Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN vận DỤNG QUAN điểm TRIẾT học mác lê NIN về mối QUAN hệ GIỮA KINH tế và CHÍNH TRỊ TRONG sự NGHIỆP đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.94 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản nhất. Mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, tạo điều kiện cho nhau cùng tồn tại và phát triển
giữa kinh tế và chính trị đã được Triết học Mác - Lênin luận giải một cách khoa học.
Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị ở mỗi quốc gia dân tộc là cơ sở, là điều kiện cơ bản nhất đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển xã hội.
Thực tế cho thấy, sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu do
nhiều nguyên nhân, trong đó việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị chưa đúng đắn là một nguyên nhân quan trọng. Có lúc, có nơi đã nhấn mạnh
thái quá đến yếu tố chính trị, coi nhẹ yếu tố kinh tế, dẫn đến chủ quan, duy ý chí hoặc
coi trọng yếu tố kinh tế, xem nhẹ yếu tố chính trị, làm cho kinh tế phát triển tự phát, vô
chính phủ. Ở nước ta, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo, đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, nhờ vậy đã đem lại những thành tựu to
lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, có những thời điểm, chúng ta
chưa thực sự hiểu một cách thấu đáo, đầy đủ về mối quan hệ này, do vậy đã vấp phải
những sai lầm, khuyết điểm, làm nảy sinh những yếu tố tiêu cực.
Hiện nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu
hóa, tình hình thế giới diễn biến mau lẹ, bất trắc, khó lường, tạo ra nhiều thời cơ,
vận hội phát triển nhưng cũng đã và đang đặt ra cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hàng loạt những thách thức, nguy cơ đan xen, trong đó có nhiều thách thức nảy
sinh từ quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Do đó, nhận thức và vận
dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị. Từ suy nghĩ đó , tôi chọn vấn đề nghiên cứu: “Vận dụng quan điểm triết

1


học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong sự nghiệp đổi mới


đất nước hiện nay”.
NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ

1.1. Khái niệm kinh tế và chính trị
Từ những năm 40 của thế kỷ XIX, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc thành
quả của những nhà tư tưởng trước đó, dựa trên những cứ liệu được rút ra từ
thực tiễn lịch sử nói chung, thực tiễn của CNTB đương thời nói riêng, các nhà
sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã vạch ra bí mật của các quá trình kinh tế, giải
thích bản chất và động lực của sự phát triển kinh tế một cách khoa học dựa trên
lập trường của CNDVBC và CNDVLS.
C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” đã khẳng
định: “Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người do đó cũng là của
lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã, rồi mới có thể làm ra lịch
sử. Nhưng muốn sống được trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa” 1 . Muốn có những thứ đó, người ta phải tiến
hành sản xuất, đời sống, sự tồn tại của con người sẽ chấm dứt, sẽ tiêu tan nếu
hoạt động đó ngưng lại.
Trong quá trình lao động, con người một mặt tác động vào tự nhiên, mặt
khác lại tác động lẫn nhau, có quan hệ với nhau để sản xuất ra của cải vật chất. Vì
thế quá trình sản xuất ra của cải vật chất sẽ làm nảy sinh “quan hệ kép”: quan hệ
giữa người với người và quan hệ giữa người với tự nhiên. Hai loại quan hệ đó tạo
thành hai mặt của phương thức sản xuất: quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Sự tương tác qua lại giữa chúng chính là nguồn gốc căn bản nhất của mọi tiến trình
lịch sử, nó quyết định sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình
thái kinh tế xã hội khác cao hơn.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.39


2


Kế thừa những tư tưởng trên, có thể hiểu: Kinh tế là tổng thể các quan hệ sản
xuất trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, là cơ
sở hiện thực trên đó người ta dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng với cơ sở
hiện thực đó.
Nhân tố có vai trò lớn nhất trong “kinh tế” là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, ngoài ra còn phải kể đến quan hệ giữa người với người trong quá trình tổ chức,
quản lý sản xuất và tái sản xuất, trong phân phối và tiêu dùng sản phẩm được làm ra
trên cơ sở tính chất của chế độ sở hữu đó.
Khái niệm chính trị
Chính trị theo nguyên nghĩa gốc Hy lạp là “Politica” có nghĩa là những công
việc có liên quan đến nhà nước, là nghệ thuật cai trị nhà nước, tức là phương thức nhất
định để thực hiện các mục đích của quốc gia ở bên trong và bên ngoài lãnh thổ của nó.
Thuật ngữ “Politica” có nghĩa là một tổ chức xã hội nằm dưới một quyền lực nhất định
trước hết là quyền lực Nhà nước. Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó xuất
hiện cùng với sự ra đời của giai cấp và nhà nước.
Trong các tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem chính trị là một
hiện tượng của đời sống xã hội có liên quan tới các đảng phái và nhà nước, các ông
đã vạch ra bản chất chính trị của các giai cấp cầm quyền trong xã hội bóc lột.
C.Mác gắn chính trị với Nhà nước, C.Mác cũng chỉ rõ: “Linh hồn chính trị của
cách mạng là nguyện vọng của giai cấp không có ảnh hưởng chính trị muốn thủ
tiêu sự cô lập của mình với Nhà nước và với quyền thống trị” 2. Khi vạch ra tính
chất phản động của chính trị tư sản đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc giai cấp công nhân và đảng cộng sản soạn thảo ra
một đường lối chính trị độc lập.
V.I.Lênin đưa ra định nghĩa nổi tiếng: “Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp” 3.
Chính trị là cuộc đấu tranh giai cấp, là chuyên chính của giai cấp này với giai cấp

