Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN THỜI đại và sự NHẬN THỨC của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM về NHỮNG BIẾN đổi mới về THỜI đại HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.89 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1.

1
QUAN ĐIỂM VỀ THỜI ĐẠI HIỆN NAY

2

1.1.

Quan niệm của các nhà tư tưởng trong lịch sử về

2

1.2.

thời đại
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời đại

3

NHỮNG XU THẾ CỦA THỜI ĐẠI HIỆN NAY

10

2.

VÀ SỰ NHẬN THỨC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT


NAM VỀ NHỮNG BIẾN ĐỔI MỚI CỦA THỜI
2.1
2.2.

ĐẠI HIỆNNAY
Các xu thế của thời đại hiện nay
Sự nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về

10
13

những biến đổi mới của thời đại hiện nay
KẾT

20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

21


2
Vấn đề “thời đại” là một đề tài hấp dẫn được các học giả phương Đông và
phương Tây nghiên cứu tìm hiểu và đã đưa ra rất nhiều kiểu phân chia. Nhưng phải
đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, với thế giới quan và phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì mới thật sự
đưa ra quan niệm khoa học, cách mạng về thời đại. Thời đại theo quan điểm
Mácxít là một khái niệm chính trị, là sự khái quát chiến lược ở tầng nấc cao

nhất về tiến trình phát triển và xu thế cơ bản của thế giới. Về mặt thời gian, nó
chỉ một giai đoạn tương đối dài trong tiến trình phát triển lịch sử thế giới. Về
mặt không gian, nó lấy đặc trưng phát triển xã hội của đại đa số quốc gia và khu vực
trong phạm vi toàn thế giới làm căn cứ. Về mặt nội dung, nó là sự khái quát bản chất
về các mâu thuẫn và vấn đề của thế giới. Nhìn từ phương hướng phát triển, nó là sự
phản ánh cơ bản về tình thế cơ bản của tiến trình lịch sử thế giới. Những nguyên lý
lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời đại có vai trò định
hướng cho các đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đề ra đường lối,
chính sách đối nội, đối ngoại đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm xu thế của
thời đại.
Đặc biệt, trong thời kỳ hiện nay, thế giới mà chúng ta sống đang có những biến
động mạnh mẽ trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở trong từng nước, từng
khu vực và trên phạm vi toàn thế giới. Những biến động ấy đã và đang diễn ra rất
nhanh chóng, có liên quan đến nhau trong mối quan hệ quốc tế được mở rộng chưa
từng thấy. Thực tiễn đó đòi hỏi, mỗi quốc gia dân tộc, trước hết là mỗi Đảng cộng
sản cần phải biết mình đang sống trong thời đại lịch sử nào, với những đặc điểm,
những mâu thuẫn cơ bản gì, với xu hướng phát triển ra sao để chọn hướng đi đúng,
phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Chỉ có trên cơ sở hiểu đúng thời đại,
chúng ta mới có thể lựa chọn con đường phát triển của dân tộc theo hướng tiến bộ và
văn minh. Vì vậy, nghiên cứu về: “Thời đại và sự nhận thức của Đảng Cộng sản
Việt Nam về những biến đổi mới của thời đại hiện nay” là đặc biệt cần thiết.
NỘI DUNG


3
1. Quan niệm về thời đại hiện nay
1.1. Quan niệm của các nhà tư tưởng trong lịch sử về thời đại
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng nhân loại cho thấy đã có nhiều nhà tư tưởng
đưa ra quan niệm của mình về thời đại và phân chia lịch sử xã hội loài người
thành những thời đại lịch sử từ thấp đến cao. Nhà xã hội học Italia là Vicô

(1668 – 1744) căn cứ vào sự khủng hoảng có tính chu kỳ của CNTB, đã phân
chia thời đại lịch sử như vòng đời của con người gồm: Thơ ấu, thanh niên,
trung niên và tuổi già. Cách thức phân chia thời đại này, chỉ đạt được tiêu chí
về lịch đại tức là phản ánh được về thời gian mà chưa thể hiện được đầy đủ cơ
sở, nội dung và đặc điểm của thời đại. Nhà triết học Đức (Hêghen: 1770 –
1881), căn cứ vào địa chính trị, địa kinh tế, lại phân chia lịch sử xã hội thành
ba thời kỳ chủ yếu: Phương Đông, cổ đại và Giéc Man. Thực chất đây là quan
điểm phân chia thời đại dựa trên cơ sở vùng lãnh thổ, lịch sử xã hội, chưa rõ
nội dung nấc thang phát triển và xu thế vận động của thời đại. Nhà XHCN
không tưởng Pháp (Phurie: 1772 – 1873), căn cứ vào sự tiến bộ của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất giữa người và người trong quá trình sản xuất, đã
phân chia lịch sử xã hội loài người thành bốn thời kỳ: Mông muội, dã man, gia
trưởng và văn minh.
Quan điểm của Phuriê có những yếu tố hợp lý, đã dựa vào sự phát triển
của lực lượng sản xuất, để phân chia lịch sử xã hội loài người thành bốn thời
đại kế tiếp nhau, nhưng chưa phản ánh toàn diện mọi mặt của thời đại lịch sử.
Nhà nhân chủng học người Mỹ (Moóc – Gan: 1818 – 1882), căn cứ vào tình
trạng hôn nhân, phân chia lịch sử xã hội thành các thời đại: Mông muội, đã
man và văn minh. Ông dựa trên cơ sở nghiên cứu lịch sử ra đời kế tiếp nhau
của các hình thức hôn nhân và gia đình, coi đó là tiêu chí để phân chia lịch sử
loài người thành ba thời đại lịch sử là chưa thật khoa học và toàn diện. Ngoài
ra còn có cách phân chia, những khái niệm khác như: thời đại đồ đá, thời đại
đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước, kỷ nguyên hạt nhân; hay


