VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ QUYỀN DÂN TỘC TỰ QUYẾT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC
MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Trên thế giới hiện nay vấn đề dân tộc đang hết sức nóng bỏng và diễn biến
phức tạp, mang tính thời sự sâu sắc, là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng bất
ổn ở một số nước và khu vực. Các thế lực phản động quốc tế đã và đang triệt để lợi
dụng sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tộc người kích động chia rẽ, ly
khai dẫn tới nhiều cuộc xung đột đẫm máu mang màu sắc dân tộc cực đoan ở một
số quốc gia trên thế giới. Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc và quyền dân tộc tự quyết; ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nguyên tắc và định hướng chiến lược về giải
quyết mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các
dân tộc. Có thể khẳng định chính sách giải quyết các mối quan hệ dân tộc của Đảng
ta luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán trong mọi thời kỳ. Tuy
nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, vấn đề dân tộc của Đảng luôn được bổ
sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước.
1. Quan điểm Mác - Lênin về quyền dân tộc tự quyết
Ngay từ những tác phẩm đầu tay “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” và
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" các nhà kinh điển C.Mác và Ph.Ănghen đã khẳng
định nguyên lý về vấn đề dân tộc. Các ông cho rằng các dân tộc gắn chặt với nhau
theo nguyên tắc liên minh sẽ nhất thiết phải hòa hợp với nhau và do đó sẽ mất đi bởi
sự gắn bó đó, cũng giống như các đẳng cấp và giai cấp khác nhau bị mất đi bởi việc
xóa bỏ nền tảng của nó là chế độ sở hữu tư nhân. Trên cơ sở đó, các ông đã khẳng
định: “Hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác
cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không
còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo.”[7, tr.592-593]
1
Kế thừa quan điểm của C.Mác, Ph.Ănghen, tổng kết thực tiễn chủ nghĩa tư
bản giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong xây dựng Cương lĩnh dân tộc
cho giai cấp công nhân quốc tế, V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng: “Các dân tộc hoàn
toàn bình đẳng; Các dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các
dân tộc lại; đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới
và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân.”[9, tr.375]
Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, cách mạng thế giới phải đi vòng
do sự thất bại của cải tổ ở Đông Âu và Liên xô cách đây một phần tư thế kỷ.
Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về quyền dân tộc tự quyết vẫn là cơ sở lý luận để nhận thức đúng và giải quyết tốt
vấn đề dân tộc trong bối cảnh thực tế hiện nay. Song, thực tiễn cũng khẳng định
vấn đề dân tộc luôn mang tính chất nhạy cảm, diễn biến phức tạp, phát triển đa
dạng, phong phú đòi hỏi phải có sự vận dụng sáng tạo, phù hợp thực tiễn của mỗi
quốc gia, dân tộc cụ thể thì mới mang lại hiệu quả thiết thực.
Trước hết, chúng ta cần nhận thức đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về quyền dân tộc tự quyết là gì? Lênin viết: “... bằng cách phân tích các điều kiện
lịch sử - kinh tế của các phong trào dân tộc, thì chúng ta không thể không đi đến
kết luận rằng: quyền dân tộc tự quyết có nghĩa là quyền phân lập về mặt nhà nước
của các dân tộc đó ra khỏi tập thể các dân tộc khác, có nghĩa là sự thành lập một
quốc gia dân tộc độc lập”[9, tr. 225]. Quyền dân tộc tự quyết là quyền quyết định
về chính trị của các quốc gia, dân tộc. Đó là quyền quyết định vận mệnh chính trị,
đường hướng phát triển của các dân tộc. Song, khi nói đến quyền dân tộc tự quyết
phải đặt vấn đề một cách cụ thể về mặt lịch sử, Lênin luôn nhấn mạnh rằng: Lý
luận mácxít tuyệt đối đòi hỏi chúng ta khi phân tích bất cứ vấn đề xã hội nào, phải
đặt nó trong một bối cảnh lịch sử nhất định, phải chú trọng đến những đặc điểm cụ
thể, phân biệt nước ấy với các nước khác trong phạm vi cùng một thời đại lịch sử.
Theo Lênin, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển làm cho các dân tộc đã hoàn toàn bị
2
lôi cuốn vào chu chuyển thương mại ngày càng gần gũi nhau và quyện vào nhau
nên đã đưa lên hàng đầu sự đối kháng giữa tư bản hợp nhất trên phạm vi quốc tế,
với phong trào công nhân quốc tế. Đương nhiên, giữa các nước còn có sự khác
nhau về tốc độ của sự phát triển dân tộc về thành phần dân tộc trong dân cư; về sự
phân bố dân cư... Trong điều kiện ấy, không thể nói đến việc khởi thảo Cương lĩnh
dân tộc của những người mácxít ở một nước nhất định nếu không tính đến tất cả
những điều kiện lịch sử chung và những điều kiện quốc gia cụ thể. Trong khi thừa
nhận sự bình đẳng về quyền lợi và quyền bình đẳng trong việc thành lập các quốc
gia dân tộc, giai cấp vô sản coi trọng và đặt sự liên hợp của những người vô sản tất
cả các dân tộc lên trên hết, phải đứng trên phương diện đấu tranh giai cấp của công
nhân mà đánh giá mọi yêu sách dân tộc, mọi sự phân lập có tính dân tộc.