khác, là sự tập trung vào nhiệm vụ phá hoại di sản của xã hội cũ hay xây dựng một xã
2
3

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.615
V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.87

3


hội mới. Nói tóm lại, chính trị là quan điểm, nhận thức, tư tưởng, thái độ và hành vi,
hoạt động của giai cấp này với giai cấp khác.
Do đó, V.I.Lênin chỉ ra rằng, chính trị của giai cấp vô sản sau khi giành được
chính quyền về tay mình là xây dựng xã hội mới đem lại cơm ăn, áo mặc, ấm no hạnh
phúc cho đại đa số nhân dân. V.I.Lênin vạch rõ: “Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc
này là xây dựng Nhà nước về mặt kinh tế để tích góp được nhiều lúa mì hơn và than
đá hơn sao cho không còn có người đói nữa. Chính trị của chúng ta phải là như vậy”4.
Từ những tư tưởng đó, có thể hiểu: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai
cấp, các dân tộc, các quốc gia trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà
nước, là những phương hướng, những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản
của các giai cấp, của đảng phái, là hoạt động thực tiễn chính trị của các giai cấp,
các đảng phái, các nhà nước để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đi tới mục
tiêu đã đặt ra.
Theo đó, chính trị chỉ có trong xã hội có giai cấp, nhưng không phải quan hệ
giai cấp nào cũng là chính trị, chỉ khi nào các giai cấp các đảng phái, các thành viên
trong xã hội tham gia vào quan hệ quyền lực của nhà nước thì lúc đó họ mới thực sự
tham gia vào chính trị. Bản chất của chính trị là quan hệ giai cấp, là đấu tranh giai
cấp xoay quanh vấn đề quyền lực nhà nước. Ngoài ra chính trị còn là biểu hiện quan
hệ giữa các quốc gia dân tộc về mặt nhà nước, tức là quan hệ đối ngoại giữa các
nước hoặc là những quan hệ dân tộc liên quan đến chính quyền nhà nước. Như vậy,

có thể khẳng định rằng bàn về chính trị thực chất là các quan hệ giai cấp xung quanh
vấn đề quyền lực nhà nước.
1.2. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã nghiên cứu về mối quan hệ kinh tế và chính
trị rất sớm. Do nhận thức, lập trường quan điểm cá nhân, trường phái khác nhau, nên
đã có rất nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau điều đó. Tuy nhiên, các quan điểm
ngoài mácxít như chủ nghĩa duy tâm hoặc chủ nghĩa duy vật siêu hình mắc phải đó là
4

V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977. tr.483.

4


nhìn nhận phiến diện, hoặc tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia hoặc là không thấy được
mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, trên cơ
sở mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã luận giải
khoa học về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, cơ sở hạ tầng là toàn bộ các quan hệ sản
xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Kiến
trúc thượng tầng là toàn bộ các quan điểm chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật... và các thể chế tương ứng của nó. Trong các xã hội có giai cấp, mối
quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được biểu hiện tập trung ở mối
quan hệ giữa quan hệ sản xuất với kiến trúc thượng tầng chính trị.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định quan hệ kinh tế, quan hệ sản
xuất là những quan hệ cơ bản quyết định mọi quan hệ xã hội khác về Nhà nước,
pháp luật, tư tưởng. Nói cách khác không phải hình thái ý thức tư tưởng, hình thái
chính trị - xã hội quyết định hình thái kinh tế - xã hội mà là hình thái kinh tế - xã hội
quyết định quan điểm chính trị, pháp luật, đạo đức, triết học, nghệ thuật, tôn giáo
cùng với thể chế chính trị thích ứng với những quan điểm đó.