4
nền văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công
nghiệp.
Như vậy, trong việc phân chia các thời đại của lịch sử xã hội loài người,
có những quan điểm dựa vào cơ sở chủ quan không phản ánh đúng tiến trình

lịch sử nhân loại và làm cho việc nhận thức các thời đại hoàn toàn sai lệch. Có
người lấy kỹ thuật làm căn cứ phân chia thời đại. Cách phân chia này tuy có
những điểm hợp lý nhất định ở một mặt, một phía nào đó của thời đại, tức là
nhấn mạnh vai trò của lực lượng sản xuất. Nhưng cách phân chia này không
thể chỉ ra được tính chất xã hội và động lực phát triển của thời đại.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- lênin về thời đại
Bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại do chính Người lãnh đạo, V.I. Lê-nin
đã mở ra thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội và bằng trí tuệ uyên bác của một nhà tư tưởng lỗi lạc,
Người đã kịp thời tổng kết thực tiễn, kế thừa, phát triển quan điểm của C. Mác
và Ph. Ăng-ghen về thời đại, xây dựng nên nhận thức, quan điểm mác-xít về
thời đại ngày nay.
Trên cơ sở nhìn nhận tiến trình của xã hội loài người như một dòng
chảy lịch sử - tự nhiên, phủ định biện chứng giữa các hình thái kinh tế - xã hội,
C. Mác và Ph. Ăng-ghen xác định mỗi hình thái này, với quá trình phát sinh,
phát triển và bị thay thế của nó, đánh dấu một thời đại lịch sử. Cơ sở khoa học
đầu tiên và căn bản nhất để xác định một thời đại cụ thể là các điều kiện vật
chất khách quan, tức hình thái kinh tế - xã hội, với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng, phù hợp với một trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất và
một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Ph. Ăngghen đã viết: “…trong mỗi thời
đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ
cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính


5
trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ
có xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử đó…” 1 .
Trên cơ sở khái niệm thời đại do C. Mác và Ph. Ăng-ghen nêu ra, V.I. Lênin đã tiếp tục phát triển nhận thức về vấn đề hệ trọng này, bắt đầu xem xét
thời đại như một phạm trù lịch sử. Để không lạm dụng khái niệm thời đại, V.I.
Lê-nin đã cụ thể hóa mỗi thời đại lịch sử lớn theo cách phân kỳ hình thái kinh

tế - xã hội của C. Mác và Ph. Ăng-ghen thành nhiều thời đại nhỏ, tương ứng
với từng giai đoạn nhất định. Tuy nằm trong một hình thái kinh tế - xã hội, các
giai đoạn (thời đại) này khác nhau căn bản về đặc điểm, bối cảnh lịch sử, động
lực, nội dung, tính chất và phương hướng vận động. Sự ra đời của thời đại gắn
với cách mạng xã hội và sự hình thành, phát triển của một hình thái kinh tế- xã
hội mới, nhưng thời đại mới và hình thái kinh tế- xã hội mới không trùng khít
với nhau, trong cùng thời đại có nhiều hình thái kinh tế- xã hội đan xen đấu
tranh phủ định lẫn nhau. Như V. I. Lênin đã viết: “ Trong mỗi thời đại đều có
và sẽ còn có những phong trào cá biệt, cục bộ, khi tiến, khi lùi; đều có và sẽ
còn có những thiên hướng khác đi chệch khỏi phong trào chung, nhịp độ
chung” 2 .
Phương pháp tiếp cận của V.I. Lê-nin khắc phục được một số sai lầm có
thể xảy ra khi nghiên cứu về thời đại. Một là, lấy diễn biến, đặc điểm của một
giai đoạn làm đặc trưng cho cả một thời đại lịch sử dài. Hai là, đưa ra quá sớm
những khẳng định đối với tương lai, mà đương thời mới chỉ tồn tại dưới dạng
những dự đoán. Ba là, không gắn việc nhận thức về thời đại với việc phân tích
bối cảnh quốc tế và cục diện thế giới trong từng giai đoạn cụ thể, làm cho bản
thân vấn đề thời đại mất đi ý nghĩa thực tiễn, trở nên xa vời đối với đời sống
chính trị hiện thực. Theo V.I.Lênin: "Thời đại sở dĩ gọi là thời đại bởi vì nó
bao hàm một số hiện tượng và chiến tranh khác nhau, điển hình cũng như
1
2

Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, tập 26, Nxb CTQG, H, 1995, trang 175
Lênin, toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1980, trang 174


6
không điển hình; lớn cũng như bé, vốn có của các nước lạc hậu. Tách rời
những vấn đề cụ thể ấy bằng cách sử dụng những câu nói chung chung về thời

đại…" 3
Như một phạm trù lịch sử, thời đại ngày nay đã được V.I. Lê-nin đặt
dấu mốc nhận thức trên cơ sở phân tích cụ thể một hiện thực cụ thể của chủ
nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đó là bước chuyển của chủ nghĩa
tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, đế quốc. Quy
luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản làm xuất hiện các mâu thuẫn
mới của thời đại; đồng thời, tạo ra các mắt khâu xung yếu trong hệ thống tư
bản chủ nghĩa thế giới. V.I. Lê-nin gọi đây là thời đại đế quốc chủ nghĩa, với
đầy nguy cơ chiến tranh thế giới khốc liệt giữa các thế lực đế quốc với nhau.
Và cũng với thế giới quan biện chứng mẫu mực, V.I. Lê-nin nhận định các
cuộc chiến tranh đế quốc là “đêm trước của cách mạng vô sản” và chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước là “phòng chờ của chủ nghĩa xã hội”. Bởi vậy, Người
đã bổ sung nhận thức về thời đại ngày nay là thời đại đế quốc chủ nghĩa và
cách mạng vô sản. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, lãnh tụ V.I.
Lê-nin cụ thể hóa rằng nhân loại đã bắt đầu một thời đại mới, thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng là V.I. Lê-nin không hề xác
lập quan niệm về thời đại ngày nay từ tư duy trừu tượng, mà đã xây dựng nó từ
sự phân tích lịch sử sâu sắc, cụ thể.
Về thời đại mới, thời đại hiện nay hay thời đại chúng ta là những khái
niệm đồng nghĩa, được V.I.Lênin sử dụng rộng rãi và có thể thay thế nhau,
được đánh dấu mở đầu từ cuộc cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi,
V.I.Lênin, khẳng định nếu xét trên bình diện lịch sử toàn thế giới cách mạng
Tháng Mười Nga đã "mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới" 4

3
4

Lênin, toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.86-87.
Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, M.1978, tr.1847.