Trong vấn đề thực hiện quyền dân tộc tự quyết khi mà chủ nghĩa đế quốc
đang áp đặt sự nô dịch của nó đối với các dân tộc thuộc địa, theo Lênin về nguyên
tắc phải phân biệt hai xu hướng:
- Xu hướng thứ nhất là: chừng nào mà giai cấp tư sản của dân tộc bị áp bức
đấu tranh chống lại dân tộc đi áp bức, thì chừng ấy chúng ta luôn ủng hộ họ trong
mọi trường hợp mà ủng hộ cương quyết hơn ai hết, vì chúng ta là kẻ thù dũng cảm
nhất và triệt để nhất của sự áp bức.
- Xu hướng thứ hai: chừng nào mà giai cấp tư sản của dân tộc bị áp bức ủng
hộ chủ nghĩa dân tộc tư sản của riêng họ, thì chừng ấy chúng ta phản đối. Đấu
tranh chống những đặc quyền và những hành vi bạo lực của dân tộc đi áp bức;
không mảy may dung thứ dân tộc bị áp bức mưu tìm những đặc quyền.
Trong vấn đề dân tộc, đó là chính sách thực tiễn duy nhất, chính sách nguyên
tắc, chính sách thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho dân chủ, cho sự liên hợp những
người vô sản. Phải đứng trên quan điểm gạt bỏ mọi bất bình đẳng, mọi đặc quyền,
mọi tính bản vị mà đánh giá mỗi vấn đề cụ thể có liên quan đến sự phân lập. Chỉ
khi nào các dân tộc bị áp bức đấu tranh tự thoát khỏi sự nô dịch dân tộc do chủ
3
nghĩa đế quốc áp đặt, khi ấy họ mới giành được quyền tự do, có được quyền tự
quyết, trên cơ sở đó họ mới phát triển độc lập và tự do liên minh với các quốc gia
dân tộc khác theo xu thế phát triển chung của thời đại. Cùng với việc thừa nhận
quyền bình đẳng dân tộc là quyền cơ bản, các dân tộc bị áp bức có quyền tự do
phân lập, thành lập quốc gia độc lập, không phụ thuộc vào chính sách nô dịch của
các nước đế quốc được coi là một nội dung quan trọng nhất của vấn đề dân tộc
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Theo Lênin trong điều kiện đó, thừa nhận quyền
tự do phân lập của các dân tộc bị áp bức, là thừa nhận quyền dân tộc tự quyết. Thái
độ đúng đắn nhất của những người Cộng sản quốc tế là ủng hộ các phong trào đấu
tranh của các dân tộc bị áp bức chống lại chủ nghĩa đế quốc, giải phóng các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc khỏi sự nô dịch thống trị của các dân tộc đi áp bức họ.
Trên quan điểm đó, khi lãnh đạo quốc tế cộng sản, Lênin đã gắn kết vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa, gắn kết cách mạng xã hội chủ nghĩa với cách mạng
giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa thành một trào lưu cách mạng chung
nhằm chống lại chính sách nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế quốc. Chính điều đó
đã đưa đến những thành quả vĩ đại của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
trong thế kỷ XX. Theo Lênin, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cùng với sự hình
thành hệ thống thuộc địa là hệ quả tất yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền thì vấn
đề đoàn kết giai cấp công nhân, liên hợp giai cấp công nhân toàn thế giới và liên
hợp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa là sự
nghiệp cách mạng chung, nhằm mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức và giai
cấp công nhân trên toàn thế giới. Thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp
công nhân gắn liền với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Phong trào giải
phóng các dân tộc thuộc địa thuộc phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, Cương
lĩnh dân tộc của giai cấp công nhân cần đặt vấn đề dân tộc tự quyết trở thành một
nội dung quan trọng trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện
đó, Lênin cho rằng, giai cấp công nhân công nhận quyền dân tộc tự quyết thì phải
đồng thời thực hiện và thừa nhận quyền tự do phân lập và quyền tự do liên minh.
4
Quyền tự do phân lập là tiền đề để thực hiện quyền tự do liên minh. Chỉ khi nào
các dân tộc bị áp bức đấu tranh tự giải phóng mình khỏi sự áp bức, nô dịch của chủ
nghĩa để quốc, thoát khỏi tình trạng thuộc địa, bị chủ nghĩa đế quốc thống trị, khi
ấy, các dân tộc mới có thể thực hiện được quyền tự do liên minh. Chỉ khi nào các
dân tộc thuộc địa giành được quyền độc lập dân tộc, khi ấy mới có quyền liên minh
tự nguyện với các dân tộc khác trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng giữa các dân tộc;
giữa các quốc gia dân tộc, loại trừ mọi đặc quyền và khắc phục được chủ nghĩa Sô
vanh dân tộc (dân tộc lớn) và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi - những đặc trưng của
chính sách dân tộc tư sản - Lập trường dân tộc tư sản.