Trong khi khẳng định vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc
thượng tầng, các nhà kinh điển mácxít cũng nhấn mạnh tác động tích cực của
kiến trúc thượng tầng, ảnh hưởng trở lại của nó đối với cơ sở hạ tầng. Toàn bộ
kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố, các lĩnh vực của nó có tính độc lập
tương đối sự phụ thuộc của chúng vào cơ sở hạ tầng không trực tiếp và không
giản đơn. Nghĩa là kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động của
cơ sở hạ tầng mà chúng có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ cấu
kinh tế xã hội. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng thể hiện ở chỗ: củng cố, phát triển và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó hoặc
hướng dẫn cuộc đấu tranh xoá bỏ giai cấp cũ và cơ sở hạ tầng đã lỗi thời, lạc hậu
của xã hội cũ. Chức năng, nhiệm vụ của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, củng
cố, tạo điều kiện cho sự phát triển của cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Điều đó thể hiện
5


rõ nét nhất trong các xã hội có giai cấp đối kháng, nhà nước, quân đội, cảnh sát,
giáo hội … đều hướng vào việc bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng của xã hội
nhằm mục đích thống trị, bóc lột quần chúng lao động.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng rất to lớn. Song hiệu
lực phát huy được cao hay thấp còn tuỳ thuộc ở vai trò năng động của kiến trúc
thượng tầng và sự tác động đó cùng chiều với sự vận động của quy luật kinh tế hay
không. Nếu chủ trương, chính sách, cơ chế, bộ máy phản ánh đúng quy luật kinh tế,
thực trạng kinh tế, nhu cầu kinh tế, thì kiến trúc thượng tầng có tác dụng thúc đẩy kinh
tế phát triển. Ngược lại, nếu chủ trương, chính sách, cơ chế, bộ máy không phù hợp
với cơ sở hạ tầng thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, thậm chí cả khủng
hoảng chính trị xã hội rất nghiêm trọng. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng
còn thể hiện: kiến trúc thượng tầng đấu tranh khắc phục tàn dư cơ sở hạ tầng cũ và ngăn
chặn sự nảy sinh cơ sở hạ tầng mới. Khi xã hội có mâu thuẫn gay gắt, một số bộ phận
của kiến trúc thượng tầng mới ra đời có vai trò hướng dẫn đấu tranh để xoá bỏ cơ sở hạ
tầng lỗi thời, lạc hậu.

Vai trò tác động trở lại của các bộ phận kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
không ngang bằng nhau, trong đó vai trò của kiến trúc thượng tầng chính trị, pháp quyền là to
lớn nhất, vì nó phản ánh trực tiếp cơ sở kinh tế, là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Từ lý luận về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, có thể rút
ra kết luận: kinh tế quyết định chính trị và chính trị có vai trò to lớn tác động trở lại sự
phát triển kinh tế. Trong đó kinh tế là tính thứ nhất, chính trị là tính thứ hai, là cái
phản ánh của kinh tế. Các quan hệ kinh tế và cơ cấu kinh tế là nền móng trên đó xây
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị tương ứng. Ngược lại, thượng
tầng chính trị pháp lý cũng có tác động mạnh mẽ tới sự vận động và phát triển của
kinh tế. Nghiên cứu sự vận động và phát triển của xã hội loài người từ khi có giai
cấp đến nay các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ thực chất
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thông qua việc đưa ra hai luận điểm
cơ bản: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế’’ và “Chính trị không thể không
6


chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế’’5. Từ hai luận điểm này có thể thấy rõ mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị.
Thứ nhất, kinh tế quyết định chính trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh
tế. Có nghĩa là so với kinh tế, chính trị là sự phản ánh, là tính thứ hai, không có những
quan hệ chính trị và quy luật chính trị độc lập tuyệt đối với các quan hệ và quy luật
kinh tế. Kinh tế là gốc của chính trị, chính trị do kinh tế quyết định và là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế, nó phản ánh nền kinh tế.
Chính trị là biểu hiện của kinh tế, song nó không chỉ là gương soi phản
ánh nguyên xi sự phát triển của nền kinh tế, mà là biểu hiện “tập trung” của
nền kinh tế. Quá trình phản ánh những yêu cầu của kinh tế, chính trị đã loại
bỏ tất cả những gì có tính chất ngẫu nhiên, không ổn định của kinh tế nó phản
ánh vào cái bản chất nhất của đời sống kinh tế. Thực chất các quan hệ giai
cấp, đấu tranh giai cấp, quan hệ chính trị chỉ là sự phản ánh các quan hệ lợi
ích kinh tế, các mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế, đấu tranh giai cấp là đấu

tranh về lợi ích kinh tế.
Thứ hai, chính trị có tính độc lập tương đối và tác động mạnh mẽ trở lại
kinh tế. Trong khi khẳng định vai trò quyết định, tính thứ nhất của kinh tế đối với
chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác
động trở lại của chính trị đối với kinh tế. Ph. Ăngghen viết: “Sự phát triển của
chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, đều dựa trên cơ sở kinh
tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh
tế”6. Nói về vai trò của chính trị với kinh tế V.I Lênin đã khái quát và nhấn mạnh:
“Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Điều đó có nghĩa
là: để tổ chức và xây dựng một trật tự xã hội mới, một nền kinh tế mới thì trước hết
phải tiến hành cách mạng chính trị, phải nắm trước quyền lực chính trị. Bởi vì, sự
vận động của kinh tế chịu sự tác động của chính trị, của quyền lực chính trị, quyền
lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về
5
6

V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977. tr.349.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 39, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.271.