7
Không chỉ xác lập nhận thức, quan niệm đúng đắn về thời đại ngày nay,
V.I. Lê-nin còn đặt dấu mốc mở đầu thời đại mới, lãnh đạo thành công cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trong lịch sử loài người. Với ý nghĩa đó, Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 và sự ra đời của nhà nước Xô-viết công - nông đúng là sự kiện “làm rung
chuyển thế giới”, mở đường cho các dân tộc vùng lên xóa bỏ hệ thống thuộc
địa, đạp đổ chủ nghĩa thực dân và đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội;
đồng thời, thúc đẩy phong trào hòa bình, tiến bộ toàn thế giới đấu tranh, phê
phán chủ nghĩa tư bản ngay tại các trung tâm của chúng. Sự hình thành và lớn
mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; các cao trào giải phóng dân tộc,
trong đó nhiều nước đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phong trào công
nhân và phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội ở các nước tư
bản phát triển trong nhiều thập niên của thế kỷ XX; quá trình cải cách, đổi mới
chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những thập niên cuối thế kỷ XX trở lại đây;
những cuộc khủng hoảng liên tiếp của chủ nghĩa tự do tư bản chủ nghĩa và sự
xuất hiện của cao trào cánh tả Mỹ La-tinh, trong đó có khuynh hướng chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XXI... là hệ quả trực tiếp và tất yếu của Cách mạng Tháng
Mười, là biểu hiện không gì có thể bác bỏ về tính hiện thực của thời đại quá độ
mà V.I. Lê-nin vạch ra.
V.I.Lênin đã khẳng định: "Dĩ nhiên là cách phân giới hạn đó, cũng như
nói chung những cách phân giới hạn trong giới tự nhiên hoặc trong xã hội, đều
chỉ có tính chất quy ước và không cố định, đều là tương đối chứ không phải là
tuyệt đối” 5
Thứ nhất, phải vận dụng phương pháp phân tích giai cấp, phân tích các
điều kiện của sự chuyển biến thế giới, đánh giá và nhận rõ đặc trưng cơ bản
của thời đại. Với những người Mácxít, một thời đại được gọi là thời đại, thời
đại này khác biệt với một thời đại khác, chính là vì trong tiến trình phát triển
5


V.I.Lênin, "dưới ngọn cờ của người khác", Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, M.1080, tr.174 – 175.


8
lịch sử loài người, giai đoạn riêng biệt nào đó, nó bao gồm toàn bộ những hiện
tượng và những cuộc chiến tranh muôn hình muôn vẻ, điển hình cũng có mà
không điển hình cũng có, lớn cũng có mà nhỏ cũng có, riêng cho các nước tiên
tiến cũng có mà riêng cho các nước chậm tiến cũng có. Khi trên thế giới còn
tồn tại phổ biến các chế độ nhà nước có tính chất khác nhau, giai cấp xã hội
khác nhau, chế độ xã hội khác nhau, có mối quan hệ phức tạp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, xét đến cùng bị nó chế ước
và do nó quyết định, muốn phân biệt thời đại thì phải kiên trì phương pháp
phân tích giai cấp xã hội nào, loại chế độ nhà nước nào quyết định và ảnh
hưởng đến nội dung chủ yếu của thời đại, đến đặc điểm bối cảnh chủ yếu của
thời đại, v.v... là căn cứ cơ bản để phân định thời đại.
Thứ hai, phải lựa chọn những sự kiện lịch sử đặc biệt nổi bật đã xảy ra
trong đời sống hiện thực làm mốc để phân chia thời đại. V.I.Lê nin đã chỉ ra:
“Dĩ nhiên là những cách phân giới hạn đó, cũng như nói chung những cách
phân giới hạn trong thời tự nhiên hoặc trong xã hội, đều chỉ có tính chất quy
ước và không cố định, đều là tương đối chứ không phải là tuyệt đối và nếu ta
lấy những sự kiện lịch sử nổi bật nhất, đáng chú ý nhất để làm mốc cho những
phong trào lịch sử lớn thì đó cũng chỉ làm một cách phỏng chừng mà thôi”.
Lênin đã từng lựa chọn cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha (1893), cuộc chiến
tranh Anh - Bôe (1899 - 1902), cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) và
cuộc khủng hoảng kinh tế châu Âu năm 1900 làm những mốc chủ yếu của thời
kỳ lịch sử (CNTB tự do tiến vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa) đó. Lênin nhấn
mạnh: “Chúng ta đang sống ở khoảng giao thời giữa hai thời đại và chỉ có thể
hiểu được những biến cố lịch sử có ý nghĩa lớn lao đang diễn ra trước mắt
chúng ta nếu trước hết chúng ta phân tích những điều kiện khách quan của

bước chuyển từ thời đại này sang thời đại kia”. Chính vì vậy, Lênin coi thắng
lợi của cách mạng XHCN Tháng Mười là sự mở đầu của thời đại mới, cho rằng
Cách mạng Tháng Mười thắng lợi mở ra con đường quá độ từ CNTB lên