Sau cách mạng Tháng Mười Nga (1917), giai cấp công nhân Nga đã giành
được chính quyền, một bộ phận giai cấp công nhân quốc tế đã trở thành giai cấp
lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở một nước là nước Nga
xô viết, Lênin đặt vấn đề về quyền dân tộc tự quyết trong điều kiện đó một cách cụ
thể và đi vào những vấn đề chi tiết về thái độ cũng như cương lĩnh của những
người cộng sản Nga và quốc tế. Cách mạng đã mở ra một kỷ nguyên phát triển
mới, kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Trong cả tiến trình lịch sử quá độ đó, giai cấp công nhân luôn luôn đứng ở
vị trí trung tâm, là giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng, là chủ thể thực hiện
cương lĩnh cách mạng, cương lĩnh dân tộc; đồng thời là lực lượng cách mạng mạnh
mẽ nhất, được coi là động lực cơ bản và chủ yếu nhất của cách mạng và là lực
lượng nòng cốt của phong trào cộng sản trong các dân tộc. Thực hiện gắn kết cách
mạng xã hội chủ nghĩa với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trong kỷ
nguyên mới, vấn đề dân tộc tự quyết trên nguyên tắc cơ bản các dân tộc hoàn toàn
bình đẳng được Lênin nhấn mạnh rõ ràng hơn. Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc
tiếp tục áp đặt sự nô dịch dân tộc đối với toàn bộ hệ thống thuộc địa của nó, Cương
lĩnh dân tộc của giai cấp công nhân quốc tế đòi hỏi phải tiếp tục ủng hộ phong trào
giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức - các dân tộc thuộc địa. Đối với Đảng
Cộng sản Nga (B) và những người cộng sản Nga, cùng với việc thừa nhận quyền
5
dân tộc tự quyết trên nguyên tắc của phong trào cộng sản quốc tế, với tư cách là
giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, cần có quan điểm lịch sử cụ thể,
vận dụng cương lĩnh dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc thuộc Nga thực hiện
được quyền dân tộc tự quyết một cách vững chắc nhất.
Căn cứ tình hình thực tế của cách mạng Nga và thế giới lúc đó, Lênin đã cụ
thể hóa việc vận dụng cương lĩnh để thực hiện quyền dân tộc tự quyết trên một số
phương diện chính:
- Đảng Cộng sản Nga (B) cần tạo điều kiện để các dân tộc bảo tồn, phát huy
những truyền thống dân tộc vốn có của mình.
- Đảng Cộng sản Nga (B) cần tạo điều kiện, giúp đỡ các dân tộc thuộc Nga
xây dựng và từng bước phát triển đội ngũ tri thức dân tộc vững mạnh - đó là lực
lượng chủ yếu quyết định thực hiện quyền dân tộc tự quyết vững chắc nhất.
- Đảng Cộng sản Nga (B) cần tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc xích lại
gần nhau, phát triển kinh tế - xã hội một cách đồng bộ, mạnh mẽ, hội nhập với
phong trào cách mạng chung - xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Xét về tâm lý dân tộc, Lênin đặc biệt chú ý đến một vấn đề nhạy cảm, đó là
các dân tộc bị áp bức lâu đời, họ sẽ có một tâm lý mặc cảm, định kiến nặng nề đối
với dân tộc đã từng áp bức họ. Trong điều kiện đó, thái độ đúng đắn nhất của
những người cộng sản Nga là phải thấu hiểu rõ mặc cảm đó, tự mình khắc phục
mặc cảm, chủ động đến với đồng bào các dân tộc, giúp đỡ họ khắc phục mặc cảm,
vượt qua định kiến để từng bước thực hiện Cương lĩnh trên nguyên tắc hoàn toàn
bình đẳng, trên cơ sở đó thực hiện quyền dân tộc tự quyết.
- Để xây dựng Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên xô), Lênin
chủ trương xây dựng Liên bang các nước cộng hòa xô viết Châu Á và Châu Âu
bình đẳng; để không một dân tộc nào tham gia Liên bang cảm thấy bất bình đẳng
thì cần thiết phải xây dựng cơ cấu cán bộ dân tộc hợp lý trong hệ thống chính trị
của Liên bang.
Thực tiễn cho thấy, những nội dung về quyền dân tộc tự quyết được Lênin cụ
6
thể hóa trên đây đã được Đảng Cộng sản Liên xô thực hiện cơ bản thành công
trong gần một thế kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên xô, một số thành
tựu của nó đến nay đã trở thành di sản vô giá đối với dân tộc Nga cũng như các
nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Tuy nhiên cũng có một số nội
dung chưa được thực hiện nhất quán trên một số địa bàn cụ thể, đến nay bị các thế
lực đối lập với chủ nghĩa xã hội lợi dụng để phát động xuyên tạc thành những
phong trào cực đoan, ly khai.
2. Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong giải quyết các quan
hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay
* Những vấn đề có tính nguyên tắc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về quyền dân tộc tự quyết trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở
nước ta hiện nay
Nhận thức đúng quan điểm Mác - Lênin về quyền dân tộc tự quyết, vận dụng
sáng tạo và phát triển trong điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam, ngay từ những
ngày đầu đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định: Cách mạng Việt Nam nhất định phải thực hiện trong quỹ đạo cách
mạng vô sản. Trong kỷ nguyên cách mạng vô sản, con đường cách mạng Việt Nam
tất yếu phải thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Với tư tưởng đó, vấn đề quyền dân tộc tự quyết đã được chủ tịch Hồ Chí Minh
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam để xây dựng cương lĩnh cách mạng cho
Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ
nguyên tắc cơ bản cho chính sách dân tộc là:
- Thực hiện bình đẳng dân tộc
- Thực hiện đoàn kết dân tộc
- Thực hiện tương trợ, giúp đỡ giữa các dân tộc.
7
Trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo nội dung bình đẳng dân tộc trong
cưỡng lĩnh dân tộc của Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần phát huy tối
đa truyền thống đoàn kết dân tộc và truyền thống tương trợ, giúp đỡ nhau trong
quan hệ giữa các dân tộc Việt Nam. Đây là hai truyền thống quý báu, được đúc kết
và tôi luyện qua thực tiễn đấu tranh hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giải quyết mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam theo
đúng nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển sẽ
làm cho cộng đồng dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc thành viên tạo thành một
khối vững chắc, phát triển ngày càng hùng mạnh, phát huy tối đa nội lưc, đem sức
ta mà giải phóng cho ta; trên cơ sở đó phát huy sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp với
sức mạnh thời đại, chủ động hội nhập quốc tế một cách tích cực. Nguyên tắc đó
được quán triệt, thực hiện nhất quán, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam trong 86 năm qua. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng
đưa đến sự thành công của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945; chiến thắng
Điện Biên Phủ trấn động năm Châu và thành công có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp
30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam hiện nay.
Giải quyết quan hệ dân tộc là sử dụng các nguyên tắc, cách thức xử lý các mối
quan hệ giữa các dân tộc quốc gia, giữa quốc gia với các tộc người, giữa các tộc
người và nội bộ từng tộc người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với
những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Giải quyết quan hệ dân tộc ở nước nào,
giai đoạn lịch sử nào cũng hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp được thể hiện
trên nhiều lĩnh vực, trồng chéo, đan xen giữa kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa,
lãnh thổ, tôn giáo, chủng tộc rất nhạy cảm nên dễ bị lợi dụng và dễ dẫn đến những
mâu thuẫn, xung đột giữa các tộc người, các quốc gia. Vì thế, giải quyết quan hệ
dân tộc là yêu cầu chung để ổn định, hoà bình, hợp tác, phát triển của từng tộc
người, từng quốc gia và của cả nhân loại.
Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, đa dân tộc. Bởi vậy, ngay từ
8
khi mới thành lập Đảng và Nhà nước ta đã xác định giải quyết vấn đề dân tộc là
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vào hoàn cảnh
cụ thể của nước ta, trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn đề ra
chính sách để giải quyết quan hệ dân tộc đúng đắn, phù hợp, thể hiện tập trung
nguyên tắc “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển” trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giải quyết quan hệ dân tộc đã được Đảng ta đề ra ngay từ cương lĩnh đầu tiên,
tiếp tục được hoàn thiện và cụ thể hoá trong Nghị quyết của các đại hội Đại biểu
toàn quốc, với những nội dung phong phú phù hợp với từng thời kỳ cách mạng.
Sau khi miền Bắc giải phóng, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn
mới, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền Nam. Trong Báo cáo
sửa đổi Hiến pháp 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: Nước Việt
Nam là nước thống nhất gồm nhiều dân tộc, các dân tộc trên đất nước Việt
Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Chính sách dân tộc của chúng ta
nhằm thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH,
trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV Đảng đã chỉ ra một cách
cụ thể hơn về giải quyết quan hệ dân tộc: “Chính sách dân tộc của Đảng là thực
hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện
cần thiết để xoá bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hoá giữa các dân
tộc ít người và đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng
thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc,
đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ "[2, tr 46].
Bước vào thời kì đổi mới, các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
9
VII, VIII, IX tiếp tục khẳng định tầm quan trọng chiến lược của vấn đề dân tộc.
Đặc biệt Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, trên cơ sở tổng kết 15 năm đổi mới và
kế thừa chủ trương, quan điểm của các kỳ đại hội trước, Đảng khẳng định: “Vấn
đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng. Thực hiện tốt chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát
triển”[3, tr78.]. Tại Hội nghị Trung ương bảy khoá IX, trên cơ sở nhận định sâu
sắc tình hình trong nước và thế giới cũng như tầm quan trọng của giải quyết quan
hệ dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng nhấn mạnh: Phát
triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa
bàn miền núi và dân tộc; tăng cường tăng trưởng kinh tế với giải quyết vấn đề xã
hội; thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển bồi dưỡng nguồn nhân
lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; gìn giữ và phát huy giá trị
và bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Cương lĩnh năm 2011 chỉ rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát
triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù
hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.”[4, tr 81].
Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng
các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực
hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống
10
kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc”[4, tr.244-245]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp
tục chỉ rõ “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[6, tr. 158].
Để cụ thể hóa các chủ trương, Nghị quyết của Đảng nhằm giải quyết tốt vấn
đề quan hệ dân tộc hướng đến mục tiêu “Bình đẳng - Đoàn kết - Giúp nhau”,
Chính phủ đã ban hành hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật gồm các Nghị định
của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; văn bản về phê duyệt các đề
án, chính sách; văn bản liên tịch giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ và văn bản của các
Bộ, cơ quan ngang Bộ. Đồng thời, cấp ủy, chính quyền các địa phương vùng dân
tộc đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch, dự án phù
hợp với điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội tộc người trên địa bàn. Có thể chia ra
hệ thống chính sách dân tộc làm 3 nhóm: nhóm chính sách chung cho cả dân tộc
thiểu số và đa số; nhóm chính sách dành riêng cho dân tộc thiểu số; và nhóm chính
sách cho một số dân tộc thiểu số đặc thù, thể hiện trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội, giáo dục, y tế, nguồn nhân lực... Từ đó tạo điều kiện giải quyết một số
vấn đề về quan hệ dân tộc đang đặt ra, góp phần tăng cường và củng cố khối đại
đoàn kết các dân tộc.
* Một số hạn chế trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở nước ta nhìn từ
thực tế hiện nay
Đến nay, đại bộ phận đồng bào các dân tộc đoàn kết, tin tưởng vào đường lối
đổi mới, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Vị thế chính trị, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu
số từng bước nâng lên. Một số dân tộc đã phát triển ngang bằng với dân tộc Kinh
và hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước. Trên một số lĩnh vực khoảng
cách giữa các dân tộc thiểu số, từng bước được thu hẹp.
Tuy nhiên, từ thực tế giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta những năm qua còn
bộc lộ những hạn chế bất cập, đặt ra cần tập trung giải quyết sau:
11
Thứ nhất, về các chính sách dân tộc
Chính sách dân tộc trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào những vấn đề
đối nội, giải quyết những vấn đề dân tộc trong phạm vi quốc gia, trong khi chưa
quan tâm đúng mức đến vấn đề đối ngoại và hội nhập quốc tế để giải quyết vấn đề
quan hệ dân tộc. Chưa có một cơ chế chính sách đủ mạnh để tuyên truyền chủ
trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta và những thành
tựu đạt được về công tác dân tộc; chưa chủ động, thiếu đối sách và chậm ứng phó
trong việc chống lại luận điệu tuyên truyền của các thế lực phản động vu cáo,
xuyên tạc các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
ta về các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền. Vấn đề tôn giáo ở các địa phương
vùng dân tộc trong thời gian gần đây gia tăng, có nhiều diễn biến phức tạp đã gây
ra những ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ giữa dân tộc, nhưng các chính
sách giải quyết vấn đề dân tộc chưa gắn với chính sách tôn giáo.
Thứ hai, vấn đề giàu, nghèo và đất sản xuất
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư nhiều vào vùng dân
tộc thiểu số, tuy nhiên đây vẫn là vùng nghèo nhất của cả nước; khoảng cách giàu
nghèo ngày càng lớn, chênh lệch về thu nhập và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu
số, miền núi so với vùng đồng bằng ngày càng gia tăng trong những năm gần đây.
Phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số sống tại các vùng khó khăn và đặc biệt khó
khăn. Một số dân tộc, đặc biệt là một số dân tộc ít người cư trú ở vùng cao, vùng sâu
miền Trung, Tây Nguyên... tỷ lệ hộ nghèo còn rất cao, điều kiện sống rất khó khăn,
trình độ phát triển thấp xa so với dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số vùng thấp.
Vấn đề nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số và gia tăng khoảng cách nghèo
giữa các dân tộc và giữa dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh đã và đang tác động, ảnh
hưởng rất lớn đến quan hệ giữa các dân tộc, nhất là quan hệ dân tộc thiểu số với
dân tộc Kinh. Phân tầng, phân hóa thu nhập, bất bình đẳng dễ dẫn đến làm chia rẽ,
mất đoàn kết và xung đột dân tộc, gây mất trật tự, an ninh nông thôn, bạo loạn và
12
bất ổn trong vùng dân tộc. Mặt khác, mặc dù vùng dân tộc và miền núi đất rộng,
người thưa, nhưng chủ yếu đất dốc, đất lâm nghiệp không có khả năng canh tác, vì
thế tình trạng thiếu đất canh tác ở vùng dân tộc là khá phổ biến. Nguyên nhân thiếu
đất về cơ bản là do quĩ đất canh tác có hạn; sức ép dân số gia tăng; tình trạng người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số bán đất, cầm cố đất; phát triển các doanh nghiệp,
nông, lâm trường, khai thác khoáng sản và gần đây là xây dựng các công trình thủy
điện, ... thiếu đất đã và đang là vấn đề bức xúc ở vùng dân tộc dẫn đến tranh chấp
đất đai diễn ra trên vùng dân tộc với nhiều loại hình khác nhau.