7


chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp thực hiện
được sự thống trị về kinh tế. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển
theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế - xã
hội. Do vậy, để phát triển kinh tế cần quan tâm đến chính trị đặc biệt là định hướng
chính trị của Đảng cầm quyền và bộ máy Nhà nước.
Như vậy, chính trị đóng vai trò lãnh đạo định hướng và tạo môi trường chính
trị - xã hội ổn định đáp ứng những điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Hơn
nữa, chính trị còn tham gia vào việc quản lý nền kinh tế, tạo môi trường xã hội, giải

phóng sức sản xuất, kiểm soát những vấn đề cơ bản, then chốt của nền kinh tế, điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế đúng định hướng. Sự tác động của chính trị đối với
kinh tế có thể theo những hướng khác nhau. Thúc đẩy hoặc kìm hãm hoặc vừa thúc
đẩy mặt này vừa kìm hãm mặt kia. Chính trị có thể thay đổi cơ sở kinh tế ở chừng
mực nhất định
Quan hệ giữa kinh tế và chính trị còn là quan hệ cơ bản, có ý nghĩa quyết định,
chi phối các mối quan hệ xã hội khác. Vì vậy, đòi hỏi trong xử lý những vấn đề cụ
thể, phải chủ động, sáng tạo, tránh tuyệt đối hóa hoặc đồng nhất kinh tế với chính trị.
Tuyệt đối hóa kinh tế sẽ dẫn đến tình trạng phát triển kinh tế tự phát vô chính phủ tập
trung tăng trưởng kinh tế bằng mọi cách, hy sinh các mặt khác tuyệt đối hóa chính trị
trong phát triển sẽ làm cho kinh tế bị can thiệp, áp đặt một cách duy ý chí, không theo
những quy luật khách quan. Đồng nhất chính trị với kinh tế sẽ làm cho chính trị trở lên
cứng nhắc, giáo điều. Mắc phải một trong những khuynh hướng trên đều ảnh hưởng
tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế nói riêng và phát triển xã hội nói chung.
Tóm lại, kinh tế và chính trị là hai mặt cơ bản nhất của đời sống xã hội.
Chúng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại, tạo điều kiện thúc đẩy lẫn
nhau cùng tồn tại và phát triển, tác động tới mọi lĩnh vực khác của đời sống xã
hội. Trong mối quan hệ đó, xét cho cùng kinh tế là yếu tố quyết định chính trị,
song chính trị không phải là yếu tố thụ động, nó có tính độc lập tương đối và
8


tác động trở lại kinh tế. Mọi thay đổi, biến động của kinh tế đều tác động đến
chính trị và ngược lại, mọi sự biến động của chính trị đều ảnh hưởng đến quá
trình phát triển kinh tế. Cơ sở lý luận khoa học của mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị là quan điểm DVLS của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữ
kinh tế và chính trị trong thực tiễn đúng hay sai có ý nghĩa quyết định đến sự
hưng vong của nền kinh tế và chế độ chính trị xã hội của đất nước.

2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT
NƯỚC HIỆN NAY

2.1. Quá trình nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị của Đảng ta trong 25 năm đổi mới đất nước (1986 -2011).
Trước vô vàn những khó khăn, thách thức, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước. Công cuộc đổi mới ở nước ta bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị của Đảng
trong nhận thức, quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH, từ đó tìm kiếm,
xác định mô hình phát triển đất nước phù hợp với điều kiện lịch sử nước ta. Nhờ đổi
mới tư duy lý luận - chính trị, chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa, tiếp thu
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại; xác
định nước ta tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ gián tiếp, lâu dài, với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Đại hội VI đã chỉ rõ: “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên
CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và

9


do tư tưởng chỉ đạo chủ quan nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết” 7.
Đảng ta nhận thấy, chủ nghĩa xã hội không loại trừ, không đối lập với kinh tế thị
trường, trái lại cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường, tận dụng những ưu thế
của nó để phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, bắc những
nhịp cầu trung gian để đến CNXH. Có thể nói, Đại hội VI đặc biệt là Hội nghị

Trung ương 6 (khoá VI), Đảng đã có bước phát triển quan trọng trong nhận thức,
coi “chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài”.
Chính sách này cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ
thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông nhằm khai thác
mọi khả năng của các thành phần kinh tế. Đó là “sự vận dụng quan điểm của Lênin
coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”.
Nhờ sự đổi mới này, nền kinh tế của chúng ta đã chuyển từ cơ chế quản lý
kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý kinh tế thị trường. Điểm
nổi bật là chúng ta đã từng bước xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp
hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN. Cơ chế thị trường đòi hỏi sự thừa nhận cạnh tranh lành mạnh,
thúc đẩy phát triển sản xuất nhưng đồng thời cũng dẫn đến sự chênh lệch thu nhập,
phân hoá giàu nghèo. Đây chính là mặt trái của nó mang đến, đòi hỏi Nhà nước phải
có sự quản lý theo định hướng XHCN nhằm giữ cho nền kinh tế không bị chệch
hướng khỏi con đường xây dựng CNXH mà chúng ta đã lựa chọn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng định: “Về quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế,
đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu
xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, coi đó là điều quan
trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới
kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động hệ thống chính
trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987 tr.19-20