9
CNXH của lịch sử loài người. Còn Đặng Tiểu Bình cho rằng, việc kết thúc
chiến tranh thế giới lần thứ hai, một loạt nước XHCN ra đời, nhân loại tiến vào
thời đại mới hoà bình và phát triển, v.v... là cột mốc.
Thứ ba, kiên trì nguyên tắc kết hợp “tính phổ biến” với “tính đặc thù”,
lấy hiện tượng mang tính phổ biến trong phạm vi thế giới để giới định nội
dung thời đại. Bản thân khái niệm thời đại có tính thế giới, mâu thuẫn thế giới
và quy luật phát triển thay đổi của nó xuyên qua các hiện tượng mà xác định
nội dung thời đại, là “sự tổng hoà của các kiểu, các loại hiện tượng”. Thời đại
là một khái niệm chiến lược. Về mặt thời gian, không phải chỉ là mười mấy
năm, mấy chục năm, mà chỉ là thời kỳ lịch sử tương đối dài; về mặt nội dung,
không phát triển là chỉ những sự kiện cá biệt, hiện tượng cá biệt, mà là từ
trong phân tích các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học - kỹ thuật, văn
hoá, v.v... của thế giới, từ trong các hiện tượng phức tạp tìm kiếm những yếu
tố và hợp lực phản ánh chỉnh thể, xác định những mâu thuẫn chủ yếu, đặc
trưng chủ yếu và hướng đi cơ bản của thế giới. Sở dĩ, Lênin xác định nửa đầu
thế kỷ XX là thời đại “chiến tranh” và “cách mạng” là vì Người cho rằng:
“Một thời đại được gọi là thời đại, chính là vì nó bao gồm toàn bộ những hiện
tượng và những cuộc chiến tranh muôn hình muôn vẻ, điển hình cũng có mà
không điển hình cũng có, lớn cũng có mà nhỏ cũng có, riêng cho các nước tiên
tiến cũng có mà riêng cho các nước chậm tiến cũng có”.
Thứ tư, phải biết kết hợp thời đại lớn với thời đại nhỏ để phân tích xu
thế phát triển của thời đại. Những người Mácxít cho rằng, thời đại có sự phân
biệt lớn nhỏ, không thể sử dụng khái niệm thời đại một cách chung chung.
Thông thường mà nói, chúng ta sử dụng phần lớn là khái niệm thời đại lớn, tức

các giai đoạn lịch sử khác nhau trong tiến trình phát triển xã hội loài người.
Nhưng cũng không loại trừ sử dụng khái niệm thời đại nhỏ hoặc giai đoạn nhỏ
ở một số trường hợp nào đó, tức trong thời đại lớn lại có thể chia ra những thời
đại nhỏ hoặc giai đoạn nhỏ. C.Mác cho rằng: “Về đại thể, có thể coi các


10
phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những
thời đại tiến triển dần dần của hình thái kinh tế - xã hội”. Ở đây là chỉ thời đại
lớn trong lịch sử. Thời đại lớn là giai đoạn lịch sử tương đối dài và trong thời
đại lớn đó, do các vấn đề chủ yếu cần giải quyết khác nhau mà xuất hiện các
giai đoạn nhỏ khác nhau, tức thời đại nhỏ. Đúng như Ph. Ăng ghen đã khẳng
định: “Những giai đoạn quá độ lên xã hội cộng sản - đấy là vấn đề khó nhất
trong tất cả những vấn đề còn tồn tại vì rằng các điều kiện không ngừng thay
đổi. Chẳng hạn, mỗi tờ rớt mới đều làm biến đổi chúng và cứ mười năm một,
mục tiêu cần công kích lại hoàn toàn thay đổi”. Trong bài “Dưới ngọn cờ của
người khác”, Lênin cho rằng: “chúng ta đang sống ở khoảng giao thời giữa hai
thời đại”, “vấn đề ở đây là những thời đại lịch sử quan trọng” và theo Người,
cách phân chia thông thường những thời đại lịch sử thường được nêu ra trong
sách báo Mácxít... là phân chia thành ba “thời đại nhỏ”: 1/ 1789 - 1871; 2/
1871 - 1914; 3/ 1914 - ?. Theo Lê nin: “Thời đại thứ nhất” từ cuộc Đại cách
mạng Pháp đến cuộc chiến tranh Pháp - Phổ là thời đại mà giai cấp tư sản đang
phát triển mạnh, đang thắng lợi trên mọi mặt”… “thời đại thứ hai là thời đại
giai cấp tư sản giành được quyền thống trị hoàn toàn và đang bắt đầu đi
xuống”... “thời đại thứ ba, vừa mới bắt đầu, đặt giai cấp tư sản vào một địa vị
tương tự như địa vị của những lãnh chúa phong kiến trong thời đại thứ nhất
đứng”. “Thời đại nhỏ” thứ ba, giai cấp tư sản phát triển, đồng thời cũng là thời
đại chế độ XHCN bắt đầu ra đời, trưởng thành, phát triển, vì thế nó không
hoàn toàn thuộc về thời đại lớn – “thời đại TBCN”. Theo Lênin, hiện tại là
“khoảng giao thời” của “hai thời đại lịch sử lớn”. Nói cách khác, bắt đầu từ lúc

đó, cả thế giới đã tiến vào thời đại “quá độ CNTB lên CNXH và CNCS”. Việc
Lênin cho rằng, quá độ từ CNTB lên CNXH là cả một thời đại lịch sử, cũng
tức là nói, thời gian mà sự quá độ đó tiếp diễn là tương đối dài, vì thế bản thân
thời đại này mang tính quá độ đó phải được xem là một “thời đại lớn”, chắc
chắn phải trải qua các thời đại nhỏ hoặc giai đoạn nhỏ có nội dung và đặc