Thứ ba, về bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, thực hiện chủ trương đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hình thái cư trú tộc người đan xen, nhất là giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số
làm cho văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số mất dần, xu hướng đồng hóa
dân tộc và nguy cơ mất đi một số dân tộc. Mặt khác, thực hiện chính sách di dân,
xây dựng kinh tế mới, tình trạng di dân tự phát làm cho quá trình đan xen giữa các
tộc người ngày càng trở nên phổ biến ở các vùng dân tộc đã và đang làm mai một,
mất dần bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, xu hướng Kinh hóa
ngày càng rõ nét và phổ biến trong vùng dân tộc nước ta như: trang phục, kiến trúc
nhà ở truyền thống, tiếng nói...
Thứ tư, về chất lượng nguồn nhân lực của các dân tộc.
Chất lượng nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số nói chung, chất lượng, số
lượng cán bộ là người các dân tộc thiểu số thấp hơn so với mặt bằng chung và so
với người Kinh. Nhiều dân tộc chưa có cán bộ chủ chốt trong các cơ quan quản lý
nhà nước ở các cấp của chính quyền địa phương. Trình độ chuyên môn nhìn chung
còn thấp. Cán bộ là người dân tộc thiểu số chủ yếu công tác trong các cơ quan văn
hóa, thể thao, mặt trận, tổ chức hội. Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số giữ các chức vụ,
làm công tác chuyên môn về kế hoạch, tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin
13
còn thấp. Năng lực, hiệu quả thực thi công vụ hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
quản lý nhà nước và xử lý các tình huống, nhất là các vấn đề phát sinh ở cơ sở.
Thứ năm, vấn đề chia tách, xác định lại thành phần, tên gọi một số dân tộc
Hiện nay, căn cứ pháp lý của Bản danh mục thành phần dân tộc nước ta có 54
dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, thời gian gần đây nhiều địa
phương, cộng đồng và trí thức người dân tộc thiểu số đề nghị Nhà nước xác định
lại thành phần, tên gọi một số dân tộc. Việc xác định tên gọi, thành phần dân tộc là
một căn cứ quan trọng, để giải quyết quan hệ giữa các dân tộc, từ đó có người đại
diện, có tiếng nói của dân tộc mình trong các tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội và
thực hiện các chính sách bảo tồn văn hóa dân tộc,... Tuy nhiên, việc chia tách các
dân tộc thành quá nhiều dân tộc nếu không nhận thức và giải quyết đúng có thể
biểu hiện chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và làm phát sinh các vấn đề phức tạp trong
quản lý xã hội đa tộc người như nước ta.
Thứ sáu, vấn đề truyền đạo trái phép, phát triển tôn giáo mới và các tệ nạn xã hội.
Trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động, đời sống đồng bào còn nhiều khó
khăn, lợi dụng chính sách mở cửa, chính sách dân tộc, tự do tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta, các thế lực thù địch tìm cách tranh thủ, lôi kéo đồng bào dân tộc theo
các tôn giáo mới, tập hợp lực lượng, kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, chống phá chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Ở một số tỉnh miền núi tỷ lệ người nghiện ma túy khá cao. Tình trạng lây
nhiễm HIV/AIDS đã đã xuất hiện ở những bản làng vùng sâu, vùng xa mà trước đây
vốn rất yên bình. Tình hình ma túy và HIV đã và đang tác động, làm xáo trộn lớn
đến đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Hiện đã xuất hiện các tệ nạn trộm
cắp, cướp giật... biến đổi về đạo đức, lối sống trong gia đình và nhiều hệ lụy khác do
ma túy gây ra tác động ảnh hưởng đến đời sống, xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.
Thứ bảy, về chủ nghĩa bản địa xuyên biên giới và vấn đề bạo loạn, bất ổn
trong vùng dân tộc.
14
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, chúng ta thực thi những cam kết, công ước
của cộng đồng quốc tế về nhân quyền, ngôn luận, về dân tộc thiểu số, về người bản
địa, chính sách nhập cư, đi lại,... Lợi dụng cơ hội này, các tổ chức thù địch, phản
động tích cực thực thi học thuyết chủ nghĩa bản địa xuyên biên giới, nhằm tập hợp,
lôi kéo, kích động, khơi dậy những thù hằn, nghi kỵ trong cộng đồng dân tộc, chia
rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, cổ vũ tư tưởng ly khai, chia cắt toàn vẹn lãnh thổ,
chống phá chế độ XHCN của nước ta.