10


các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối

quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội nên việc đổi mới trong hệ
thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc,
không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy
mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán
bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân bởi đó là điều kiện
để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”8.
Như vậy, Đảng đã nhận thức được rằng, nếu vội vàng đẩy nhanh đổi mới
chính trị khi chưa chuẩn bị đầy đủ các tiền đề cần thiết sẽ dẫn đến sai lầm và phải
trả giá rất đắt, thậm chí không cứu vãn được. Ngược lại nếu chậm chễ trong đổi
mới chính trị và hệ thống chính trị, nhất là trong tổ chức bộ máy và cán bộ, trong
giải quyết mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân sẽ không
tạo được điều kiện tiên quyết và môi trường thuận lợi để thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển và thực hiện dân chủ.
Điều đó cho thấy, Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng đã khẳng định rằng phải tập
trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi mới kinh tế phải tiến hành từng
bước đổi mới chính trị, nhưng phải thận trọng, không gây mất ổn định về chính trị.
Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi
mới, Đảng ta đã khẳng định phải “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị”9. Đây là một cách khái quát khoa học, phù hợp với lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta.
Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính
trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một
nghịch lý nhưng lại hoàn toàn có lý và khoa học. Đây là điểm nổi bật của công
8
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.54.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.71

11


cuộc đổi mới ở Việt Nam (luôn lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, điều
kiện tiên quyết). Trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị, đòi hỏi Đảng phải tập trung vào giải quyết mối quan hệ giữa ổn định,
đổi mới và phát triển. Đổi mới nhưng phải giữ được ổn định chính trị - xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng. Có giữ được ổn định chính trị thì mới có điều kiện đổi
mới kinh tế. Đổi mới phải tiến hành “từ trên xuống” và “từ dưới lên”, có những
bước đi chủ động, vững chắc.
Đến Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh nguyên tắc: “Đổi mới toàn diện, đồng bộ,
có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp... Đổi mới tất cả các mặt của
đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp;
bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội... Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng
đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” 10. Đây là một thành tựu hết sức
căn bản của công cuộc đổi mới mà ý nghĩa sâu xa của nó chính là việc tôn trọng
khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Qua đó mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức
sản xuất mà nhân tố con người là quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Người
lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó lợi ích cá nhân của
người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện và phát triển của tập
thể và toàn xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011-2020) nhấn mạnh: “Đổi mới đồng bộ,
phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên trì và quyết liệt thực hiện

đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc
vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

10

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội. 2001, tr.70-72.

12


công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để
đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”11.
Trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị, Đảng ta xác định rằng, cần phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới
chính trị. Đây là một chủ trương đúng và trúng, bảo đảm không gây nên những đảo
lộn làm mất cân bằng trong đời sống xã hội; đồng thời, giữ vững được sự ổn định
chính trị - một tiền đề tiên quyết cho sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Đại
hội XI xác định: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ để đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”12.
Ổn định về chính trị, nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng
cường được quyền lực chính trị của mình, Nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và
có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh; chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ
vững. Đổi mới ở nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước XHCN, bảo vệ

và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ổn định về chính trị lại không thể tách rời
đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc,
mà đổi mới là để giữ vững sự ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Trên thực tế, quá trình
đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta diễn ra với những bước
đi thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ việc giải quyết những vấn đề cấp bách đã chín
muồn. Mục tiêu căn bản của đổi mới chính trị và hệ thống chính trị cũng là mục tiêu
và động lực của công cuộc đổi mới ở nước ta, là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ
cương, pháp luật, với ý thức trách nhiệm của công dân, chống khuynh hướng dân chủ

11
12

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr.99-100.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.99

13


cực đoan và những mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để thực hiện đa
nguyên, đa đảng, gây rối về chính trị, chống phá chế độ.
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải
quyết tốt các mối quan hệ lớn: “Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội
chủ nghĩa; giữa phát triển LLSX và xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX xã hội
chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ;...Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.” 13 Như vậy,

một lần nữa, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được khẳng định là
giữ vị trí trọng tâm trong đường lối phát triển của Đảng. Trước hết, Đảng phải đề
ra đường lối, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, pháp luật mới thì mới có thể
đổi mới kinh tế. Tuy nhiên, lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên
quan đến quyền thống trị của giai cấp, nó có ý nghĩa quyết định thành bại của công
cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước và hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị
phải trên cơ sở đổi mới kinh tế, gắn liền với đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của
đổi mới kinh tế.
Đổi mới chính trị lại phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với
yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường được vai trò lãnh đạo
của đảng và vai trò tổ chức quản lý Nhà nước XHCN, và nhờ đó mới giữ vững
được sự ổn định về chính trị. Song, đổi mới kinh tế cũng không phải đổi mới
một cách tuỳ tiện, mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đó chính là
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang “nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN”. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN là nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” và đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định về chính trị.