11
trưng khác nhau. Với những nội dung và đặc trưng khác nhau đó đã khiến cho
bước tiến của thời đại có sự lên xuống. Nhưng, những nội dung và đặc trưng
đó chắc chắn phải chịu sự chế ước của thời đại lớn, đã biểu hiện cụ thể sự
chuyển động chính và xu thế xa của cả thời đại lớn. Lênin cho rằng: “Chỉ có
trên cơ sở này, nghĩa là trước hết xem xét những nét khác nhau cơ bản của các
thời đại (chứ không phải của các giai đoạn lịch sử cá biệt ở các nước) thì
chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta”. Đồng thời, khi
phân tích cụ thể thời đại mà các quốc gia khác nhau đang đứng. V.I.Lênin
khẳng định chỉ có trên cơ sở hiểu đúng thời đại "chúng ta mới có thể định ra
đúng đắn sách lược của chúng ta; và chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc
điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi
tiết của nước này hay nước nọ" 6 . Làm rõ điều này là rất quan trọng. Điều đó
nhất định đòi hỏi chúng ta không được câu nệ vào một định nghĩa kinh điển
nào đó, nhìn thời đại thành một thứ tuyệt đối, nhất thành bất biến, mà phải
xuất phát từ tình hình thực tế, tức xuất phát từ nội dung khách quan của quá
trình lịch sử trong thời gian cụ thể, trong hoàn cảnh cụ thể, coi thời đại là có
điều kiện, tương đối, biến đổi, chia giai đoạn. Đồng thời, cũng không được ngộ
nhận các thời kỳ (giai đoạn) khác nhau trong cả thời đại lớn là các thời đại lớn
khác nhau, từ đó mà chuyển thời đại nhỏ thành thời đại lớn và sự thay đổi
phương hướng lớn của sự phát triển trong lịch sử loài người.
2. Các xu thế trong thời đại hiện nay và sự nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam về những biến đổi mới của thời đại hiện nay

2.1. Các xu thế trong thời đại hiện nay
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã mở ra kỷ nguyên mới cho lịch
sử nhân loại, đã bắt đầu cả một thời đại lịch sử “quá độ từ CNTB lên CNXH và
CNCS”. Lịch sử phát triển đến ngày nay, mặc dù CNTB và CNXH đều có
những thay đổi to lớn, nhưng chúng ta vẫn đang ở vào một thời đại lớn: toàn
6

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.174.


12
thế giới quá độ từ CNTB lên CNXH. Đương nhiên, chủ đề mang tính giai đoạn
của thời đại lớn đã thay đổi, tức thời đại nhỏ đã thay đổi, từ thời đại nhỏ
“chiến tranh và cách mạng” trước đây đã tiến vào một thời đại nhỏ mới - thời
đại nhỏ “hoà bình và phát triển”.
Loài người vẫn ở vào một thời đại lớn “quá độ từ CNTB lên CNXH”.
Lịch sử nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI, cho dù cục diện của thế giới đã có
những thay đổi cực kỳ sâu sắc nhưng chúng ta vẫn ở thời đại lớn “quá độ từ
CNTB lên CNXH” của xã hội loài người bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười
Nga. Trước hết, thời đại mà chúng ta nói đến là “thời đại lớn của lịch sử”, về
mặt thời gian mà nói, không phải là mấy năm, mười mấy năm, mấy chục năm,
mà là một thời kỳ lịch sử tương đối dài - theo Lênin là “cả một thời đại lịch
sử”; về mặt không gian, không chỉ liên quan đến khu vực cục bộ, mà còn ảnh
hưởng đến cả thế giới. Hai là, nhìn từ phương hướng phát triển, các hiện tượng
của thời đại rối rắm phức tạp, lại phát triển độc lập, mỗi cái có màu sắc riêng,
thậm chí có thể xuất hiện mất cân bằng, nhiều trắc trở, thậm chí thụt lùi, nhưng
xu thế phát triển của nó vẫn là tiến lên theo phương hướng dùng CNXH thay
thế CNTB của giai cấp trung tâm thời đại (tức giai cấp vô sản). Tính chất
trường kỳ và tính chất quanh co khúc khuỷu từ CNTB quá độ lên CNXH là do
những thay đổi thăng trầm của hai loại chế độ khác nhau - CNTB và CNXH quyết định. Sự thăng trầm và thay đổi đó vẫn cấu thành nội dung cơ bản và đặc

trưng chủ yếu của thời đại chúng ta.
Cục diện thế giới, trong bất biến đang thai nghén những thay đổi, trong
biến đổi lại hàm chứa sự bất biến. Thời đại hiện nay mà chúng ta nói ở đây là
chỉ thời đại nhỏ, là tương đối với thời đại trước lấy “chiến tranh và cách
mạng” làm nội dung chủ yếu, thời đại hiện nay lấy “hoà bình và phát triển”
làm nội dung chủ yếu.
Xu thế hoà bình và phát triển. Đây là một xu thế cơ bản trong thời đại hiện nay,
phản ánh nguyện vọng và nhu cầu chính đáng của các dân tộc, của quảng đại quần