* Một số giải pháp cơ bản trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở nước ta
hiện nay
Những bất cập đang đặt ra hiện nay về giải quyết quan hệ dân tộc cần phải có
những hệ giải pháp đồng bộ, toàn diện. Trong khuôn khổ bài thu hoạch này, chúng
tôi cho rằng cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, xây dựng và phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết
dân tộc trở thành động lực xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng những khó khăn về đời sống kinh
tế, hạn chế về nhận thức của đồng bào dân tộc để gieo rắc những tư tưởng bất bình
đẳng dân tộc nhằm gây nên những vụ xung đột, hiềm khích nghi kỵ lẫn nhau để
phá hoại khối đoàn kết, gây mất ổn định chính trị. Bởi vậy, phải nâng cao cảnh
giác, đồng thời tiếp tục gìn giữ và phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn
kết của dân tộc, coi đó là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động
lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cho nên“hơn bao giờ hết, phải phát huy cao độ
lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, nêu cao ý chí và bản lĩnh dân tộc, giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đoàn kết toàn Đảng, toàn
dân vì sự phát triển đất nước”[5, tr.222]. Đảng, Nhà nước cần đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc để giảm sự chênh lệch về đời sống kinh tế, trình
độ văn hóa, đảm bảo bình đẳng giữa các dân tộc. Đồng thời, đề ra những biện pháp
nhằm chặn đứng âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, củng cố an ninh,
15
quốc phòng, đưa đất nước tiến nhanh, vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, nhận thức và giải quyết quan hệ dân tộc trên quan điểm giai cấp, kiên
trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Giải quyết quan hệ dân tộc luôn đảm bảo lợi ích của các dân tộc về mọi mặt
trên cơ sở đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục... sao cho dân tộc nào
cũng được ấm no, hạnh phúc, nhất là các dân tộc ở vùng sâu vùng xa, vùng khó
khăn. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nêu lên:“đại đoàn kết toàn dân
tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên
trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”[6, tr.
159]. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc cũng như từng dân tộc theo nguyên tắc "bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”, đồng thời chống kỳ thị
dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, cực đoan dân tộc, khắc phục
tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc. Giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa các dân tộc
để tránh xung đột, hiềm khích dân tộc.
Để phát huy sức mạnh dân tộc phải đặt đoàn kết dân tộc lên hàng đầu,đoàn kết
dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức, coi đó là nhiệm vụ chiến lược sống còn của cách mạng Việt
Nam. Bởi vì, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chỉ có đoàn kết mới có thể đứng
vững, mới tránh được thảm hoạ xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo... đó cũng là
nhân tố đảm bảo thành công cho công cuộc đổi mới và đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay.
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam về ngôn ngữ, văn hoá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tiếng Việt là công cụ giao tiếp chung của tất cả các tộc người trên lãnh thổ
Việt Nam. Tiếng Việt là “ngôn ngữ phổ thông” có vai trò Quốc ngữ trong hệ thống
16
giáo dục của đất nước, trong hoạt động khoa học, kỹ thuật, trong các hoạt động
truyền thông nói chung để tiếp thu tri thức, tiếp nhận kiến thức cùng nhau xây
dựng và bảo vệ đất nước. Mặt khác, ngôn ngữ của cộng đồng các dân tộc thiểu số
được giữ gìn, góp phần làm giàu thêm nền văn hoá hết sức đa dạng của Việt Nam.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ làm cho nhiều giá trị văn hoá truyền
thống dễ bị xói mòn, thậm chí biến dạng. Vùng dân tộc, miền núi, nông thôn xưa
nay vẫn được coi là không gian rộng lớn chứa đựng và lưu giữ nhiều giá trị văn hóa
tộc người cũng sẽ dần dần bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá. Do vậy, Đảng, Nhà
nước, các cấp, các ngành, các địa phương, dân tộc cần có chính sách, biện pháp bảo
tồn, phát huy những giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc. Do đó, phải tiến hành “xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”[6, tr. 127].
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc trên cơ sở tôn
trọng phong tục tập quán, khởi dậy những giá trị văn hoá truyền thống của mỗi dân
tộc, đồng thời bài trừ những hủ tục lạc hậu. Không ngừng tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số tiếp thu và hưởng thụ những giá trị văn hoá tiên tiến của nhân loại thông
qua các hình thức tuyền truyền, sách báo, phim ảnh. Giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội vùng dân tộc. Đẩy mạnh công tác kiểm tra hướng dẫn các ngành
các cấp thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc.
Bốn là, giải quyết quan hệ dân tộc phải nhận thức được cái chung và cái
riêng Việt Nam trong một quốc gia đa dân tộc, trong quá trình mở rộng và hội
nhập quốc tế nhằm đảm bảo cho sự ổn định và phát triển vững chắc đời sống kinh
tế - xã hội của đồng bào dân tộc và miền núi.
Các dân tộc ở nước ta chủ yếu sống ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo
nên có vô vàn khó khăn trở ngại trong phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, mỗi
dân tộc ở nước ta đều có những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, phong tục
tập quán, tâm lý. do đó cũng có những yêu cầu phát triển khác nhau. Do vậy, giải
17
quyết quan hệ dân tộc phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất
là các dân tộc thiểu số. Để các dân tộc có điều kiện phát triển, phải xác định được
những công việc thiết thực phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của từng dân tộc,
nhằm tạo bước đột phá nhưng vẫn đảm bảo là nền tảng vững chắc cho sự phát triển
kinh tế xã hội lâu dài, cần tránh những sai lầm rập khuôn và chủ quan áp đặt những
chính sách và hình thức tổ chức không phù hợp. Đồng thời, chính sách dân tộc
không chỉ tập trung vào những vấn đề đối nội, giải quyết những vấn đề dân tộc
trong phạm vi quốc gia mà cần quan tâm đúng mức đến vấn đề đối ngoại và hội
nhập quốc tế để giải quyết vấn đề quan hệ dân tộc. Khi thực hiện những chủ
trương, chính sách phải có sự theo dõi chặt chẽ, thường xuyên để đi đến kết quả
cuối cùng, tránh chung chung, nửa vời, nhưng cũng không nên chủ quan, nôn nóng
mà phải thận trọng, kiên trì.