13

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr.72-73.

14


Tóm lại, ổn định chính trị và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập
nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi
mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó có tác động qua lại với nhau và gắn
bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế. Như vậy,

trong quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn
gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh tế là
trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới
kinh tế, đáp ứng của đổi mới kinh tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau 25 năm kiên trì đường lối đổi mới, nhận
thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn
diện trên các lĩnh vực. Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, đã tập trung giải quyết
những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống, giải phóng sức sản
xuất, hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực nước ta đã thoát khỏi
tình trạng trì trệ và khủng hoảng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm; duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp
tác kinh tế với nhiều quốc gia, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự đa dạng của các hình thức
sở hữu, các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, cũng như mô hình quản lý theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN được xác lập và bước đầu vận hành thông
suốt. Trên lĩnh vực chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức nội dung và
phương thức hoạt động một cách đồng bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà
nước và các tổ chức đoàn thể theo hướng dân chủ hoá, khắc phục và loại
bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều,
tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế.
Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
15


đổi mới chính trị, chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước
phát triển theo quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực
trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho

con người được thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng
tạo của mình. Hai quá trình đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên
sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước.
2.2. Một số vấn đề có tính nguyên tắc trong đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh
Đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta. Tuy vậy, đổi mới không có nghĩa là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa
xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây
dựng hiệu quả hơn. Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI)
họp tháng 3/1989 đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới
đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới đi đúng con đường xã hội chủ nghĩa và giành thắng
lợi. Một trong những nguyên tắc được đặt lên hàng đầu là: Đi lên chủ nghĩa xã hội
là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng
ta, xây dựng nước Việt Nam XHCN là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân
ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy
được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội,
những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Đổi mới là để giữ vững mục tiêu chứ không phải là thay đổi mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Một bài học đau xót trước đây, khi Liên Xô tuyên bố
“cải tổ để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn” nhưng do sai lầm cho nên dẫn đến mất
chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đổi mới ở nước ta phải trên cơ sở giữ vững định hướng
16


XHCN, chống chệch hướng. Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển

học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng. Để có đường lối đúng đắn, cần nắm vững, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy lý luận đó làm cơ sở,
phương pháp luận để phân tích tình hình, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, từ đó hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới.
Xây dựng đất nước theo con đường XHCN trong bối cảnh ngày nay là một sự
nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài. Để sự nghiệp đổi mới đúng hướng,
kiên trì mục tiêu mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cần làm tốt các
nội dung sau:
Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong việc đề ra đường
lối, chiến lược phát triển kinh tế của Đảng. Xây dựng chế độ chính trị XHCN vững
mạnh và ổn định là kiều kiện đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc và lành
mạnh theo con đường XHCN. Phải gắn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong
từng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hai là, chăm lo xây dựng Nhà nước XHCN vững mạnh, Nhà nước thực hiện
chức năng, nhiệm vụ và vai trò quản lý vĩ mô của nền kinh tế và mọi hoạt động xã
hội thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật, chính sách,
kế hoạch. Thông qua hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước mà phát huy tích
cực và ngăn chặn những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường cũng như những biểu
hiện đi chệch hướng XHCN.
Ba là, coi trọng và có định hướng đúng đắn trong công tác tư tưởng, bảo
đảm thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng và toàn xã hội, bảo đảm
cho sự nghiệp đổi mới không đi chệch hướng.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế
Đảng ta xác định, đổi mới kinh tế là trọng tâm, thông qua đó nhằm xây dựng
một nền kinh tế đủ mạnh đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc xây dựng CNXH.
17