13
chúng nhân dân lao động.Thực tế lịch sử chứng minh, loài người phải trả giá quá đắt
để giải quyết hậu quả của chiến tranh để lại, nó tàn phá nhiều sức người và sức khoẻ
của kìm hãm sự phát triển của nhân loại. Nhân loại tiến bộ là đã phải đấu tranh vạch
trần bộ mặt, bản chất của những kẻ chủ mưu gây chiến tranh để thu về lợi nhuận độc
quyền cao. Vì thế, đấu tranh bảo vệ hoà bình và chống lại chiến tranh đã trở thành
một xu thế của thời đại hiện nay nhằm mưu cầu. Vì lợi ích dân sinh của con người và
sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc.
Xu thế toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Xu thế khách quan
trong thời đại hiện nay là các quốc gia đều phải tham gia quá trình quốc tế hoá nền
kinh tế, và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu quốc gia nào không tích cực đẩy
mạnh quá trình hội nhập quốc tế thì khó có thể phát triển được, tuy nhiên mức độ và
hiệu quả hội nhập đến đâu còn tuỳ thuộc vào điều kiện tiềm năng của mỗi nước. Sự
xuất hiện xu thế toàn cầu hoá trong thời đại hiện nay là sản phẩm tất yếu của quá trình
phát triển lực lượng sản xuất, của sự phát triển nền sản xuất hàng hoá. Song toàn cầu
hoá hiện nay đang diễn ra theo hướng có lợi cho chủ nghĩa tư bản, cho các nước có
nền sản xuất công nghiệp phát triển. Quá trình này vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt ra những
thách thức lớn cho các nước chậm phát triển, hiệu quả của nó tuỳ thuộc vào năng lực
cạnh tranh về mọi mặt của mỗi nước và thắng lợi bao gồm cũng thuộc về kẻ mạnh.
Nếu không đấu tranh để tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các nước trong quá trình hội

nhập quốc tế sẽ dẫn đến tình trạng nước giàu thì ngày càng giàu lên, nước nghèo sẽ
càng nghèo thêm.
Xu thế hợp tác và đấu tranh, liên kết và cạnh tranh. Trong trật tự thế giới mới
đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, các nước đều mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
không phân biệt chế độ xã hội – chính trị khác nhau. Vì thế, xu thế hợp tác và đấu
tranh, liên kết và cạnh tranh đã trở thành xu thế cơ bản trong thời đại hiện nay. Mỗi
chủ thể tham gia quan hệ hợp tác có thể diễn ra theo hình thức song phương, đa
phương nhằm tận dụng nguồn vốn hoặc công nghệ mới để thúc đẩy nền kinh tế sản
xuất và các lĩnh vực khác để phát triển đất nước. Quá trình tham ra hợp tác quốc tế


14
không phải diễn ra xuôi chiều, trên thực tế mỗi quốc gia đều muốn giành những ưu thế và
lợi ích riêng của mình nên hợp tác phải gắn với đấu tranh, liên kết gắn với cạnh tranh.
Xu thế các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Mỗi quốc gia
dân tộc đều có quá trình ra đời, tồn tại và phát triển khác nhau, có đặc điểm bản sắc
văn hoá dân tộc riêng. Thực tế lịch sử chứng minh, không có quốc gia dân tộc nào
muốn phụ thuộc vào quốc gia dân tộc khác, trái lại luôn luôn nâng cao ý thức độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường. Các nước tư bản đế quốc luôn luôn thực hiện mưu đồ thôn
tính, xâm lược các dân tộc khác để vơ vét tài nguyên và mở rộng thị trường nhằm
đem lại lợi nhuận cao cho mình.
Trong thời đại hiện nay chủ nghĩa thực dân kiểu cũ tuy đã bị sụp đổ, song lợi
dụng xu thế toàn cầu hoá các nước tư bản phát triển đang tận dụng ưu thế về tài
chính, về công nghệ để buộc các nước chậm phát triển phải lệ thuộc vào mình. Thực
chất đây là một dạng biểu hiện của chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Vì từ lệ thuộc về
kinh tế tất yếu sẽ lệ thuộc về chính trị. Nhận thức được mưu đồ đó, các quốc gia dân
tộc tham gia quá trình mở rộng hợp tác quốc tế để tranh thủ cơ hội phát triển đất
nước, nhưng xu thế cũng chú trọng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
2.2. Sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về những biến đổi
mới của thời đại hiện nay

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hội nghị đại biểu các
Đảng cộng sản và công nhân quốc tế tại Mátxcơva năm 1957, 1960 và 1969
tiếp tục khẳng định: “Thời đại chúng ta mà nội dung chủ yếu là sự quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng cuộc Cách mạng tháng
Mười vĩ đại, là thời đại đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập, là thời đại
cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc, là thời đại sụp
đổ của chủ nghĩa đế quốc, tan rã của chủ nghĩa thực dân, là thời đại có nhiều
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, là thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới” 7
7

Tuyên bố của Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân tại Matxcơva tháng 11-1960, Nxb Sự thật 1961, tr.17-18.


15
Đại hội XI của Đảng ta chỉ rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện
nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia,
dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng
sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” 8 .
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
Đảng ta đã tích cực tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển nhận thức, quan
điểm về thời đại ngày nay. Đó là hệ thống các quan điểm vừa thể hiện sự trung
thành, kiên định với lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; vừa phản ánh phong cách sáng tạo, chủ động phân tích cụ
thể từng tình hình cụ thể. Nhờ vậy, đến nay, Đảng ta đã có nhận thức, quan
điểm đúng đắn, sinh động về thời đại ngày nay, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn
cho toàn Đảng, toàn dân vững bước trên con đường của Cách mạng Tháng

Mười Nga, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì sao cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi lại mở ra thời đại mới? Bởi lẽ, do ý
nghĩa lớn lao của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Cách mạng Tháng Mười
mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời
đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên toàn thế giới" 9 .
Đại hội III của Đảng, được tổ chức vào đầu tháng 9-1960, khẳng định:
"Chúng ta đang sống trong một thời đại vĩ đại chưa từng có trong lịch sử loài
người. Đó là thời đại mà nội dung cơ bản là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội, thời đại mà chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế
giới và đã giành được ưu thế rõ rệt trên trường quốc tế, thời đại mà lực lượng
8
9

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr 69.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb ST, HN 1989, tr.544.


