên sâu sắc hơn
trong điều kiện mới. Bảo vệ Tổ quốc bao gồm cả hai phương diện tự nhiên - lịch
sử và chính trị - xã hội. Vấn đề giữ vững ổn định chính trị - xã hội và an ninh quốc
gia trên tất cả các lĩnh vực, cả an ninh bên ngoài và an ninh bên trong, ngăn ngừa,
loại trừ mọi nguy cơ chiến tranh; đồng thời sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm
lược của kẻ thù trong điều kiện chiến tranh thông thường, cũng như chiến tranh có


sử dụng vũ khí công nghệ cao là đòi hỏi bức thiết của tình hình, là vấn đề vừa cơ
bản, vừa cấp bách của sự nghiệp bảo vệ của Tổ quốc trong điều kiện mới.
Trong điều kiện đó chúng ta cần phải quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm sức
mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta tại Đại hội IX: “Sức mạnh bảo vệ Tổ
quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực
lượng và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an
ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với
hoạt động đối ngoại”1. Theo đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong qúa
trình xây dựng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân nói chung, xây dựng,
động viên chính trị - tinh thần nói riêng trong tình hình hiện nay càng có ý nghĩa
quan trọng. Phát biểu trong buổi lễ kỷ niệm lần thứ 113 ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, đồng chí Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh nêu rõ: “Đây là thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết
tâm phấn đấu làm cho Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác- Lê nin
ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội ta,
được quán triệt sâu sắc vào các hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
trong thời kỳ mới”2


1 ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr 117
2 Báo Nhân dân, ngày 16/5/2003, tr 1-2


×