Bên cạnh đó, Đảng ta cũng xác định từng bước đổi mới về chính trị. Bởi vì, chính

trị luôn là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, nếu như chủ quan, nóng vội sẽ có
nguy cơ mất ổn định, thậm chí làm mất chế độ. Do đó, chúng ta phải xác định đổi
mới chính trị theo từng bước thận trọng, phù hợp. Để làm được điều đó, trước hết
chúng ta phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với kinh tế.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Hoàn thiện nội dung và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong việc thực
hiện chức năng lãnh đạo của các cấp uỷ đảng; tăng cường dân chủ trong Đảng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân là nội dung quan trọng của đổi mới chính trị
phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế” 14. Đảng là nhân tố lãnh đạo hệ
thống chính trị, lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Nhận thức rõ điều
đó Đảng ta khẳng định: Đảng phải đổi mới về nhiều mặt, đổi mới tư duy, trước hết
là tư duy kinh tế; đổi mới công tác tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong
cách lãnh đạo và công tác.
Tuy nhiên, trong qúa trình đổi mới, nhiều vấn đề mới nảy sinh mà việc giải quyết
chúng cả về mặt lý luận và thực tiễn còn chưa kịp thời, chưa thấu đáo. Trong đời sống xã
hội, xuất hiện một số quan điểm đòi xem xét lại những vấn đề có liên quan đến đổi mới.
Thậm chí, có quan điểm cho rằng, những yếu kém sai lầm và cả thất bại chúng ta vấp
phải trong thời gian qua là do Đảng ta đã áp đặt định hướng XHCN cho nền kinh tế. Họ
cho rằng, sự phát triển kinh tế là lợi ích chung của đất nước, còn định hướng XHCN là
lấy lợi ích của Đảng làm đầu. Do vậy, việc làm rõ vai trò của Đảng trong lãnh đạo nền
kinh tế đất nước giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết.
Để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, cần tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, coi xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Điều này thể hiện rõ quyết tâm của Đảng trên cơ sở
nhận thức rõ hơn vai trò quyết định của công tác xây dựng Đảng. Bởi vì, Đảng tự đổi

14

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011. tr. 144-145


18


mới, tự chỉnh đốn thành công thì sự nghiệp đổi mới đất nước mới thắng lợi. Để làm được
điều đó cần quan tâm thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá, đưa các quan điểm, đường lối, nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống, nhất là các quan điểm, đường lối, chính sách kinh
tế. Mọi đảng viên, tổ chức đảng phải gương mẫu thực hiện, đồng thời, kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện, kịp thời phát hiện những sai lệch, không phù hợp để sửa
chữa, điều chỉnh, bổ sung.
Hai là, đẩy mạnh công tác cán bộ, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và
quản lý cán bộ, quản lý đảng viên trong bộ máy nhà nước, trong các tổ chức kinh tế,
các đơn vị sản xuất kinh doanh. Kịp thời phát hiện, ngăn ngừa những biểu hiện quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu, cản trở công việc làm ăn của nhân dân, khắc
phục sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ đảng viên.
Ba là, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn đặt ra, nhất là vấn đề đổi mới chính trị và kinh tế nhằm thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta đi đến thành công.
Thứ ba, khắc phục những biểu hiện của xu hướng tuyệt đối hoá vai trò của chính
trị và xu hướng tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế trong quá trình đổi mới hiện nay
Những năm qua, bên cạnh những quan điểm đúng đắn về mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, cũng xuất hiện một số lệch lạc nhất
định trong giải quyết mối quan hệ này, tiêu biểu là xu hướng tuyệt đối hoá vai
trò của chính trị và xu hướng tuyệt đối hoá vai trò kinh tế. Đòi hỏi trong xử lý và
giải quyết những vấn đề cụ thể phải chủ động, sáng tạo, tránh tuyệt đối hoá
chính trị với kinh tế. Tuyệt đối hoá kinh tế sẽ dẫn đến tình trạng phát triển vô
chính phủ, tập trung tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, hy sinh các mặt khác.
Tuyệt đối hoá chính trị trong phát triển kinh tế sẽ làm cho nền kinh tế bị can
thiệp, áp đặt một cách duy ý chí, không theo quy luật khách quan.
* Xu hướng tuyệt đối hoá vai trò của chính trị và phương hướng khắc phục:


19


Biểu hiện của xu hướng tuyệt đối hoá chính trị là ở chỗ: xem nhẹ việc triển
khai, quán triệt nghị quyết đổi mới của Đảng; chủ quan trong công tác cán bộ, công
tác quản lý cán bộ thiếu khoa học. một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu ý
thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống, mất cảnh giác, giảm sút ý chí và phai
nhạt lý tưởng cách mạng; lơ là trong công tác tổng kết thực tiễn. Do vậy thiếu (hoặc
không có) cơ sở, số liệu, cứ liệu và bài học kinh nghiệm thực tiễn, làm tăng nguy cơ
duy ý chí trong hoạch định chính sách đổi mới đồng thời cũng làm tăng yếu tố duy ý
chí trong thực tiễn đổi mới. Những biểu hiện này có quan hệ gắn bó với nhau. Nếu
không khắc phục những biểu hiện này, chúng ta khó có thể giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa đối với quá trình phát triển của kinh tế thị trường.
Phương hướng khắc phục xu hướng tuyệt đối hoá vai trò của chính trị: Phải đổi
mới công tác tư tưởng. Tư tưởng nào cũng gắn liền với lợi ích, vì thế muốn tránh duy ý
chí, tuyệt đối hoá vai trò của chính trị cần phải quan tâm đến những vấn đề lợi ích hợp
pháp của từng giai cấp, từng nhóm người trong các khu vực kinh tế khác nhau. Xử lý tốt
mối quan hệ đúng đắn giữa lợi ích và giá trị đạo đức truyền thống Việt nam để cổ vũ cho
sự thống nhất tư tưởng và hành động trên con đường tiến lên CNXH. Việc hoạch định
chính sách và biện pháp đổi mới phải được hướng về cơ sở. Từ cơ sở đặt ra những vấn
đề buộc các cấp hoạch định và triển khai chính sách, biện pháp nghiên cứu sâu sát
kịp thời với những diễn biến thường xuyên của thực tế cuộc sống. Thực tế cũng sẽ
kiểm chứng và sàng lọc những biểu hiện chủ quan, duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò
của chính trị, của đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới cơ chế, chính sách và tổ
chức hoạt động kinh tế - xã hội.
* Xu hướng tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế và phương hướng khắc phục:
Biểu hiện trước hết của xu hướng này là ở chỗ: Xem tăng trưởng kinh tế cao là tất cả,
tự nó sẽ đảm bảo dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chính vì vậy
trong những năm qua ở nước ta giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công