16
xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ hòa bình đã mạnh hơn lực lượng của
chủ nghĩa đế quốc, thời đại mà phong trào cách mạng trên thế giới phát triển
vô cùng mạnh mẽ và chủ nghĩa đế quốc đang trên đà diệt vong không gì cứu
vãn được" 10 . Quan điểm này được nhất quán khẳng định trong các văn kiện của
Đảng từ năm 1960 đến nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Thắng
lợi của Cách mạng tháng Mười đã chiếu rọi lịch sử các dân tộc, tạo nên một
thời đại mới, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và sụp đổ của chủ nghĩa
tư bản” 11 .
Mặt khác, để đáp ứng đòi hỏi của thời đại như một phạm trù lịch sử, theo
tấm gương của V.I. Lê-nin, Đảng ta khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội trên thế
giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức

tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo
quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội” 12 . Đảng ta đã phát triển một cách đúng đắn nhận thức về thời đại hiện nay:
Trước hết, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức
đang làm thay đổi tận tầng sâu của nền sản xuất vật chất, tác động mạnh mẽ
đến cơ cấu xã hội, làm biến đổi các giá trị văn hóa, tinh thần, tư tưởng, làm
đảo lộn tương quan lực lượng trong cục diện thế giới... Với việc tạo ra các
công cụ lao động và phương pháp tổ chức, quản lý sản xuất mới, cách mạng
khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đã khai sinh ra một thời đại kinh tế
mới, khác nhiều so với thời đại kinh tế công nghiệp hàng trăm năm qua. Tuy
thời đại kinh tế không đồng nghĩa với thời đại như một phạm trù lịch sử,
nhưng sự ra đời của một thời đại kinh tế mới hiển nhiên đặt tiến trình vận động
của thời đại ngày nay vào bối cảnh, điều kiện chứa đựng thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và thách thức chưa hề có tiền lệ.

10

Văn kiện Đảng; Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t 21, tr 612 – 613
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.1996, tr.576.
12
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr14.
11


17
Trước sự điều kiện đó, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã nhạy bén và
lần đầu tiên nhấn mạnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và ghi nhận sự
ra đời của một thị trường kinh tế thế giới: "Một đặc điểm nổi bật của thời đại
là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ... làm gay gắt
thêm những mâu thuẫn của thời đại. Trên thế giới đang hình thành một thị

trường, trong đó hai hệ thống kinh tế đối lập đấu tranh với nhau quyết liệt, mặt
khác, sự hợp tác kinh tế là yêu cầu phát triển tất yếu của cả hai hệ thống. Cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa chính trị ngày càng quan trọng đối
với kết cục của cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống" 13 . Nhãn quan đúng đắn này
đã được tiếp tục bổ sung, phát triển trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và các văn kiện quan trọng
khác của Đảng trong các nhiệm kỳ vừa qua. Theo quan điểm của Đảng ta đã
nhận định: " Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá
trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của
nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình
thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển" 14 .
Thứ hai, toàn cầu hóa là một nhân tố bổ sung nội dung, đặc điểm mới
của thời đại ngày nay. Về mặt bản chất, toàn cầu hóa là tất yếu lịch sử do trình
độ phát triển cao của lực lượng sản xuất quyết định và nó hướng tới một thế
giới như một chỉnh thể thống nhất, công bằng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện
nay, toàn cầu hóa đang mang nặng tính chất tư bản chủ nghĩa, do chủ nghĩa tư
bản chi phối với mục tiêu chiến lược là thiết lập các quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Tính hai mặt phức tạp như vậy của toàn cầu
hóa đang tiếp tục tạo ra cục diện vừa hợp tác chặt chẽ, vừa đấu tranh quyết liệt
giữa các quốc gia trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, an
ninh, chính trị... Trong bối cảnh này, mọi liên minh và các hình thái tập hợp
13
14

Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 34
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.67.


18
lực lượng trên vũ đài quốc tế đều phải được cấu trúc lại, làm phong phú gấp

bội các xu hướng lịch sử so với cách đây 2 - 3 thập niên.
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức, nắm bắt được xu thế toàn cầu hóa.
Đến Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta kết luận: "Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách
quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa
tăng sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế" 15. Đại hội X
(năm 2006) bổ sung: "Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất
là các nước đang phát triển"16.
Thứ ba, xu thế vận động chủ yếu của thế giới hiện nay là xu thế hòa
bình, hợp tác và phát triển. Mỗi thời đại lịch sử, trong đó có thời đại ngày nay,
đều ra đời và vận động theo các quy luật khách quan. Nhận thức được quy luật
là yêu cầu hàng đầu đối với việc nghiên cứu về thời đại, nhưng hoàn toàn chưa
đủ nếu không tiếp tục nghiên cứu các xu thế lịch sử. Chúng có thể diễn ra như
những biểu hiện cụ thể, khác nhau, thậm chí trái chiều nhau, của quy luật
khách quan. Trên phương diện này, các xu thế lịch sử là những yếu tố rất
“động”, chịu sự tác động, chi phối, quyết định của hàng loạt quá trình vật chất,
kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, chính trị... vừa mang tính tất yếu
khách quan, vừa chứa đựng tính tình thế do các nhân tố chủ quan đem lại. Mỗi
xu thế là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và nó luôn luôn tồn tại
cùng với một hoặc nhiều phản xu thế, tạo nên bức tranh sinh động của thực
tiễn. Xu thế (và phản xu thế) hiện hữu trong khoảng thời gian tương đối ngắn,
thậm chí rất ngắn, buộc các chủ thể chính trị phải nhận biết, tận dụng kịp thời,
hiệu quả. Không làm được điều này, rất dễ rơi vào nguy cơ mất phương hướng,
lỡ nhịp, tụt hậu.