Năm là, tăng cường hơn nữa khối đoàn kết dân tộc trên nguyên tắc "bình
đẳng, đoàn kết, tượng trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển".
Giải quyết quan hệ dân tộc phải luôn luôn thấu triệt quan điểm “bình đẳng,
đoàn kết cùng phát triển” theo tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước. Tinh thần
đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chính sách dân tộc của Đảng. Trong giai đoạn
hiện nay, truyền thống đoàn kết tiếp tục được Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh và
bổ sung thêm những nội dung mới. Đoàn kết ở đây không phải là đoàn kết chung
chung mà là đoàn kết gắn với bình đẳng và phát triển giàu mạnh. Thực hiện chính
sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo điều kiện cho các dân tộc
phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ gắn bó mật thiết với sự phát triển chung
của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hoá, ngôn ngữ,
tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp
hòi, kì thị và chia rẽ dân tộc. Cần có các chính sách dân tộc đặc thù, phát triển mối
quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp
nhau cùng phát triển. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đề ra:“Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết,
18
giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển
biến rõ nét trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
nhất là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung”[6, tr.
164]. Trong điều kiện một nước đa dân tộc như nước ta, bình đẳng, đoàn kết chính là
sức mạnh to lớn, làm nên thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước.
Sáu là, tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò công tác dân tộc.
Kiện toàn và chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức cơ quan làm công tác dân tộc
từ trung ương đến cơ sở. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị,
các cấp, các ngành và toàn thể xã hội về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của công tác
dân tộc trong tình hình mới. Tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ
làm công tác dân tộc để làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa
phương trong việc thực hiện chính sách dân tộc. Một số bộ, ngành cần tổ chức bộ
phận và có cán bộ chuyên trách làm công tác dân tộc.
Tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm thực hiện tốt
công tác dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Nâng cao hơn nữa vai trò của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia triển khai, thực hiện
công tác dân tộc. Có chính sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai
trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thực hiện công tác dân tộc
của Đảng và Nhà nước.
Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc;
quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững
chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng địa
phương. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa phải quán
triệt và thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận: "Trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, có trách nhiệm với dân" luôn gắn chặt không tách rời với cách tiếp
cận dân "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".
Tóm lại: Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng
thông qua cái gọi là “dân chủ”, “nhân quyền”, “quyền dân tộc tự quyết” để thực
19
hiện “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ đối với Việt Nam. Chúng đã dung túng,
tiếp tay cho bọn phản động người Việt ở hải ngoại; hỗ trợ, kích động, chỉ đạo các
phần tử phản động trong các dân tộc thiểu số ở trong nước tổ chức hoạt động
chống phá cách mạng nước ta. Hoạt động phá hoại của chúng đã gây không ít khó
khăn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. Trong quá trình hội
nhập quốc tế, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề quan hệ dân tộc để
chống phá cách mạng Việt Nam. Lợi dụng những khó khăn về đời sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, những thiếu sót trong việc thực hiện chính sách và một số yếu
kém của hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi để chống phá và gây mất ổn định
vùng dân tộc thiểu số. Vì vậy, phải nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền dân tộc tự quyết trong giải quyết các quan hệ dân
tộc ở nước ta; đó là quyền quyết định vận mệnh chính trị, đường hướng phát triển
của các dân tộc anh em và phải đặt vấn đề dân tộc một cách cụ thể về mặt lịch sử
trong thực hiện chiến lược xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Do đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, nhất là lực lượng vũ trang cách
mạng phải nắm vững quan điểm, nguyên tắc và thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ
bản trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới. Không
ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tỉnh táo, kịp thời phát hiện và chủ
động đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để chống
phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, góp phần tích cực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính sách và pháp luật của Đảng và nhà nước về vấn đề dân tộc , Nxb Văn
20
hóa dân tộc, H.2000. tr.46
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV,
Nxb CTQG. Hà Nội, 1976. tr.46.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG. Hà Nội, 2001. tr.78.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb CTQG. Hà Nội, 2011. tr.81, 244, 245.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận – thực
tiễn qua 30 năm đổi mới (1986- 2016), Nxb CTQG, Hà Nội, 2015. tr. 222
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb CTQG. Hà Nội, 2016. tr. 127, 158, 159, 164.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 4, tr.592, 593
8. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, Nxb CTQG, H.1996, tập 2.
9. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, tập 23, tr. 225, 375.
21