bằng xã hội có lúc chưa hài hoà. Một trong những vấn đề công bằng xã hội nổi lên đó
là: Việc làm và xoá đói, giảm nghèo vẫn có xu hướng tăng “Tỷ lệ thất nghiệp ở thành
20


thị giảm còn dưới 4,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%” 15. Sự phân hoá giàu nghèo
ngày càng diễn ra sâu sắc và trên diện rộng. Tại các đô thị lớn, mức chênh lệch giữa
nhóm giàu nhất với nhóm nghèo nhất lên đến vài chục lần. 3/4 cư dân nông thôn có
mức thu nhập dưới mức trung bình của xã hội. Như vậy, sự tăng trưởng kinh tế cao
không mặc nhiên đẩy mạnh việc thực hiện công bằng xã hội.
Xu hướng tuyệt đối hoá vai trò của đổi mới kinh tế còn thể hiện ở chỗ: trên
một số phương diện, đổi mới kinh tế chưa gắn chặt chẽ với chính trị, văn hoá, xã
hội. Trong quản lý và điều hành nền kinh tế có thể nói, nhiều cấp chính quyền đều
tập trung vào các vấn đề phát triển và điều tiết nền kinh tế, còn các vấn đề văn hoá,
xã hội dường như chỉ là vấn đề phái sinh của kinh tế.

KẾT LUẬN
Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng ta xác định
rõ, phải đổi mới toàn diện đất nước đặc biệt trên hai lĩnh vực kinh tế và chính trị. Trong
đó, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đổi mới chính trị phải thận trọng tiến hành từng
bước với những bước đi phù hợp với điều kiện khả năng của đất nước và xu thế phát triển
chung của thế giới. Đổi mới kinh tế nhằm xây dựng, phát triển đất nước đáp ứng yêu cầu
sản xuất ra lượng của cải vật chất to lớn đảm bảo thành công cho công cuộc xây dựng
CNXH. Thực tiễn sau 25 năm đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã
giành được những thành tựu hết sức to lớn, vị thế của đất nước ta dần được khẳng định
trên trường quốc tế và khu vực. Điều đó cho thấy sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong
vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, đặc biệt là nhận thức và vận dụng giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa kinh
tế và chính trị trong sự nghiệp đổi mới đất nước.


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011. tr. 154

15

21


Với những thành quả bước đầu đã đạt được trong quá trình đổi mới, sẽ là điều
kiện, tiền đề thuận lợi cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục thực hiện xây dựng
thành công CNXH. Song, cùng với những thiếu sót của quá trình đổi mới, sự tác động
của mặt trái cơ chế thị trường, toàn cầu hóa, các thế lực thù địch luôn lợi dụng những
yếu kém để nhằm đưa cách mạng nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Do đó,
quá trình đổi mới đất nước đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải luôn kiên định
lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng, tích cực chủ động tổng kết, phát triển lý luận, đúc rút thực tiễn vận dụng sáng
tạo vào sự nghiệp cách mạng nước ta, đặc biệt trong nhận thức và vận dụng linh hoạt
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị... Bên cạnh đó, cần kiên quyết đấu
tranh loại bỏ những tư tưởng, quan điểm sai trái của kẻ thù, dần khắc phục những
hạn chế, lỗi thời lạc hậu trong nhận thức và hành động... Qua đó, tăng cường, củng
cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1987.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,

Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1996.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2001.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2006.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2011.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tập 37, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tập 40, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tập 43, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
10.V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.
11.C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995
12.C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 19, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.
13.PGS, PTS Trần Phúc Thăng (chủ biên): Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng chính trị trong thời kỳ phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở Việt Nam, Nxb Lao động, Tháng 1/2000.
14.GS. TS Đỗ Hoài Nam, Một số vấn đề nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị, Tạp chí Khoa học xã hội, 1/2011
15.Trung tâm từ điển: Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2003.

23


24




×