15
16

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 157
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 73



19
Nổi lên trên hết là xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển. Đảng ta xác
định đây là xu thế lớn. Hòa bình và hợp tác vừa là kết quả trực tiếp của hàng
thập niên đấu tranh cách mạng, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp trước kia;
vừa là hệ quả của cục diện thế giới đương đại; đồng thời cũng là đòi hỏi chung
mà mục tiêu phát triển hiện đại đặt ra cho mọi quốc gia dân tộc trên thế giới.
Nguy cơ chiến tranh lớn bị đẩy lùi, mặc dù nhiều cuộc chiến tranh, xung đột
cục bộ vẫn tiếp tục xảy ra. Mâu thuẫn, đấu tranh, cạnh tranh đương nhiên vẫn
gay gắt, nhưng mẫu số chung trong quan hệ quốc tế hiện nay là tích cực sử
dụng các biện pháp hòa bình thay cho chiến tranh; tiếp xúc, đối thoại, hợp tác
thay cho đối đầu; cùng có lợi trên con đường phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) ủng hộ các nỗ lực "đẩy lùi nguy cơ chiến tranh". Đại hội VIII (năm
1996) và Đại hội IX (năm 2001) của Đảng nhận định nguy cơ chiến tranh thế
giới bị đẩy lùi, hoặc ít có khả năng xảy ra. Đến Đại hội X, Đảng ta hoàn chỉnh
nhận định: Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.
Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố,
những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên
tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi bổ sung
2011) xác định: “Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là
xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh
tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp” 17 .
Bên cạnh xu thế lớn, Đảng ta cũng nắm bắt có hiệu quả một số xu thế quan
trọng khác. Trên bình diện đời sống quốc tế, đó là xu thế dân chủ hóa, gắn liền với xu

17

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr 67.


20
thế đa cực hóa trật tự thế giới. Trên bình diện địa chính trị, đó là sự lớn mạnh của
châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có cường quốc Trung Quốc, các quốc gia công
nghiệp hóa mới (NICs), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Xét riêng trong
các lực lượng cách mạng, sự phục hồi, phát triển của phong trào cộng sản, phong trào
chủ nghĩa xã hội, phong trào chống đế quốc, chống tư bản độc quyền là một xu thế
không thể bác bỏ.
Thứ tư, sự tồn tại của những vấn đề toàn cầu cũng làm cho thế giới
đương đại khác với thế giới trước kia. Chiến tranh thế giới, chủ nghĩa khủng
bố quốc tế, nạn bùng nổ dân số, thảm họa môi trường sinh thái và các dịch
bệnh hiểm nghèo (HIV/AIDS) là những vấn đề toàn cầu hàng đầu hiện nay,
vượt khỏi tầm kiểm soát của một quốc gia, một chủ thể quốc tế riêng biệt, cho
dù đó là siêu cường hay tổ chức quốc tế rộng lớn nhất. Đứng trước các vấn đề
toàn cầu, ngay cả các lực lượng đối địch, đối kháng, đối lập nhau cũng cần
thiết lập những vòng tay hợp tác để cứu vớt một lợi ích chung: đó là lợi ích
bảo tồn sự sống chung, trong đó có sự sống của chính mình. Chưa bao giờ,
cuộc đấu tranh vì các lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc lại phải chịu sự ràng buộc
với cuộc đấu tranh vì những lợi ích toàn cầu như ở giai đoạn hiện nay của thời
đại. Cương lĩnh năm 1991 nhận định: "Nhân dân các nước đang đứng trước
những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người" 18 . Đến
Đại hội X, Đảng ta đã cụ thể hóa rõ và đầy đủ hơn: "Những vấn đề toàn cầu
bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết;
khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng
lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm
nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí

hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch
bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng gia tăng" 19 . Đại hội XI
18
19

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 7
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 74


21
của Đảng khẳng định: “Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn
cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó
với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và
đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo... Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi
sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc” 20.
Những nhận thức đúng đắn, khoa học về vấn đề thời đại, là cơ sở quan
trọng để Đảng ta xác định đường lối, quan điểm, chủ trương lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động
hội nhập quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định đến những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, góp
phần nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

KẾT LUẬN
Thời đại hiện nay, được mở đầu bằng thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 do V.I. Lê-nin lãnh đạo, là một quá trình
lịch sử lâu dài, bao gồm nhiều giai đoạn, nhiều thăng trầm, thậm chí cả những
bước vận động quanh co và những bước lùi tạm thời. Nhận thức về thời đại ấy,
20


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 69


22
vì vậy, cũng phải được bổ sung, phát triển không ngừng cho phù hợp với tiến
trình khách quan của lịch sử. Chỉ bằng cách tổng kết thực tiễn để phát triển
nhận thức, những người cộng sản mới bảo vệ được quan điểm mác-xít về thời
đại hiện nay, từ đó, định hướng cho các hoạt động thực tiễn vì những mục tiêu
cao cả của thời đại. Phải xem xét thời đại như vậy mới không rơi vào tình trạng
lúng túng, bị động trước những biến động, những đảo lộn đang diễn ra ở nước này
hay nước khác, cũng như trong đời sống chung của nhân loại. Sự nhận thức sai lệch
về thời đại chắc chắn đưa lại tổn thất cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động cho sự nghiệp giải phóng của các dân tộc và sự nghiệp
giải phóng con người. V.I.Lênin khẳng định chỉ có trên cơ sở hiểu đúng thời đại
"chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta; và chỉ có dựa trên cơ
sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến
những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ"21. Và chính V.I. Lê-nin đã từng
hành động như vậy từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, để lại một tấm gương
biện chứng mẫu mực, có giá trị vững bền cho các lực lượng cộng sản, cách
mạng và tiến bộ toàn thế giới./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, tập 26, Nxb CTQG, H, 1995, trang 175
2. V.I.Lênin, "dưới ngọn cờ của người khác", Toàn tập, tập 26, Nxb
Tiến bộ, M.1080, tr.174 – 175.
3. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.174.
21

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.174



23
4. V.I. Lênin, toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.86-87.
5. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, M.1978, tr.1847.
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb ST, HN 1989, tr.544.
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.1996, tr.576.
8. Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, H. 2002.
9. Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
10. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 7.
11. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 14; 157
12. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 73-74; tr.737.
13. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
CTQG, H, 2011, tr67-69



×